Hoa Nghiêm- Huyền Môn

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 32 - 9/. Chư pháp tương tức tự tại môn.- Tương tức, Tương Nhập, Tương Ứng,Tương Dung.

Chư Pháp Tương Tức Tự Tại môn: Mang ý nghĩa Một là tất cả. Tất cả là một. Lớn nhỏ, rộng hẹp chỉ là những danh từ tương đối, vì không có vật nào tuyệt đối lớn hoặc tuyệt đối nhỏ.

Đối với Phật thì đại thiên thế giới tức 1.000.000.000 thế giới như Thái dương hệ của chúng ta cũng chẳng lớn gì, vì trong vũ trụ bao la vô cùng tận, nó chỉ là một hạt cát nhỏ trong những đống cát của sông Hằng. Vì thế mà Đức Phật đã dạy: “Trên đầu sợi lông hiện ra mười phương quốc độ, ngồi trong hạt bụi mà chuyển đại pháp luân”. Ý Phật muốn nói đến lý bình đẳng, tuyệt đối, vô sai biệt giữa các pháp trên trần thế. Sự sai biệt giữa lớn và nhỏ không còn nữa nếu ta từ bỏ được lối nhìn sự vật ở bên ngoài, chỉ hướng tầm mắt nhìn vào bản thể bên trong mà quan sát sẽ thấy rõ sự sự vật vật trong khắp pháp giới đều viên dung, bình đẳng, tự tại, vô ngại.

Cái này là cái kia, cái kia là cái này. Nước là sóng, sóng là nước. Vàng là sư tử, sư tử là vàng.
vongtron.jpg

Chúng ta có thể khái quát:

- Cánh cửa thứ nhất là Tương Ứng . Đồng thời cụ túc tương ứng môn là cùng một lúc tới với nhau. cùng một lượt tới với nhau và làm thành nhau .

- Cánh cửa thứ hai là Tương Thâu hayTương Nhiếp . Nhìn khơi khơi thì thấy cha ở ngoài con và con ở ngoài cha. Nhưng nhìn cho sâu thì thấy cha ở trong con và con ở trong cha. Nhìn bề ngoài là nhìn theo một trật tự tức là ta thấy ánh sáng nằm ngoài mặt trời, bông hoa nằm ngoài mặt trời, và hai cái đó không dính líu gì tới nhau hết. Đó là trật tự ngoại nhiếp. Nhìn cho kỹ thì ta thấy các cái nằm trong một cái, trong con có cha, trong cha có con. Đó là trật tự nội nhiếp.

- Cánh cửa thứ ba là Tương Nhập hay Tương Dung. Đây là danh từ của các nhà vật lý học có hương vị của Hoa Nghiêm. Cái một chứa đựng cái tất cả. Nhất đa tương dung bất đồng môn . Cái một chứa đựng cái tất cả, cái tất cả chứa đựng cái một.- Đây là Cái một chứa đựng cái tất cả. cái tất cả chứa đựng cái một.
Tương nhập nghĩa là trong cái này có cái kia và trong cái kia có cái này. Ví dụ nhìn vào cái bát ta có thể thấy người thợ gốm, nhìn người thợ gốm ta có thể thấy cái bát.
- Cánh cửa thứ tư là Tương Tức: nghĩa là cái này là cái kia, cái kia là cái này.Ví dụ sóng là nước, nước là sóng. Không có cái này thì không có cái kia. Ý nghĩa căn bản là: cái này có thì cái kia có.

Nghĩa là cái này cũng tức là cái kia. Như kinh Bát nhã nói "sắc tức thị không, không tức thị sắc". Bởi vì "Sắc" là NHƯ mà "không" cũng là NHƯ nên "tương tức".- Cái này là cái kia, cái kia là cái này. Nước là sóng, sóng là nước. Cái này là cái kia, chúng ta tức là nhau.

khi nhìn vào một tờ giấy, bạn sẽ thấy một đám mây bay trong ấy. Vì không có mây thì không có mưa, không có mưa thì cây cối không mọc được, và nếu không có cây thì làm sao có tờ giấy này trong tay bạn? Cho nên tờ giấy có mặt là vì đám mây có mặt, không có mây thì không có tờ giấy. Đám mây và tờ giấy phải nương vào nhau để hiện hữu, Do đó, tờ giấy tuy rất mỏng nhưng chứa đựng cả vũ trụ trong lòng nó.- Cái đó gọi là tương tức.

* Cặp khái niệm tương tức, tương nhập của giáo nghĩa Hoa Nghiêm triển khai giáo lý Duyên khởi, nhấn mạnh việc mọi sự mọi vật đều chứa đựng nhau, giao tiếp với nhau không trở ngại tuy có sự đa tạp trong thế giới hiện tượng.

Hỏi: Nếu tương tức lại tương nhập thành vô tận lại vô tận như vậy thì đây và cảnh giới vô cùng trùm khắp. Đâu là thủy, là chung, là nhân, là quả?
Đáp: Đây là căn cứ vào thể tánh pháp giới duyên khởi mà thành vô tận lại vô tận. Nên trước, sau, nhân, quả chẳng mất. Tuy chẳng mất trước sau nhưng trước sau tương tức lại tương nhập mà thành vô tận. Vì trước sau tương tức lại tương nhập nên khi mới phát tâm liền thành chánh giác.Nên kinh này tán thán công đức của người mới phát tâm “Nhất niệm công đức kia sâu rộng không có ngằn mé. Như Lai phân biệt nói cùng kiếp cũng chẳng thể hết”. Đây để rõ một tức tất cả, thành tất cả vô tận. Lại nói “Hà huống trong vô lượng, vô số, vô biên kiếp, tu đầy đủ các hạnh công đức của các độ và các địa”.

Tóm lại: Giáo lý kinh Hoa Nghiêm.- Chư Pháp Tương Tức Tự Tại môn: Trọng tâm nói về Thế giới Bản Thể.- Nơi ấy: Mọi sự mọi vật đều chứa đựng nhau, giao tiếp với nhau không trở ngại, chúng Tương tức, Tương Nhập, Tương Ứng,Tương Dung.
(Thích Đức Nhuận)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 33 - 10/. Thập thế cách pháp dị thành môn

Trong giấc mơ mà ta thấy được những việc quá khứ, hiện tại và vị lai đều xuất hiện. Cùng một lúc con người đùa giỡn với chính mình trong những khoảng không gian và thời gian khác nhau. Con người ở kiếp này chịu ảnh hưởng của kiếp trước và nhiều kiếp trước nữa, không những chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh trên mặt đất mà còn phải chịu ảnh hưởng của vũ trụ không gian. “Vạn vật đồng nhất thể”. Những vũ trụ tuyến do các tinh cầu phát ra cực mạnh và lan đến ta, đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ta nhiều hay ít. Trong vũ trụ, mọi sự kiện đều tương đối và giả danh cả.Trong lý vô ngã, vô thường, không gì ngắn bằng một đời người, và không gì dài hơn một vài phút ngóng đợi người thân.

Thi sĩ Tản Đà, trong một giây phút nhập thần, ông đã viết những câu thơ bất hủ :

“Người đời thử ngẫm mà hay,
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
Còn ai, ai tỉnh hay mê?
Những ai thiên cổ đi về những đâu!..”

Trong mấy mươi tông phái của thời kỳ đạo Bụt Bộ phái, có tông phái chủ trương: Chỉ có hiện tại, không có quá khứ và tương lai, và hiện tại thì sinh diệt từng sát na. Nhưng có tông phái nói: Có hiện tại, nhưng quá khứ cũng có và tương lai cũng có. Phái Hữu Bộ nói: Tam thế hằng hữu. Nghĩa là ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai luôn luôn có đó, không mất đi đâu hết.

Vấn đề thời gian là một vấn đề lớn, cho nên các tông phái, các bộ phái đạo Bụt đều đề cập tới.

Cánh cửa thứ 10 này cho chúng ta thấy giáo lý tương tức giữa ba đời rất rõ. Nhìn vào các pháp thì thấy thời gian trong đó. Nhìn vào không gian thì thấy thời gian trong đó. Thời gian ôm không gian và không gian ôm thời gian. Có sự tương tức giữa không và thời. Nói thời gian mà không nói các pháp thì làm sao nắm được thời gian? Chính khi nhìn các pháp mới thấy được thời gian. Nói về thời gian là nói về không gian và các pháp. Nói về thời gian là nói về ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Mỗi thời trong ba thời đều có cả ba thời. Đây là hiện tại, trong hiện tại có quá khứ, hiện tại và vị lai; đây là quá khứ, trong đó có quá khứ, hiện tại và vị lai; đây là vị lai, trong đó có vị lai, quá khứ và hiện tại. Nhìn vào ba thời, theo lý tương tức, chúng ta thấy có chín thời. Chín thời đó, tuy chia ra như vậy nhưng nhìn kỹ thì nó tương tức nên có thời tổng hợp thứ mười, gọi là thập thế (mười thời). Nhìn một pháp qua mười thời thì mới thấy được pháp đó.

Thập thế cách pháp dị thành môn có nghĩa là các pháp khác nhau (dị) được thành lập (thành) riêng biệt khác nhau (cách) nhưng nó chia sẻ chung cả mười thời (All things variously arise through the oneness of the ten times). Đó là ý niệm tương tức giữa thời gian và các pháp. Thời gian làm gì có nếu không có các pháp? Chính là nhờ có các pháp và nhìn vào các pháp mà ta thấy được thời gian và tính tương tức của nó.

THẬP THẾ CÁCH PHÁP DỊ THÀNH MÔN (Môn thập thế cách pháp riêng thành)

Đây ứng vào tam thế mà nói. Như phẩm Ly Thế Gian nói “Thập thế là, quá khứ nói quá khứ, quá khứ nói vị lai, quá khứ nói hiện tại, hiện tại nói hiện tại, hiện tại nói vị lai, hiện tại nói quá khứ, vị lai nói vị lai, vị lai nói quá khứ, vị lai nói hiện tại. Tam thế là nhất niệm, hợp với chín thứ trước đó làm thành thập (10) vậy”. Như vậy THẬP THẾ nhờ lực duyên khởi nên tương tức lại tương nhập mà chẳng mất tam thế. Như năm ngón tay làm thành bàn tay mà chẳng mất ngón tay. Thập thế tuy đồng thời mà chẳng mất thập thế. Nên kinh nói “Kiếp quá khứ nhập vị lai. Kiếp hiện tại nhập quá khứ. Kiếp vị lai nhập hiện tại”. Lại nói “Trường kiếp nhập đoản kiếp. Đoản kiếp nhập trường kiếp. Hữu kiếp nhập vô kiếp. Vô kiếp nhập hữu kiếp”. Lại nói “Quá khứ là vị lai. Vị lai là quá khứ. Hiện tại là quá khứ. Bồ Tát đều liễu tri”. Lại nói “Vô tận vô số kiếp có thể chỉ là nhất niệm chẳng dài chẳng ngắn. Sở hành của người giải thoát là vậy”. Thập thế tương nhập lại tương tức mà chẳng mất các tướng trước, sau, dài, ngắn nên nói CÁCH PHÁP DỊ THÀNH. 10 môn giáo nghĩa, lý sự … tương tức tương nhập mà chẳng mất tướng sai biệt trước sau nên gọi là DỊ THÀNH vậy.

Thập thế cách pháp dị thành

Cái gì đã gieo trong lòng người cái cảm giác về thời gian? Sự trưởng thành và thôi thức. Từ cảm giác ấy người ta nhận ra vạn hữu vận chuyển liên tục, và tất cả ý nghĩa của sinh thành và hủy diệt. Bằng vào thời gian, người khám phá ra chiều sâu thẳm của vạn hữu. Vạn hữu được kết hợp theo chiều ngang, trong thế giới ngoại tại, trong một trật tự đã được an bài ở đó. Đồng nhất tính và dị biệt tính của vạn hữu mà chúng ta thể hiện được ở chiều ngang không bộc lộ một căn cơ mà chúng ta muốn thấy.

Cái căn cơ ấy phải tìm ở chiều dọc; đấy gọi soi thấu vào bản tính hiện hữu và tồn tại của vạn hữu. Nơi đây, đồng nhất và dị biệt tính mới nói lên chiều hướng và ý nghĩa của thế giới; chúng mới cho ta quyết định mệnh lịch sử nội tại của thế giới. Đồng nhất với chính nó và dị biệt với chính nó; có thấy được như vậy, ta mới thấy hiện hữu xuất hiện như thế nào trong một vị trí xen chừng như cố định. Từ sự thấy biết ấy, chúng ta thiết lập trật tự cho thế giới một cách tự tại.

Sự phản chiếu của vạn hữu có vẻ như là tạp loạn, nếu sự kết hợp của chúng chỉ diễn ra torng chiều ngang của thế giới ngoại tại. Như vậy, phân tích thể cách hiện hữu của vạn hữu qua sự tướng của thời gian là phương pháp tiến vào tận căn cơ sâu thẳm của chúng, ở đó người ta tìm thấy căn cơ của tác dụng chính là tác dụng. Giống như dòng trôi chảy liên tục của nước, tự nó vạch ra một lòng sông cho chính nó. Nghĩa là nó tự chứa đựng lấy nó,bằng căn cơ nội tại của chính nó. Tự bao hàm, tự phản chiếu, đồng thời bao hàm và phản chiếu tất cả những cái khác, trật tự của thế giới là một quy củ bất động của biến động.

Sau đây là phân tích điển hình của luận thuyết A tì đàm về nhân quả tính trong trình tự của thời gian. Người ta nói, sự liên hệ của nhân quả sẽ cho phép phân chia các giai đoạn tồn tại: tồn tại trong thể cách quá khứ, vì tác dụng đã chấm dứt; tồn tại trong thể cách hiện tại vì tác dụng đang diễn ra; và tồn tại trong vị lai, vì căn nhân đã thâý có ở hiện tại. Trong trình tự diễn tiến này, thời gian được quan niệm như một thế lực nội tại, nó thôi là các sụ thể khởi lên và biến mất. Thế lực đó lại được hiểu như là chính năng lực tác dụng của nhân quả. Một vật được ném lên không trung, tức thì rơi trởxuống; thí dụ này ám chỉ cho thế lực nhân quả, gây ảnh hưởng tác dụng trên thể cách tồn tại của sự vật.

Trong nhân có hai thế lực mênh danh nội tại và ngoại tại, chúng thúc đẩy sự thành hình của một kết quả. Tất cả sự xuất hiện trong hiện tại được quan niệm như là hiệu quả của một thế lực đã đi vào quá khứ, và chính nó đang là thế lực, gây hiệu quả vị lai. Nếu là thế lực ngoại tại, chúng ta biết rằng đó là mối quan hệ tương thành và tương hoại của các sự thể hiện hữu bằng tính cách tương tục và tương tợ. Tương thành và tương hoại là quan hệ giữa cái này và những cái khác theo chiều ngang. Tương tục và tương tợ là mối quan hệ của một sự thể với chính nó, theo chiều dọc.

Từ trên, chúng ta tạo ra được một quan niệm về thời gian do tương tục và tương tợ, ta nhận ra tính cách vận chuyển tiếp nối của một sự thể. Rồi do tương thành và tương hoại, ta lại nhận ra rằng mỗi khi nói sự thể xuất hiện ở đó tức là xuất hiện trong một vị trí cố định. Nói cách khác, chính tác dụng vừa nội tại vừa ngoại tại của một sự thể mà ta nhận ra thời gian tính của nó.

Tuy nhiên, phân tích điển hình về thời gian tính của sự vật như vừa nói đã tạo ra một giới hạn quá chặt chẽ, cho nên cái đã qua là qua luôn, vĩnh viễn ly cách với cái đang có đó và sắp có đó. Trong phạm vi thông tục, giới hạn phân biệt ấy chẳng có gì gọi là quá đáng; nó lại còn tiện lợi cho các hoạt động theo mục đích thế gian. Nhưng trên lĩnh vực tuyệt đối, ở đó người ta muốn chiêm ngưỡng thế giới trùng trùng vô tận, giới hạn phân biệt như thế trở thành những chướng ngại. Thứ nhất là chướng ngại vì khả năng truyền thông của ngôn ngữ. Chướng ngại thứ hai là không thể quy chiếu tất cả các hoạt động thường nhật vào một chiều hướng duy nhất. Cả hai chướng ngại có thể được diễn tả bằng một thí dụ, viết, đọc và lĩnh hội. Những cái được viết và đọc tất nhiên phải diễn tiến trong một trật tự mà các vị trí đều được quy định minh bạch. Nhưng nếu trật tự này không biến mất, thì sự lĩnh hội không thể có. Vì vậy, người ta phải quy định rằng, chỉ có thể nói được phần nhân, còn phần quả thì không thể. Nghĩa là, chúng ta có đủ các tiêu chuẩn, các nguyến tắc để thiết lập thế giới vô tận, nhưng kết quả của sự thiết lập đó thì không thể diễn tả được.

Nơi đây, ta có thể diễn tả bằng một thí dụ khác. Giả sử ta muốn truyền thông một thế giới quan nào đó trong kiến giải cá biệt của riêng ta. Tiên khởi, chúng ta nhận định, bằng một nhãn quan như vậy, phải đối trị như thế nào, và cũng tiên liệu luôn cả ảnh hưởng của sự đối trị đó. Hiệu lực của ảnh hưởng này sẽ gợi lên một nhãn quan khác mà ta thấy còn trong phạm vi cần phải đối trị. Cứ theo trật tự diễn tiến, chúng ta hoạch định được tất cả chiều hướng của diễn tiến, và biết cách phân phối thế nào để cuối cùng đạt được kết quả trong chủ đích của mình; tức là, cái thế giới quan cá biệt của ta phải được lĩnh hội như thế nào mới đáng gọi là triệt để.

Chúng ta thấy rõ, sự lĩnh hội chỉ diễn ra trong tri kiến trực khởi, trong đó, mọi giới hạn phân biệt của thời gian đều ngưng tụ thành một điểm đồng thời. Điểm đó gọi là Thập thế cách pháp dị thành. Thập thế là mười giới hạn phân biệt của thời gian:

  • Quá khứ của quá khứ
  • Hiện tại của quá khứ
  • Vị lai của quá khứ
  • Quá khứ của hiện tại
  • Hiện tại của hiện tại
  • Vị lai của hiện tại
  • Quá khứ của vị lai
  • Hiện tại của vị lai
  • Vị lai của vị lai
  • Đồng thời của chín thời trên.

Vạn hữu vừa tự chiếu và phản chiếu lẫn nhau, nhưng trật tự của chúng trong các giới hạn thời gian vẫn không trở thành rối loạn, do đó, chúng có thể thành tựu cá thể dị biệt lẫn nhau.

Thời gian là khái niệm trừu tượng, nếu không muốn nói là giả tưởng, mà vẫn tự chiếu và phản chiếu của các sụ thể được gọi là cụ thể, như tác dụng tự chiếu của các sự thể này. Như vậy, thế giới vô tận vừa như một hình ảnh để chiêm ngưỡng, vừa chính là thực tại sống động ngay trong đời sống cá biệt của mỗi người. (phỏng theo HT. Th Nhất Hạnh)

mat trời.jpg
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 34 - 10/. Thập thế cách pháp dị thành môn - Thật Tướng: Thời gian & Không gian:

TT.Thích Tâm Thiện .- có bài viết về Tam tế:
Tế là biên tế trước sau mà tiếng Phạn gọi là pùrvàpara-koti-parĩksa. Tam tế là ba ranh giới phân biệt như khởi thủy, hiện hành và chung cuộc, hay đằng trước, ở giữa và đằng sau. Ðây là một khái niệm được dùng chỉ cho sự không thể phân định về thời gian và không gian.

Thông thường, con người quan niệm rằng có sự khởi thủy và có sự kết cuộc trong dòng sinh thức, cho dù đó là dòng sinh thức đang trầm luân. Nhưng trái lại, Ðức Phật dạy dòng sinh thức ấy là vô thủy (không có khởi đầu) và vô chung (không có kết thúc). Tất cả đều đang vận hành, như là sự vận hành của thế giới thực tại. Ðó là một sự vận hành luân lưu bất tuyệt mà tri thức của con người sẽ không bao giờ đạt đến, trừ phi nó chấm dứt toàn bộ cơ cấu điều động trong thế giới đối lập và tương quan của căn, trần và thức. Vì thế, trong sự trôi chảy của dòng thực tại, không có cái gọi là quá khứ, hiện tại, vị lai, đằng trước, ở giữa, đằng sau v.v...

Sự phân định về biên của cả không gian và thời gian là điều được sinh khởi trong ý niệm. Nó chỉ có trong ý niệm, chứ không có trong thực tại. Vả lại, không gian và thời gian bản chất của nó vốn không có tự tính và không có thực thể. Do đó, mọi ý niệm về nó đều mang tính chất công ước. (hết trích)

Trong mỗi sát na (đơn vị thời gian rất ngắn- tương đương 1 cái chớp mắt) có chia thành ba thời, quá khứ, hiện tại và vị lai và mỗi thời (đã chia trên) đều chứa đựng quá khứ, hiện tại và vị lai.- Tất cả đều có 3 x 3 = 9 làm vị trí, do đó lập thành chín thời.
Chín thời này gom lại thành một pháp môn (cửa ngõ của pháp) duy nhất.
Tuy là chín thời nhưng mỗi thời đều có tướng cách biệt (Cách Pháp).
Vì tất cả đều được thành lập một cách dung thông vô ngại nên tất cả đều có mặt chung trong một niệm (khoảnh khắc thời gian ngắn nhất.).- Trong kinh nói "Trong một sát na có 60 niệm khởi".- Niệm mới là đơn vị thời gian ngắn nhất-.Cái này gọi là Thập Thế Cách Pháp Dị Thành Môn.
Nói về “sự thành tựu từ đa thù của 10 thời gian tạo thành một thực thể”. Quá khứ, hiện tại, và vị lai, mỗi thời đều chứa đựng ba thời, như thế tạo thành 9 thời, chúng hợp lại thành một thời duy nhứt – chín và một, tất cả là mười thời.
Mười thời, tất cả đều khác biệt, nhưng nhiếp nhập lẫn nhau, hoàn thành cái lý tắc một trong tất cả.

HT. Nhất Hạnh có lời giải:

Cánh cửa thứ 10 này cho chúng ta thấy giáo lý tương tức giữa ba đời rất rõ. Nhìn vào các pháp thì thấy thời gian trong đó. Nhìn vào không gian thì thấy thời gian trong đó. Thời gian ôm không gian và không gian ôm thời gian. Có sự tương tức giữa không và thời. Nói thời gian mà không nói các pháp thì làm sao nắm được thời gian? Chính khi nhìn các pháp mới thấy được thời gian. Nói về thời gian là nói về không gian và các pháp. Nói về thời gian là nói về ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Mỗi thời trong ba thời đều có cả ba thời. Đây là hiện tại, trong hiện tại có quá khứ, hiện tại và vị lai; đây là quá khứ, trong đó có quá khứ, hiện tại và vị lai; đây là vị lai, trong đó có vị lai, quá khứ và hiện tại. Nhìn vào ba thời, theo lý tương tức, chúng ta thấy có chín thời. Chín thời đó, tuy chia ra như vậy nhưng nhìn kỹ thì nó tương tức nên có thời tổng hợp thứ mười, gọi là thập thế (mười thời). Nhìn một pháp qua mười thời thì mới thấy được pháp đó.

Thập thế cách pháp dị thành môn có nghĩa là các pháp khác nhau (dị) được thành lập (thành) riêng biệt khác nhau (cách) nhưng nó chia sẻ chung cả mười thời (All things variously arise through the oneness of the ten times). Đó là ý niệm tương tức giữa thời gian và các pháp. Thời gian làm gì có nếu không có các pháp? Chính là nhờ có các pháp và nhìn vào các pháp (không gian cũng là 1 pháp) mà ta thấy được thời gian và tính tương tức của nó.
....
Trong mấy mươi tông phái của thời kỳ đạo Bụt Bộ phái, có tông phái chủ trương: Chỉ có hiện tại, không có quá khứ và tương lai, và hiện tại thì sinh diệt từng sát na. Nhưng có tông phái nói: Có hiện tại, nhưng quá khứ cũng có và tương lai cũng có. Phái Hữu Bộ nói: Tam thế hằng hữu. Nghĩa là ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai luôn luôn có đó, không mất đi đâu hết.

Vấn đề thời gian là một vấn đề lớn, cho nên các tông phái, các bộ phái đạo Bụt đều đề cập tới.(hết trích)

Vâng ! Thời Gian và Không gian (phương) có sự tương quan mật thiết.- Bởi vì đều là biểu hiện của Tâm Như. Và mang ý nghĩa.- Cách Pháp dị thành.

Kinh Hoa Nghiêm diễn tả về thời gian: “Nếu chúng ta thêm vào tất cả những ngày và đêm của những hệ thế giới cho đến tổng số là một kiếp (kalpa), vô số năm này bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Và nếu người nào sống ở cảnh giới của Phật A Di Đà (Amitābha) một kiếp thì bằng một ngày một đêm ở cõi Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasaṃhata), và một kiếp (kalpa) ở cõi Kim Cang Tát Đỏa thì bằng một ngày một đêm ở cõi Pháp Tướng (Dharmaketu), và cứ như vậy cho đến hàng trăm, hàng triệu cảnh giới chư Phật”.

Và thế là các kinh lại một lần nữa đưa chúng ta trở về với sự trống rỗng của thời gian, cũng như là sự khó hiểu của nó, sự vắng mặt những dấu hiệu nhận dạng. Kinh Hoa Nghiêm còn chỉ ra rằng, khi Đức Phật nhập vào chánh định (samādhi) thì Ngài thấy tất cả ba thời đều bằng nhau và như nhau.

Hoa nghiêm hợp luận của Lí Thông Huyền ghi: “Mười đời xưa nay, trước sau chưa lìa niệm hiện tại”.

* Niệm Hiện Tại.- Còn gọi là ĐƯƠNG NIỆM HIỆN TIỀN. Nghĩa là: An trú Tại đây và bây giờ "Nhất Niệm".(đệ nhất satna). Trong đó có đủ 10 đời, 10 phương.- Đây là Nghĩa của - Thập thế cách pháp dị thành môn.
Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Hin_tr10
ĐT ĐL có giải rằng:
Hỏi: Trong kinh nói "Trong một sát na có 60 niệm khởi". Như vậy nơi một niệm làm sao có thể ứng hiện khắp 10 phương ?
.......Đáp: Trong kinh có nói đến 5 sự việc chẳng có thể nghĩ bàn. Đó là:
  • Nghiệp báo của chúng sanh nhiều ít chẳng thể nghĩ bàn.
  • Lực Thiền định của đại chúng tọa thiền chẳng thể nghĩ bàn.
  • Lực của Long Vương chẳng thể nghĩ bàn.
  • Phật lực chẳng thể nghĩ bàn.
  • Thần thông lực của Phật chẳng thể nghĩ bàn.
....... Khi Bồ tát vào thiền định, có đầy đủ thần thông lực rồi, thì ở nơi một niệm có thể đi đến 10 phương thế giới. Chỉ có Phật và các vị đại Bồ tát mới có được thần thông lực này.
....... Lại nữa, Bồ tát có trí huệ lực, nên có thể chuyển lớn thành nhỏ, chuyển nhỏ thành lớn, biến vô lượng kiếp thành một ngày... chẳng có gì ngăn ngại cả. Bởi vậy nên chẳng có nguyện gì mà Bồ tát chẳng được đầy đủ.

....... Trong kinh Duy Ma Cật có nói :" Bồ tát có thần thông lực, siêu việt 10 phương thế giới, biến 7 đêm thành một kiếp".

....... Hỏi: Do nhân duyên gì mà ở nơi một niệm Bồ tát có thể đi đến 10 phương thế giới. ?
.......Đáp: Do Bồ tát tu tập Bát nhã Ba- la- mật mà được như vậy.

.......................................................00()00
Tư duy:

+ Khắp 10 phương thế giới là chỗ nào ?
  • Không chỗ nào cả.
  • Đó Là khi cái biết tòan tri hiện hữu (một niệm), khi thực tại tuệ giác hiện hữu (một niệm), thì lúc đó nhận ra Thể của các pháp. Biết rõ thể của các pháp là Tánh Không. Vì nhận ra Thễ của các pháp nên có thể tùy duyên ứng pháp, tùy duyên ứng pháp, mà luôn rổng rang tự tại.(biến khắp 10 phương)- Đó là Một niệm ứng khắp 10 phương (10 phương là từ để ám chỉ cho số nhiều).
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Phần C.- Tổng Luận Giải k. Hoa Nghiêm.
Bài 35- 10 Nền tảng để thiết lập mười Huyền Môn.

Theo TS Japan. JUNJIRO TAKASUSU (Tuệ Sĩ dịch)- trong - TINH HOA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO:
triết.jpg


Nền tảng này y cứ trên những quan niệm tổng quát của Phật học, có mười:

1. Bởi vì mọi loài cũng như mọi vật đều được hiện khởi do nội thức nên căn nguyên là một.

2. Bởi vì mọi loài cũng như mỗi vật đều không có bản tính quyết định, tất cả đều vận hành tự tại nên vô ngã là chân lý tối thượng.

3. Bởi vì lý duyên khởi chỉ cho sự tương y tương quan, nên tất cả đều cộng đồng liên hệ.

4. Bởi vì tất cả đều có chung pháp tính (dharmatā) hay Phật tính (Buddha-svabhāvā), nên tất cả đều có khả năng chứng đắc như nhau.

5. Bởi vì thế giới hiện tượng được cho là mộng huyễn, nên thế giới Nhất chân có thể bàng bạc khắp mọi nơi không bị ước thúc.

6. Bởi vì thế giới hiện tượng được coi như là bóng mờ hay ảo ảnh nên thế giới Nhất chân bàng bạc khắp nơi.

7. Bởi vì trong sự giác ngộ của Phật, những căn nhân của hiện khởi được coi như vô hạn, những cảm quả là vạn trạng và vô biên, nhưng chúng không chướng ngại nhau mà lại còn cộng tác để hình thành một toàn thể nhịp nhàng.

8. Bởi vì sự giác ngộ của Phật là tối thượng và tuyệt đối, nên sự chuyển hóa của thế giới là theo ý chí của Ngài.

9. Bởi tác dụng thiền định thâm áo cuả Phật, sự chuyển hóa của thế giới là tùy theo ý của Ngài.

10. Do bởi năng lực siêu nhiên khởi lên từ sự giải thoát, sự chuyển hóa thế giới là tự tại.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 36-10 Thân Phật.

NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI TRONG KINH HOA NGHIÊM QUA HÌNH ẢNH THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ. Thích Nữ Tâm Thảo (luận văn nghiêng cứu K. Hoa Nghiêm).

(VQ Lượt trích & Bình giải.)

* Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật là tất cả, thông cả vũ trụ, lấy vũ trụ làm pháp giới. Báo thân Tỳ Lô Giá Na Phật ở thế giới Liên Hoa Tạng thuần tịnh giáo hóa hàng Bồ Tát. Đức Phật Thích Ca là hóa thân ở thế giới Ta Bà tùy thuận chúng sanh, dùng vô số phương tiện giáo hóa. Phật tùy căn cơ chúng sanh hiện thân tuy một mà hai, tuy hai mà một không hơn kém khác nhau vậy.

“Tỳ Lô Giá Na” dịch Phổ Quang Minh Chiếu, tiêu biểu cho ánh sáng trí tuệ tuy không thấy nhưng phổ chiếu toàn diện và chi phối tất cả. Từ Tỳ Lô Giá Na tiêu biểu qua hình ảnh Phật với mười loại thân, khác với quan niệm thông thường cho rằng thượng đế tạo ra con người và vũ trụ. Quan niệm về Phật thân trong Kinh Hoa Nghiêm được Ngài Trí Giả Đại Sư ví như hoa sen trong hồ lớn, có cái còn nằm trong bùn, có cái vượt lên mặt nước, hoặc nở hoa, hoặc còn búp. Nói khác ngũ uẩn phát triển đạt đến đỉnh cao Tỳ Lô Giá Na chi phối muôn loài.

Mười loại thân Phật trong Kinh Hoa Nghiêm:

1. Chúng sanh thân: Tức là thân ngũ uẩn. Đức Phật cũng hiện hữu từ thân ngũ uẩn, mà tiếp đến quả vị toàn giác, vì Ngài không bị ngũ uẩn chi phối. Trong khi chúng sanh cũng mang thân ngũ uẩn nhưng bị nó ràng buộc triệt để, nên luôn gánh chịu những khổ đau sanh tử.

2. Quốc độ thân: Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân chỉ cho sơn hà đại địa. Theo tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng, hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến người phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp, hay chính thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quang, tạo thành lực hấp dẫn đưa người đến với Đạo Phật. Do đó dưới mắt hành giả, con ong cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai... không cái gì là không dễ thương và không phải là Phật.

3. Nghiệp thân: Phật trang nghiêm thân bằng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

4. Thanh Văn thân: Từ trong chúng sanh thân, nhận ra đời sống không bền chắc, nên khởi thân đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế gian đi theo lộ trình Phật mang thân tu sĩ phải tỏ rõ đạo đức và lòng nhiệt thành cộng với bản chất thật.

5. Duyên Giác thân: Là tầng lớp tri thức, quán nhân duyên thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội, và theo lời Phật dạy, người nào thấy được nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.

6. Bồ Tát thân: Tổng hợp hai pháp tu của người và Duyên Giác, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh đó là Bồ Tát.

7. Như Lai thân: Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ Tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên Giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau như hàng Thanh Văn. Vì thân Như Lai “Vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”. Chính thân này tác động đến các loài chúng sanh, giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động tâm.

8. Trí thân: Trên bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động mà vẫn hóa độ được chúng sanh, nên hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác, vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, mà bằng trí tuệ siêu việt.

9. Pháp thân: Trí Như Lai chiếu đến đâu thì biến các pháp ấy thành pháp thân của Đức Phật, rộng hơn ý niệm pháp thân của Phật Giáo nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp còn lưu lại.

10. Hư không thân: Thế giới thường tịch quang hay Tỳ Lô Giá Na thân.

Kinh Hoa Nghiêm kết hợp mười loại thân trên làm thành một Đức Phật toàn diện (không) và cũng là tổng thể của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống chín loại hình, từ hàng thánh giả cho đến người thường và cả loài hữu tình, vô tình trên thế gian này.

* Kinh Hoa Nghiêm diễn tả 53 tiến trình cầu đạo của Thiện Tài và 53 vị giáo thọ nhằm chỉ cho hàng ngũ Thiện Tri Thức dạy Bồ Tát đạo và Bồ Tát hạnh cho Đồng Tử. Trong đó hai mẫu người lý tưởng là Bồ Tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ lãnh vai trò hóa đạo và Bồ Tát Phổ Hiền tiêu biểu cho hạnh nguyện giữ vai trò hành đạo. Qua đó Thiện Tài được tôi luyện thành con người hữu ích thật sự cho đạo pháp. Bồ đề tâm và tri thức là nhân tố chính dẫn Thiện Tài đến với Đạo.

Hơn thế nữa Kinh Hoa Nghiêm là chiếc chìa khóa vàng mở tung cánh cửa Đại Niết Bàn,..(và kết luận: "" Niết Bàn Không phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới mà người ta có thể tìm đến. Niết Bàn chính là ở nơi đây”.).
phzep_13.png
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 37.- Phật Tri kiến

Kinh Hoa Nghiêm kết hợp mười loại thân trên làm thành một Đức Phật toàn diện (không) và cũng là tổng thể của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống chín loại hình, từ hàng thánh giả cho đến người thường và cả loài hữu tình, vô tình trên thế gian này.

Về chúng hội: Mười loại thân trên tức là mười hạng người hiện diện trong pháp hội. Những người có mặt đây đã hoàn toàn thánh thiện, tâm ý hướng về Phật Pháp, đã gieo trồng phước lành trong vô lượng kiếp, đã từng cúng dường chư Phật nên có nhân duyên lớn với Phật Pháp Đại Thừa.

Chúng hội trong Hoa Nghiêm toàn là hàng Bồ Tát sơ phát tâm nên Kinh Hoa Nghiêm thuộc về biệt giáo.

Về thời gian: Dựa trên thời gian lịch sử, Phật thuyết Kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày; “Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật”, lúc Ngài mới thành Đạo dưới Bồ Đề Đạo Tràng. Nhưng Hoa Nghiêm thuộc về thế giới siêu thực nên thời gian không có những phần vị như quá khứ, hiện tại, vị lai, vì chúng hợp lại thành ngẫu lực đơn nhất của các hiện tại miên trường, quá khứ, tương lai được cuộn tròn trong giây phút giác ngộ hiện tại, nó vận hành bất tuyệt giữa lòng hiện tại miên viễn này nên Phật an trụ trong trụ xứ vô trụ của Ngài.

Về không gian: Không gian trong Hoa Nghiêm không phải dàn cảnh phân chia bởi núi, rừng, sông, biển, sáng tối có hình hay không có hình. Không gian ở đây được kết cấu thành một khối đơn nhất thể hiện tính tương dung tương nhiếp của vạn hữu, “Một trong tất cả, tất cả trong một” . Không gian sáng ngời suốt đã làm nổi bật ý tưởng châu biến hàm dung của thế giới Hoa Nghiêm.

Về vũ trụ: Không gian và thời gian của Hoa Nghiêm thuộc về tâm lý siêu thế vượt ngoài ngã và ngã sở hữu chỉ thuần nhất để tạo thành pháp giới, khác với thế gian giới. Pháp giới không tách rời thế gian giới “Phật pháp tại thế gian” nhưng chúng không phải là “một” khi chưa đạt đến thế giới tâm linh nơi Bồ Tát đang sinh hoạt, như những nhà học thuật họ rất giỏi nhưng họ không thể nào giống những bậc chân tu được vì họ chỉ nghiên cứu Phật Học, chứ cuộc sống không dính líu gì đến Phật Pháp mà họ am tường. Trong Đạo Phật thường dùng câu “Ẩm thuỷ tự lãnh noãn tri” nghĩa là “người uống nước tự biết vị của nó như thế nào”. Cũng vậy, người an trụ pháp mầu cũa Đức Phật, tụng Kinh, tham thiền, lễ bái với tất cả tấm lòng, mới hiểu được thế giới Phật, từ đó nhẹ nhàng bước vào thế giới Hoa Nghiêm. Đây cũng chính là con đường hành giả “Nhập Pháp Giới”....

Như vậy Kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về Đức Phật khác hẳn các hệ tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông thường mà chúng ta học.
Đối với Kinh nếu chúng ta dùng “Tri thức” không thể đi vào Đạo, chỉ có “Duy Phật nãi năng kiến tận chư pháp thực tướng” (Chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu được thực tướng của vạn pháp). Vì dùng “Trí tuệ và niềm tin” của chính mình đi vào Đạo thì sẽ có thể nhận thức được cái gọi là “Bất khả tư nghì” .(lượt trích Luận văn nghiêng cứu k . Hoa nghiêm)
tri_ki10.jpg

+++++++++++++++++++++


Bình giảng về vấn đề “Tri thức” khi nghiêng cứu Chân lý.

(Fb: Viên Dung) có nhận thức:
Tri kiến của con người mà nhập đạo được ư ! Thiệt là muốn nấu cát thành cơm !
Muốn biết ít nhiều về Đại Đạo hãy rời mọi sở tri kiến đi.
Nhưng không diệt nguyên thức, thức vô công dụng thì Đạo khai.
Khi Đạo khai mà thức vẫn luôn vô công dụng, từ đây mới gọi là thể nhập.
Nếu chưa đến đây mà khởi tâm luận đạo thì đạo ấy chỉ là đạo tục đế mà thôi. (hết trích)

Vâng! VQ cũng đồng nhận thức như thế.- Vì lẽ: Tri kiến của con người là "Dụng" của Tâm, chứ chưa phải là Tâm !

TÂM là gì ?
- Đáp: Loài Hữu tình (như con người) đều có TÂM.
TÂM có 2 biểu hiện: 1. Bản Thể (Tịch- tịnh) 2. Hiện Tượng (Chiếu- động).
* Con người chỉ nhận biết và Chấp thủ phần Chiếu làm Ý Thức (còn cho là linh hồn, là Tâm ! ).- Thật ra dù là chấp thủ phần Chiếu, hoặc là chấp thủ phần Tịch.- Thì đều là thể bất toàn của Tâm. Nhà Phật gọi là VỌNG TÂM.- Cái Vọng Tâm này bị nhà Phật bác bỏ (gọi là Vô minh).- Đó là TRI KIẾN của CHÚNG SANH.

* Hành giả đệ tử Phật, nhận ra Chân Tâm (là Chân- Vọng- Tịch- Chiếu đồng thời) .- Đó là Như Lai Tàng Tâm.

Kính các Bạn. Ở Giáo lý Nguyên Thuỷ PG và Giáo Lý Duy Thức PG. Thì Tâm chính là Thức. - Thức là Tri kiến.

* Vì như trên đã nói: Vọng Tâm- Tri kiến chỉ là thể Bất toàn của Tâm nên chúng luôn luôn bị lệch lạt không đến được Chân lý. Muốn đến được Chân lý cúng ta ta cần có TRI KIẾN VÔ KIẾN (Tri kiến Phật).- Tri kiến Phật này phải Thiền Quán mới thẩm nhập.

Thiền quán là tự hỏi mình.
Thiền quán là trạng thái Vô Tâm.(Tri kiến Vô kiến)

Con người ở trạng thái Vô Tâm mới ngưng suy nghĩ phân biệt. Nghĩa là thoát khỏi sự cuốn hút của Thức.
Suy nghĩ phân biệt là để Duyên Sanh Diệt dẫn dắt mình sanh tử.

Trạng thái Vô Tâm là trạng thái tịch tĩnh của vạn pháp. Là giải trừ 6 Thức. Cụ thể là Ý Thức.

Vâng Vô Tâm là trạng thái "giải trừ Ý thức", là KHÔNG VỌNG TƯỞNG PHÂN BIỆT. là Không Vọng Tâm.- Đây là: Tri kiến Phật, là Y Trí Bất Y Thức (tứ y Pháp mà Đức Phật dạy.- khi tu học kinh điển).- Và đây cũng là vấn đề Tri kiến “Trí tuệ và niềm tin” mà bài viết này hướng đến, nhầm Nhập Pháp Giới ở kinh Hoa Nghiêm.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 38 - 3 trọng tố trong phẩm “Nhập Pháp Giới".1 Bồ Tát Văn Thù: Yếu tố Trí Tuệ.

Nói chung trong 53 vị Thiện Tri Thức, ai cũng có vai trò quan trọng riêng nhưng ba nhân vật này tiêu biểu cho vai trò nòng cốt trong lĩnh vực Khai thị, Ngộ Nhập và Ấn chứng. Hay nói cách khác, ba vị này biểu thị cho Đại Trí Tuệ là Văn Thù, Đại Nguyện Lực là Phổ Hiền và Đại Bồ Đề Tâm là Thiện Tài.

1 Bồ Tát Văn Thù: Yếu tố trí tuệ

Văn Thù gọi là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, là vị Bồ Tát được coi như người giữ vai trò lãnh đạo về mặt trí tuệ vô tướng với nhiệm vụ hoá đạo.

Hết thảy cái gì tiêu biểu cho Đại trí huệ bất tư nghì của Như Lai đều được Văn Thù lãnh hội. Do đó ta có thể nói Văn Thù là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Đại giác của Phật Thích Ca và Ngài là một nhân vật biểu tượng xuất hiện trên cõi đời với hình thức hóa thân mà thôi.

Qua những điểm quan trọng trong Kinh văn, chỗ nào bắt đầu từ vô tướng, vô ngôn, bất tư nghì thì có Văn Thù xuất hiện thống nhiếp toàn bộ trí tuệ và tinh thần. Như việc Duy Ma Cật bệnh, Phật bảo Xá Lợi Phất thăm, Xá Lợi Phất từ chối vì không đủ khả năng luận thuyết vô tướng bất tư nghì với Duy Ma. Cho nên Văn Thù lãnh nhiệm vụ đến thăm bệnh Duy Ma. Hai vị này ngang cơ nhau như hai hòn núi trong bầu trời Bát Nhã vô tướng.

Văn Thù thường cỡi con sư tử và cầm cây kiếm, hai món này tượng trưng cho trí tuệ hùng vĩ siêu việt của Bát Nhã, nó chặt hết thảy mọi vướng chấp vi tế phiền não lậu hoặc.

Văn Thù còn được gọi là Pháp Vương Tử là con của vua pháp có trí tuệ giữ gia tài ẩn kín vô ngần tư nghì, chiều sâu tuyệt của tinh thần đại giải thoát trong giáo pháp của Phật được trao cho Văn Thù. Mặt khác, Phật nói Văn Thù là mẹ của tất cả chư Phật, vì trí tuệ sanh ra quả vị Phật.
vthu10.jpg


Trong Phật Giáo Thánh Điển, phẩm Bát Nhã ghi: “Như Lai được sinh ra từ trí tuệ độ vô cực. Giả sử có người quan sát truy tìm gốc ngọn của chư Phật quá khứ, tương lai, hiện tại thì ai là mẹ của các Ngài? Phải biết trí tuệ vô cực là mẹ của chư Phật”

Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm thứ 39 này đề cập đến việc Văn Thù ra tay cứu vớt một chúng sanh được “Nhập Pháp Giới” của chư Phật. Trong đó người đệ tử lỗi lạc tiêu biểu nhất của Ngài là Thiện Tài Đồng Tử. Từ cõi nước Phật vì quán nhân duyên mà đi về hướng Nam đến Phước Thành (ngụ ý chỉ những người có duyên phước) thuyết pháp cho vô số thính giả gồm trời, người, phi nhơn, … thì Văn Thù bỗng phát hiện trong hàng thính chúng có một nhân vật nổi bật hơn hết đó là Thiện Tài Đồng Tử. Văn Thù đón nhận, huấn luyện, thúc đẩy Thiện Tài đó hãy gần gũi hết thảy Thiện tri thức để hoàn thành Nhất Thiết Tri Giác.

Thiện Tài theo lời Văn Thù tha phương cầu học với hơn 50 vị Thiện Tri Thức.

Lúc trở về Thiện Tài gặp lại Văn Thù và được Ngài khai quang điểm nhãn lần cuối cùng (hồi thứ 52) bừng sáng chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề và được Bồ Tát Phổ Hiền ấn chứng (hồi thứ 53) đi giáo hóa chúng sanh khắp cõi nước. Công việc đó như kéo tơ dệt thành tấm lụa tâm hồn, Văn Thù chỉ Thiện Tài cách thêu hoa lên tấm vải ấy cho tuyệt đẹp. Từ nơi Văn Thù mà Thiện Tài được nhập pháp giới và cũng từ phẩm Kinh then chốt này nói lên ý nghĩa của toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm..

Văn Thù đến với Thiện Tài là vì một sự nhân duyên lớn, vì khai mở Bồ Đề Tâm, vì chỉ con đường cho Thiện Tài nhập Pháp giới.

Những việc làm của Bồ Tát mang tính cách bất khả tư nghì, trí Bồ Tát soi đến đâu, nơi đó biến thành Phật cảnh và người nào được Văn Thù hướng dẫn thì tương lai sẽ được thâm nhập Phật huệ.

Văn Thù là Hóa Thân Phật, xuất hiện nhằm khai thị giác tánh cho Thiện Tài. Từ căn bản trí này, Thiện Tài đi vào lòng vũ trụ để thành đạt Hậu đắc trí và điểm cuối cùng đến Lâu Các Tỳ Lô Xá Na Đại Trang Nghiêm Tạng.

Thiện Tài được Bồ Tát Văn thù khai tâm nên Thiện Tài cảm thấy cuộc đời của mình đã đổi thay. Đó là cuộc đời của một hữu tình vừa giác ngộ, muốn cầu học Bồ Tát đạo, tu Bồ Tát hạnh.(lượt trích Luận văn nghiêng cứu k.Hoa Nghiêm)
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 39.- “Nhập Pháp Giới".- 2 Bồ Tát Phổ Hiền: Yếu tố hạnh nguyện.
phz_hi10.jpg

Đây là biểu tượng cho bản nguyện rộng sâu mang chiều hướng lịch sử về tâm địa tu hành của một vị Bồ Tát. Trong bản nguyện bao gồm cả trí tuệ, hành trì và bản thể của Phổ Hiền.

Như vậy, hết thảy chư Bồ Tát tham dự kiến thiết pháp giới đều xuất phát từ đời sống và thệ nguyện của Phổ Hiền … Chủ đích của Thiện Tài Đồng Tử qua hơn 50 cuộc hành trình được mô tả trong Hoa Nghiêm không gì hơn là một cuộc tự đồng nhất mình với Phổ Hiền Bồ Tát và cuối cùng đươc Ngài ấn chứng dạy về nhân địa tu hành, về tri kiến, bản nguyện và năng lực thần thông … tất cả Phật Pháp đều từ Phổ Hiền phóng ra. Do đó trên quãng đường hành Bồ Tát Đạo Phổ Hiền theo sát hành giả từ khi bắt đầu sự nghiệp và hiện diện suốt cả cuộc đời của mình. Nghĩa là Bồ Tát bắt đầu một lý tưởng phải lập nguyện cho đến khi thành đạt lý tưởng đó.

Bản nguyện là thuật ngữ Phật học được lưu xuất từ đại hạnh nguyện của Bồ Tát. Lời nguyện luôn gắn liền với niềm tin vững chắc bởi thế nó mang tính chất kiên thệ. Người tụ tập Đại Thừa lấy bốn lời nguyện của Ngài Phổ Hiền là tổng nguyện

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành.

và mỗi người phải lập biệt nguyện riêng của mình. Như 24 nguyện của Phật A Súc Bệ cõi Diệu Hỷ ở Phương Đông, 48 nguyện của Phật A Di Đà ở phương Tây … Ngài A Nan nguyện “Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”, còn Ngài Địa Tạng lập nguyện “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật, chúng sanh dị độ phương chứng Bồ Đề”.

Trên thực tế một người bình thường vào đạo phải phát nguyện, tức là thay đổi toàn bộ hệ thống tâm lý làm phân ranh giữa hai cuộc đời thế gian và xuất thế gian.

Bản nguyện của Phổ Hiền là hướng đến giác ngộ giải thoát, cứu độ chúng sanh kể cả hữu tình và vô tình. Hạnh nguyện của Bồ Tát phải được thể hiện trong đời sống thực tại là sự hiến dâng đời mình để dẫn dắt mọi loài đến giải thoát giác ngộ tối hậu, kiến tạo hạnh phúc trong lòng thế gian.

Hạnh nguyện là việc làm mang tính phổ cập, phát sáng toàn cõi đến tận hang cùng ngõ hẻm của cuộc đời, không giới hạn mức độ và đối tượng nào.- Như xưa Thái Tử Tất Đạt Đa vượt thành xuất gia dưới gốc Bồ Đề, nguyện không rời nơi đây dù thịt nát xương tan, Ngài quyết thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lời nguyện kiên cố như mũi tên cắm sâu vào lòng đất, như con thuyền lướt phăng trên mặt sóng gian nan, như bức thành vững chắc … đưa Ngài đến đỉnh cao nhất là sự thành công chứng Phật quả. Từ đó, bản nguyện luôn canh cánh bên lòng theo Ngài suốt 49 năm hoằng đạo lợi ích cho đời, tri thức của Ngài soi sáng cả vũ trụ và được mọi người chiêm ngưỡng. Đó là điểm cốt yếu tạo thành đời sống hành trì từ hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.

Kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu cho tuệ giác của Như Lai và ý nghĩa đúng đắn của pháp tu theo bản nguyện được diễn tả trong phẩm Phổ Hiền trong Kinh Hoa Nghiêm. Phổ Hiền là hóa thân Phật Thích Ca xuất hiện trên cõi đời làm lợi ích chúng sanh và những ai y theo hạnh Phổ Hiền tu tập người đó là hóa thân của Phổ Hiền.

Như bản nguyện có sức mạnh hùng vĩ có thể vượt qua mọi hàng rào chướng ngại, đi trên gian nan để thành công một mục đích nào đó. Phổ Hiền Bồ Tát ngự trên voi trắng cũng đồng nghĩa với trang nghiêm thân tâm bằng sức mạnh trong sạch tuyệt vời chi phối cả toàn bộ pháp giới một cách an nhiên tự tại. Chỉ có hàng Bồ Tát mới thực thụ gánh vác nổi công việc của Ngài Phổ Hiền.

Muốn lành mạnh Phổ Hiển phải trải qua Tam Thừa Giáo tu hành. Từ vị trí phàm phu, hành giả tu ba nghiệp thanh tịnh, ly tham, ly sân, ly si, vô minh diệt, trí tuệ xuất hiện, có những đặc tính tốt làm mô phạm trong hàng Sa Môn.

Từ ưu thế của người đã tròn hạnh theo pháp tu thuộc nhơn thừa, thiên thừa, hành giả tiến tu Tam Thừa Giáo: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Tu pháp của Thanh Văn-Duyên giác để phát tiển đạo đức, tri thức và nhập cuộc giáo hóa chúng sanh hay đi vào con đường hành Bồ Tát đạo. Qua điểm này ta thấy việc giáo dục trong nhà Phật trước hết là giáo dục về tâm đức, sau mới phát triển về trí đức.

Bồ Tát là người kết hợp hai yếu tố này mới có thể vào đời lãnh đạo mà không làm tổn thương đến cuộc đời.

Từ cơ sở giáo dục qua hạnh Phổ Hiền, hành giả được trang bị đầy đủ những gì cho một vị Bồ Tát đủ sức vào đời để làm đạo và qua sự tiếp xúc với cuộc đời hành giả kiểm chứng lại tâm mình, trước mọi cám dỗ vật chất không khởi tâm ham muốn, trước mọi hoàn cảnh thuận nghịch đều có thể hiện đủ phương tiện để đối trị … Bồ Tát hành tất cả hạnh đức vì mục đích giáo hóa con người giúp họ trở về với tánh thiện và nuôi dưỡng giáo dục con người mở rộng tri thức, mở rộng tầm nhìn quan sát cuộc đời đúng theo tinh thần Phật Giáo và hướng theo tinh thần làm đạo của hạnh Bồ Tát Phồ Hiền để chuyển hóa cuộc đời.
Cuộc sống cần vui hãy làm chim hót
Sỏi đá khô cằn xin chuyển hóa màu xanh
Lại nguyện làm hoa khi vườn lạnh khô cành
Làm đuốc sáng khi dặm dài tăm tối
(Trích thơ thi sĩ Tống Anh Nghị)

Kinh Hoa Nghiêm chủ trương hành đạo bằng tâm, không để vọng thức suy nghĩ nên việc làm của Ngài bất khả tư nghì. Từ sự thành tựu Tam Thừa Giáo, Bồ Tát bắt đầu “Nhập Pháp Giới” đi vào tánh tu giáo hóa thẳng vào tâm, không qua ngôn ngữ. Cũng như Thiện Tài Đồng Tử sau khi đến Bồ Đề đạo tràng lần chót, được Bồ Tát Phổ Hiền xoa đãnh tán dương công đức của Thiện Tài và ngay lúc ấy Thiện Tài nhận được tâm ấn của Bồ Tát Phổ Hiền và đồng hóa mình với Ngài Phổ Hiền. Phổ Hiền đưa tâm Ngài vào tâm Đồng Tử và tâm Đồng Tử biến thành tâm Ngài. Thiện Tài đã có tâm chứng, đồng nguyện đồng hạnh với Phổ Hiền, nhận được lực bất tư nghì của Ngài nên vào đời làm mọi việc mà không nhọc sức. Sự chuyển hóa chúng sanh từ nội tâm, điều động công việc cũng từ nội tâm, dùng tâm chuyển vật, không cần cử thân động niệm, sức mạnh phi thường của tâm tác động cho công việc thành tựu đó là Vô Tác Diệu Lực. Đây là ý chính mà Kinh Hoa Nghiêm muốn đề cập, nó thể hiện trí tuệ tuyệt vời và năng lực của tâm thức khi đã đạt đến sự chứng đắc tâm linh.

Kinh Hoa Nghiêm đại diện cho hệ thống giáo dục của Phật Giáo Đại Thừa nhằm xây dựng con người toàn diện cả hai mặt Tri và hành. Đây là nền giáo dục nhập thế tích cực, mang lại ánh sáng cho cuộc đời và cuối cùng hồi hướng những thành quả đó đến Vô Thượng Bồ Đề, đến chân như thật tướng.

Một tinh thần Vô ngã-Vô chấp thủ lại nổi bật trong giáo lý Phật Đà mà các nhà giáo dục cần phải chú ý đến khi triển khai Bồ Tát hạnh.(lượt trích Luận văn nghiêng cứu k.Hoa Nghiêm)
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 40.- 3 Thiện Tài Đồng Tử- Bồ Đề Tâm.

Đồng Tử Thiện Tài tiêu biểu cho Bồ Đề Trí Giác hay Bồ Đề Tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc giáo hóa của chư Phật. Vì Bồ Đề Tâm là đối tượng chính để Phật thị hiện khai thị, khơi dậy tiềm năng giác ngộ sẵn có trong mỗi con người.

Kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện mô tả Bồ Đề Tâm với hơn trăm ví dụ khác nhau. Bồ Đề Tâm ví như hạt giống sanh ra tất cả Phật Pháp, như ruộng tốt nuôi lớn các pháp thanh tịnh, như gió to, như mặt trời soi khắp thế gian, như vua chúa vượt hơn các hàng nhị thừa, như vườn hoa, như ông cha, như nhũ mẫu dưỡng dục Bồ Tát, như Đại tuyết sơn nuôi các cây thuốc trí tuệ, như hương sơn sanh các công đức, như hư không rộng lớn, như hoa sen mầu nhiệm chẳng bị nhiễm nhơ … Trong Kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền thứ 35 có viết: “Này thiện nam tử, Bồ Đề Tâm thành tựu vô lượng vô biên công đức tối thắng của Phật Pháp. Vì sao Bồ Đề tâm sanh ra các công hạnh của Bồ Tát, tất cả các Đức Như Lai ở mười phương ba đời đều từ Bồ Đề Tâm sanh ra. Thế nên, nếu có người nào hay phát tâm vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ắt đã sinh ra vô lượng công đức có thể nắm lấy hết đạo Nhất Thiết Trí”.

Qua đoạn Kinh trên cho ta thấy tầm cỡ của Bồ Đề Tâm và giá trị giác ngộ của con người, nó định tính hết thảy các công đức, là nơi xuất sanh các thiện pháp. Cho nên Bồ Đề Tâm chẳng những có công năng vi diệu như thế mà còn là nguồn mạch của sự sống của con người. Vì tâm Phật này không thể mất dù trải bao phong trần, đội mất lớp chúng sanh, dù mang thân phận của kẻ nghèo khốn đi chăng nữa nhưng chất Phật trong con người không vì vậy mà hao mòn hay hủy diệt và bình đẳng ở mọi người.

Thiện Tài Đồng Tử sau khi phát tâm qua sự khai tâm của Văn Thù và dưới sự chỉ dẫn của Ngài, từ đó cuộc du hành hoàn toàn nhằm vào việc học hỏi cách thức thực hành Bồ Tát hạnh. Cho nên Văn Thù đã hết lòng khen ngợi công hạnh của đệ tử mình: “Lành thay! Thiện Nam Tử, ít có thấy ai sau khi phát tâm mong cầu giác ngộ tối thượng, bây giờ lại muốn thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí, hãy tinh tấn thân cận các bậc Thiện hữu tri thức”.

“Phát Bồ Đề Tâm” Phạn ngữ là Bodhicittotpàda nói đủ là anuhatraỳam sàmyyaksambodhau cittam utpàdam. Nghĩa là Phát khởi Vô Thượng Chánh Giác Tâm, tâm ấp ủ ước vọng mong cầu giác ngộ. Thiện Tài đã nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm đến độ chín muồi nên sau khi được Ngài Văn Thù rưới mưa pháp lần đầu tiên tại Phước Thành, Thiện Tài vội thoát lớp áo khoác trần tục bỗng trổi dậy một khát vọng tâm linh đã từng yên ngủ. Đây là một định hướng mới của hoạt động tinh thần giúp Thiện Tài xác định con đường hành xử tương lai của mình và bước vào giai đoạn phát khởi của vị Bồ Tát. Bồ Đề Tâm vốn sẵn có nơi mỗi chúng sanh và nó thiết định bản chất cốt yếu bất sanh bất diệt, nhưng có điều tâm này bị bao phủ trong vô minh, vị kỷ nên không thấy đó thôi. Ngài Bàng Uẩn nói:

“Vụ trùng nhựt nan xuất
Vân hậu nguyệt mông lung
Hữu tâm cầu mích Phật
Trú đa dụng tâm công”.

Dịch nghĩa
“Sương dày trời khó hiện
Mây phủ giăng phủ mờ
Có tâm tìm cầu Phật
Ngày đêm gắng dụng công”.
(Trích Phật Tâm Luận – Thích Phước Hảo dịch)

Bồ Đề Tâm chính là yếu tố tạo nên tình thế của Phật, nó nằm sâu trong Tàng Thức, khi được thanh tịnh hóa hoàn toàn thì Phật tánh tự nhiên hiển lộ, tức không còn tham, sân, si. Tam độc bị tiêu diệt, thay vào đó là ánh sáng Tam minh, trong đó có đầy đủ Nhất Thiết Chủng Trí.

Thiện Tài là người hội đủ những đức tính tốt của một người đã có kinh nghiệm vĩ đại, đã có sự chuẩn bị tâm linh sẵn sàng tu theo Đạo Phật. Như hạt giống nằm sâu trong lòng đất, đúng thời tiết nhân duyên nứt mầm nhảy vọt và được vun trồng kỹ lưỡng. Mầm giác ngộ này thực sự khởi lên từ tâm đại từ bi, tâm an lạc, tâm lợi ích, tâm ai mẫn, tâm vô ngại, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm vô nhiễm, thanh tịnh và trí tuệ.

Từ khi phát Bồ Đề Tâm tu tập, Thiện Tài chỉ hướng đến một mục tiêu chính là cầu chứng Phật trí, đạt mười lực, bốn vô sở úy, được “Nhập Pháp Giới” để cứu bạt chúng sanh, thành tựu Nhất Thiết Trí và Chuyển Pháp Luân. Bồ Đề Tâm là sự phát khởi của vị Bồ Tát, với tâm này Thiện Tài đã nguyện hiến trọn đời mình cho Đạo Pháp, cho lý tưởng giác ngộ của mình. Trải qua năm mươi ba cuộc hành trình cầu đạo đầy thử thách, Thiện Tài Đồng Tử đã đến được Lâu Các Trang Nghiêm Tạng và được Ngài Di Lặc giảng rộng về ý nghĩa và tầm quan trọng của Bồ Đề Tâm; Nhờ vậy mà Thiện Tài hiểu đâu là hạnh và nguyện của Bồ Tát để cuối cùng nhận sự ấn chứng của Phổ Hiền Bồ Tát. Bấy giờ Thiện Tài trở thành một vị Bồ Tát thực sự không còn là đồng tử nữa mà biến thành một hóa thân của Trí và Bi và bắt đầu chuyển mình nhìn thẳng vào cuộc đời để thực hiện tiếp cái hoài bão to lớn của chư Phật là giáo hóa chúng sanh. Thiện Tài đã thành tựu trọn vẹn cả hai mặt của lý tưởng “Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh”.
Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Thin_t11

lời bình: Phát Bồ Đề Tâm là bước đầu và thiết yếu nhất để thành Phật.
Qua hình ảnh Thiền Tài Đồng tử. kinh hoa Nghiêm nhắc nhở chúng ta: Muốn chân chánh phát Bồ Đề Tâm, thì Tâm phải thuần lương như trẻ thơ (đồng tử). Nghĩa là xả bỏ mọi chấp mắc, thiên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ v.v..., mà ở kinh Pháp hoa gọi là Anh Nhi Hạnh (hạnh của đứa trẻ thơ còn nằm nôi). Phải xả bỏ mọi kinh nghiệm sống thường nhân. Phải giải trừ Ý thức , mới được Phật tri kiến.- Mới là Thiện Tài Đồng Tử.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 41- Nội dung phẩm “Nhập Pháp Giới” .- Phát Bồ Đề Tâm.

Khởi đầu Thiện Tài Đồng Tử nhìn thấy tháp Phật trong rừng Ta La Song Thọ mà khởi lên một ý niệm về Phật. Đây là lần phát tâm Bồ Đề đầu tiên của Thiện Tài cũng là yếu tố cơ bản của người tu đến với Đức Phật và Đạo Pháp mà luận Phát Bồ đề Tâm của Ngài Thế Thân gọi là “Xưng tán Tam Bảo” thấy tượng tháp mà tâm sáng lên ý niệm tu hành giải thoát cho mình và người.

... Bồ Tát Văn Thù đi qua phương Nam, tới Phước Thành Ngài dừng lại ở cửa phía Đông, an trụ nơi đạo tràng trang nghiêm trong rừng Ta La. Nơi đó có một ngôi cổ tháp rất to lớn. Đây là nơi trước kia Đức Phật đã trải qua nhiều kiếp an trụ để giáo hóa chúng sanh. Đây cũng là nơi mà xưa kia Đức Thế Tôn đã từng tu hạnh Bồ Tát thường xả bỏ vô lượng những điều khó bỏ. Cho nên chỗ này được khen ngợi và nổi tiếng khắp cả mười phương thế giới Chư Phật và đây cũng là nơi tất cả trời rồng cùng tất cả các bộ thần, phi nhơn đều đến cúng dường. Ngài Văn Thù biết số người trong Phước Thành đã nhóm họp đông đủ. Trong những thanh niên đến nghe pháp, Ngài chú ý đến một thanh niên có những tư cách đặc biệt, đó là Thiện Tài Đồng Tử.

Ngài lại quán sát rõ biết Thiện Tài nhiều kiếp đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, trồng các căn lành, đức tin rộng lớn, sức hiểu biết cao xa. Thiện Tài cũng thường hay gần gũi vui ưa vị Thiện Tri Thức, thân, ngữ, ý nghiệp không hề sanh lỗi quấy. Đồng Tử luôn thực hành Bồ Tát đạo, cầu nhất thiết trí, thành tựu pháp khí, tâm tánh thanh tịnh cũng như hư không.

Bồ Tát Văn Thù nhận thấy Đồng Tử có những cá tính sáng ngời, sau này sẽ thành bậc đại Bồ Tát, xiển dương Phật Pháp, hóa độ chúng sanh, có đầy đủ ba yếu tố hành Bồ Tát đạo: sức khoẻ, công đức và trí tuệ. Có sức khoẻ mới vượt qua được khó khăn gian khổ đầy dẫy của cõi Ta Bà này; có công đức mới dám vào cảnh đới ngũ trược; có trí tuệ mới không sa vào cạm bẫy của ngũ dục thế gian và phát sanh được đức nhẫn.

Thiện Tài cung kính bạch rằng: “Cúi xin thánh giả mở lượng từ bi hướng dẫn cho con hiểu rõ pháp học Bồ Tát Đạo và pháp tu Bồ Tát Hạnh. Làm thế nào để đi đến nơi Bồ Tát đã đến, và làm bao nhiêu việc Bồ Tát đã làm. Cầu xin thánh giả ban ơn chỉ bày giáo hóa cho con thông đạt sự lý”.

Bồ Tát Văn Thù vì Thiện Tài nói rằng: “Quý hóa và lợi hành thay! Thiện Nam Tử! Người phát tâm Bồ Đề, việc này đã khó. Đã phát tâm rồi lại cần cầu tu hạnh Bồ Tát Đạo thật là điều rất khó”.

Bồ Tát Văn Thù lại dạy thêm: “Nếu hành giả muốn thành tựu nhất thiết trí, cần phải quyết định tìm đến các bậc Chân Thiện Tri Thức. Khi thấy Thiện Tri Thức chớ sanh lòng biếng nhác, cũng không bao giờ xao lãng những điều khuyên bảo của Thiện Tri Thức”.

Thiện Tài Đồng Tử khi mới sanh ra thì châu báu từ dưới đất trồi lên đầy nhà nên cha mẹ đặt cho ông tên này, đây là phước đức của một người đã từng cúng dường vô số chư Phật. Đồng Tử có nghĩa là trẻ thơ, trẻ thơ là biểu tượng của một người đã đạt đến tâm bình đẳng vô phân biệt, tượng trưng cho căn bản trí. Vậy Thiện Tài Đồng Tử hàm ẩn phước trí hay phước huệ. Phước huệ ví như hai cánh tay giúp hành giả mở tung tòa lâu đài pháp giới.
phật nhãn.jpg
Lời bình:
Đọc kinh là muốn rõ ý của Phật. Do vậy khi nghe, đọc, học kinh điển chúng ta nếu may mắn mà gặp được các vị Thiện Tri Thức soi tỏ ý nghĩa thâm sau.- Chân Thật Nghĩa .- Như bày luận kể trên là điều rất hy hữu và phước báu vô lượng.
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 42.- 53 Thiện Tri Thức.- Văn Thù - Căn Bản Trí.

+ Đầu tiên, Thiện Tài gặp Văn Thù tức là căn bản trí. Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ nên khởi đầu chúng ta tu học đến với Đức Phật bằng tri thức, không có tri thức thì không vào được đạo. Nhờ tri thức rọi sáng tâm ta, nếu không có chúng ta dễ thành người mê tín tà đạo. Thiện Tài là người có tri thức gặp được Văn Thù đã từng bước thâm nhập giáo lý Phật.

Với trí tuệ Văn Thù hướng dẫn, Thiện Tài tiếp tục hướng dẫn mọi tầng lớp thế gian, từng bước chân đi của Thiện Tài Đồng Tử hay của chính chúng ta đi vào pháp giới. Bài học vỡ lòng do Ngài Văn Thù Sư Lợi phát tâm Bồ Đề và cầu Thiện Tri Thức.
Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Van_th13

++++++++++++++++++

Bình giảng:
Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ.- Đặc biệt là Căn bản trí.

* Thế nào là Căn bản trí ?
Đáp: Trong nhà Phật có nêu ra nhiều loại trí. Căn bản trí hay còn gọi là như thật trí. Hai trí này là tên khác của bản giác hay chân như v.v… Nói căn bản là vì cái trí này nó sẵn có, không phải do tu mới có. Trí này còn gọi là Trí vô sư.

* Căn bản trí nương đâu mà phát hiện ?

Đáp: "Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu" có nghĩa là "khi gạt hết mù ám trên đất tâm thì mặt trời Tuệ sẽ tự nhiên rọi sáng". Đây là câu nói của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814) đã làm cho ngài Vô Ngôn Thông (? - 826) bừng tỉnh và đạt ngộ.- Huệ Nhật chiếu là chỉ cho Căn Bản Trí.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 43.- Tham vấn 53 Thiện tri thức.


+ Kế tiếp gặp Đức Vân Tỳ Kheo, sau khi đi vòng chậm rãi đi Kinh hành ở đỉnh núi, toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao vời Ngài đang sống. Nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học Đạo cần phải tìm một người đức hạnh để nương theo. Bước đầu tu tập mà không gần gũi người đức hạnh, thì sau này dù giỏi cách mấy cũng không dùng được. Vì “Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không giá trị”.

+ Rời Đức Vân, đồng tử đến tham vấn Tỳ Kheo Hải Vân . Nơi đây Ngài dạy đồng tử ngồi trên bờ biển quán sát chúng sanh, tức quán chiếu căn cơ chúng sanh trong biển sanh tử, trong sáu nẻo luân hồi, thấy rõ cạm bẫy của cuộc đời để đi vào đời không bị vướng mắc. Đến chỗ Thiện Trụ Tỳ Kheo học về pháp vô ngại, trụ tâm ở ngoài vòng phân biệt của phàm phu.

Đây là giai đoạn tu chùa, trang bị tâm thật an định, trí tuệ cao và đức hạnh lớn, đầy đủ ba tư cách này mới dám dấn thân vào đời.

+ Đồng Tử tiếp tục tham vấn với Y Sư Di Già và trưởng giả giải thoát. Gặp Di Già tại chợ lục đạo hay là cuộc đời. Tu trong chùa là tu lý thuyết Kinh điển, cần phải tiếp cận cuộc đời cho lý sự viên dung. Ở đời ta có dịp quan sát cách đối xử của mọi người để tích lũy những Kinh nghiệm, tăng bản lĩnh, từ đó việc đem đạo vào đời dễ dàng hơn. Nhờ quán sát biết ai căn cơ Thanh Văn thì dạy pháp Thanh Văn, ai căn cơ Đại Thừa thì truyền Đại Thừa giáo, do đó ta mới dễ thành công.

+ Di Già dạy đồng tử tất cả kinh nghiệm ở đời và khuyên gặp Trưởng giả giải thoát để học về pháp xả tránh sự trói buộc của các pháp thế gian.Trưởng giả giàu là nhờ thiện phước, lại không bị của cải ràng buộc thì phải là bậc trí tuệ, làm chủ và chuyển được vật. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bị vật chuyển là vô minh, chuyển được vật tức là Như Lai”. Giải thoát còn hàm nghĩa: “Bỏ tất cả mà được tất cả”.

Các vị thầy của Thiện Tài từ bước khởi đầu cho đến giờ không có vị nào muốn giữ chân Thiện Tài, mà còn bảo Thiện Tài tiếp tục học con đường riêng để tiến xa hơn. Điều này đã làm nổi bật tư tưởng Đại Thừa Phật Giáo. Dạy người để giúp người ngày một tiến lên, không phải bắt họ phải lệ thuộc mình, từ đó chính chúng ta cũng được giải thoát tự tại. Sau khi thọ học trưởng giả giải thoát, Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của trưởng giả đã tiếp tục đến cầu đạo với

+ Hải Tràng Tỳ Kheo tiêu biểu cho mẫu Tỳ Kheo Bồ Tát giới vào đời độ sanh, giải thoát ngay trong trần thế. Thiện Tài đến đúng lúc Hải Tràng đang nhập thiền định, Thiện Tài kiên trì đứng chờ, nhưng càng chờ thì ông càng nhập thiền lâu hơn, chịu đựng đến sáu tháng chợt bừng ngộ, sáu tháng mà Thiện Tài cố công mài dũa hay nói cách khác đó là để Hải Tràng luyện tập cho Thiện Tài tu thiền định. Cách truyền đăng tiếp tâm này cũng được Đạt Ma tổ sư thể hiện qua chín năm ngồi quay mặt vô vách tạo thành sức thu hút Ngài Huệ Khả cao độ đến mức ông đứng ngoài vách băng giá ngập đến đầu gối mà không hay biết. (luọt trích Luận văn tốt nghiệp. Th Nữ Tâm Thảo)

Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Hkha11
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 44- Tham vấn 53 Thiện tri thức (tt)

+ Kế tiếp gặp Đức Vân Tỳ Kheo, sau khi đi vòng chậm rãi đi Kinh hành ở đỉnh núi, toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao vời Ngài đang sống. Nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học Đạo cần phải tìm một người đức hạnh để nương theo. Bước đầu tu tập mà không gần gũi người đức hạnh, thì sau này dù giỏi cách mấy cũng không dùng được. Vì “Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không giá trị”.

+ Rời Đức Vân, đồng tử đến tham vấn Tỳ Kheo Hải Vân . Nơi đây Ngài dạy đồng tử ngồi trên bờ biển quán sát chúng sanh, tức quán chiếu căn cơ chúng sanh trong biển sanh tử, trong sáu nẻo luân hồi, thấy rõ cạm bẫy của cuộc đời để đi vào đời không bị vướng mắc. Đến chỗ Thiện Trụ Tỳ Kheo học về pháp vô ngại, trụ tâm ở ngoài vòng phân biệt của phàm phu.

Đây là giai đoạn tu chùa, trang bị tâm thật an định, trí tuệ cao và đức hạnh lớn, đầy đủ ba tư cách này mới dám dấn thân vào đời.

+ Đồng Tử tiếp tục tham vấn với Y Sư Di Già và trưởng giả giải thoát. Gặp Di Già tại chợ lục đạo hay là cuộc đời. Tu trong chùa là tu lý thuyết Kinh điển, cần phải tiếp cận cuộc đời cho lý sự viên dung. Ở đời ta có dịp quan sát cách đối xử của mọi người để tích lũy những Kinh nghiệm, tăng bản lĩnh, từ đó việc đem đạo vào đời dễ dàng hơn. Nhờ quán sát biết ai căn cơ Thanh Văn thì dạy pháp Thanh Văn, ai căn cơ Đại Thừa thì truyền Đại Thừa giáo, do đó ta mới dễ thành công.

+ Di Già dạy đồng tử tất cả kinh nghiệm ở đời và khuyên gặp Trưởng giả giải thoát để học về pháp xả tránh sự trói buộc của các pháp thế gian.Trưởng giả giàu là nhờ thiện phước, lại không bị của cải ràng buộc thì phải là bậc trí tuệ, làm chủ và chuyển được vật. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bị vật chuyển là vô minh, chuyển được vật tức là Như Lai”. Giải thoát còn hàm nghĩa: “Bỏ tất cả mà được tất cả”.

Các vị thầy của Thiện Tài từ bước khởi đầu cho đến giờ không có vị nào muốn giữ chân Thiện Tài, mà còn bảo Thiện Tài tiếp tục học con đường riêng để tiến xa hơn. Điều này đã làm nổi bật tư tưởng Đại Thừa Phật Giáo. Dạy người để giúp người ngày một tiến lên, không phải bắt họ phải lệ thuộc mình, từ đó chính chúng ta cũng được giải thoát tự tại. Sau khi thọ học trưởng giả giải thoát, Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của trưởng giả đã tiếp tục đến cầu đạo với

+ Hải Tràng Tỳ Kheo tiêu biểu cho mẫu Tỳ Kheo Bồ Tát giới vào đời độ sanh, giải thoát ngay trong trần thế. Thiện Tài đến đúng lúc Hải Tràng đang nhập thiền định, Thiện Tài kiên trì đứng chờ, nhưng càng chờ thì ông càng nhập thiền lâu hơn, chịu đựng đến sáu tháng chợt bừng ngộ, sáu tháng mà Thiện Tài cố công mài dũa hay nói cách khác đó là để Hải Tràng luyện tập cho Thiện Tài tu thiền định. Cách truyền đăng tiếp tâm này cũng được Đạt Ma tổ sư thể hiện qua chín năm ngồi quay mặt vô vách tạo thành sức thu hút Ngài Huệ Khả cao độ đến mức ông đứng ngoài vách băng giá ngập đến đầu gối mà không hay biết.

+ Trên bước đường cầu đạo, ngoài các vị Tỳ Kheo phạm hạnh, sáng suốt như Đức Vân, Hải Vân, Thiện Trụ, Hải Tràng, Thiện Tài còn tu học với hàng cư sĩ như Di Già và Trưởng Giả giải thoát là mẫu người buôn bán, giàu có nhưng ung dung tự tại, sống đức hạnh mang lợi ích đến cho người.

Những nhân vật kiểu mẫu trên mà Kinh Hoa Nghiêm đưa ra nhằm nói lên tinh thần Phật Giáo chẳng những không tiêu cực, yếm thế mà trái lại luôn mang lợi lạc cho đời. Tiến xa hơn nữa để vượt khỏi cố chấp về giới tính nhân vật kế tiếp là

+ Hưu Xá Ưu Bà Di

+ cho đến học với tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa dạy pháp môn lục độ và Thắng Nhiệt Bà Là Môn. Sự kiện này cho ta thấy tâm bình đẳng đã phát triển cao nên Đồng Tử vượt qua cái nhìn đố kỵ đối với ngoại đạo, sẵn sàng tham học với bất cứ ai, không đóng khuôn cố định như trong Kinh Pháp Hoa, Ngài Xá Lợi Phất nói người nữ có năm điều chướng ngại không thể thành Phật. Đức Phật xoá bỏ hoàn toàn cố chấp bằng cách đưa ra hình ảnh Long Nữ tám tuổi thành Phật tức khắc. Đến đây thấy rõ mối quan hệ quan trọng giữa Pháp Hoa và Hoa Nghiêm. Kinh Pháp Hoa nhờ Kinh Hoa Nghiêm giải thích làm sáng tỏ nghĩa hơn.

Rời Hưu Xã Ưu Bà Di đến học với

+ tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa và sống với ngoại đạo, những vị này nổi bật về đạo đức và trí tuệ. Ngoại đạo, cũng có người sáng suốt, như một đạo sư Ấn Độ nói: “Thượng Đế là sự phóng chiếu của tâm linh. Cho nên đối với người, Thượng Đế là một người toàn năng. Còn đối với con ếch Thượng Đế là một con ếch lớn hơn”

+ Bà La Môn Thắng Nhiệt bảo Đồng Tử trèo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa để Bồ Tát Hạnh được thành tựu. Thiện Tài chùng bước nhưng được các vị Thiện Thần khuyên bảo. Cũng vậy, trên bước đường tu tập nhiều lúc chúng ta mỏi mệt chán nản nhưng nhờ gặp được Thiện Tri Thức làm cho chúng ta tinh tấn để vươn lên.

Đến đây Đồng Tử đã thành tựu một số điều cơ bản của một vị Bồ Tát như Phát Bồ Đề tâm, nương tựa Như Lai làm thanh tịnh ngũ uẩn thân, dấn thân vào đời tức vào chúng sanh thân, tu học Tỳ Kheo Đức Vân, hình thành Thanh Văn thân đi tiếp tục học với Tỳ Kheo Hải Vân.

+ Rồi từ đạo vào đời học với Y Sư Di Già,

+ Trưởng giả Giải Thoát,

+ kế đến học với Thiện Trụ Tỳ Kheo là từ đời trở về đạo để thấy đạo và đời không hai, tự nâng mình lên thành Tỳ Kheo Bồ Tát.
Cuộc_hội_vấn_giữa_Tứ_Tổ_Đạo_Tín_và_Thiền_sư_Ngưu_Đầu_Pháp_Dung.jpg
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 45.- Tinh thần cầu học của Thiện Tài Đồng Tử:Văn - Tư - Tu. -“Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất” .

Thiện Tài Đồng Tử tiêu biểu cho Bồ Đề trí giác hay Bồ Đề tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc giáo hóa của Chư Phật. Vì Bồ Đề tâm là đối tượng chính để Phật thị hiện khai thị, khơi dậy tiềm năng giác ngộ sẵn có trong mỗi con người.

Thiện Tài là một Phật tử tha thiết đi tìm chân lý, là một thực thể tuyệt đối, tuy thường hằng nhưng đa dạng, tuy chói sáng nhưng ảo diệu lung linh. Vì thế đề tránh đi lỗi lầm của “người mù sờ voi” mà Thiện Tài đã không quản khó nhọc gian lao đi hỏi đạo khắp nơi.

Suốt mấy mươi năm lặn lội chân trời góc bể tìm thiện tri thức để học hỏi pháp môn tu Bồ Tát Đạo và Bồ Tát Hạnh, Thiện Tài đã thực hành đầy đủ ba phương pháp Văn - Tư - Tu.

Lãnh hội những lời kim ngọc của các bậc thiện tri thức là Văn.

Nghe xong lại lên đường, trên quãng đường dài, thuận tiện cho Thiện Tài có đủ thời gian chiêm nghiệm những bài học đã qua, ngõ hầu thâm đạt ý nghĩa sâu xa là Tư.

Đồng Tử lắm lúc gian nan lại thêm những cảnh trạng bày ra trước mắt, khi ở chốn hoang vu lâm sơn, khi ở chốn phồn hoa đô hội nhiều sự phân biệt hơn thua tranh giành cấu xé lẫn nhau, tiếp xúc đủ hạng người trong xã hội, việc đối đãi qua lại lắm lúc Thiện tài cảm thấy chán nản mệt mỏi buồn thảm. Nhưng khi ấy Thiện Tài vội định tâm không để thất tình lục dục chi phối. Thiện Tài quán cuộc đời qua các pháp môn đã học để chặn đứng những ý nghĩ đen tối của mình đó là Tu.

Chính nhờ thực hành nhuần nhuyễn phương pháp Văn - Tư - Tu. Thiện Tài đã nắm được chìa khóa mở được ngôi nhà chánh pháp. Nhờ quá trình tu học hoàn mãn, Thiện Tài đã thể nhập đến chỗ “Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất” từ lúc nào không hay biết.

Trong quá trình tu học, Thiện Tài biết kết duyên với các bậc Thiện Tri Thức, những người thông đạt giáo lý, có trình độ tu chứng đắc các pháp môn Tam Muội, giải thoát thiền định, trí tuệ. Đó là những người đã trợ giúp cho mầm giác ngộ của Thiện Tài được tăng trưởng. Cho nên Thiện Tri Thức là yếu tố thứ hai sau yếu tố tiên quyết của Bồ Đề Tâm là người trợ duyên đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo tri thức cho Thiện Tài Đồng Tử. Họ là những người có Kinh nghiệm đi trước chỉ phương cho hành giả đi đến đích. Như người leo núi phải hỏi những người đang xuống núi. Hơn nữa, Thiện Tri Thức là người tạo môi trường tốt đẹp để hành giả tiến tu.

Thiện Tài Đồng Tử là người có ý chí nghị lực phi thường và những đức tính sáng ngời về phương diện tinh thần nên Thiện Tài có đủ khả năng vượt qua mọi gian lao thử thách, những cám dỗ của cuộc đời và những chúng sanh cang cường.

Thiện Tài học đạo với tinh thần khiêm cung tự hạ:

“Ai cũng có thể là thầy ta” với tâm niệm tha thiết cầu tiến, Thiện Tài học đạo với đủ mọi thành phần trong xã hội. Với ai, Thiện Tài cũng một lòng kính cẩn ngưỡng mộ, từ các đồng tử cho đến trưởng lão … người nào cũng có cái hay để Thiện Tài học hỏi. Dù ở giai cấp nào, nam nữ, thương gia, thuyền chủ, kỹ nữ … cho đến các bậc quyền quý cao sang như quốc vương, trưởng giả… ai cũng có thể dạy cho Thiện Tài những bài học vô giá.

Tinh thần cầu học của Thiện Tài Đồng Tử trong Kinh Hoa Nghiêm giống Bồ Tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa.

Trên tinh thần toàn diện đó, Hoa Nghiêm đúc kết những tinh hoa của cuộc đời để lập thành mẫu người lý tưởng là Thiện Tài có đầy đủ Kinh nghiệm thiện xảo về cuộc đời để nhập thế hành đạo Bồ Tát, như vậy mới đem lại lợi ích thiết thực hơn.

Học đạo với tinh thần không chấp :

Khác hẳn với chúng ta, Thiện Tài không bao giờ đặt ra khuôn mẫu cố định về Thiện Tri Thức. Còn chúng ta luôn nghĩ rằng Thiện Tri Thức là những người phải học cao đức rộng, tinh thông tam tạng. Thiện Tài quan niệm Thiện Tri Thức rất rộng rãi, ai là người tỉnh thức chỉ bảo cho mình đều là thiện hữu cả. Tuy nhiên người học Phật phải luôn cảnh giác nếu không khéo sẽ tự đồng hóa mình với ngoại đạo nên Phật dạy: “Y pháp bất y nhân” .

Cho nên khi bái kiến Bà La Môn Thắng Nhiệt ở nước Y Sa Na vị này bảo Thiện Tài trèo lên núi đao, nhảy xuống hầm lửa đỏ, hay lúc gặp quốc vương Vô Túc đang tra tấn tội nhân “Tiếng la dậy đất, tiếng kêu thấu trời” và đầy những cực hình hung tợn … thử hỏi gặp những người và cảnh như thế Thiện Tài làm sao không cảnh giác cho được? Còn khi đến nhà kỷ nữ Bà Tu Mật Đa, một giai nhân tuyệt sắc, Thiện Tài phải cố gắng giữ lòng, đầy đủ oai nghi giới hạnh mới học được pháp môn “ly tham dục tế”.

Đại thừa chủ trương “Phật Pháp là bất định pháp” cho nên ngoài việc bất định khuôn mẫu Thiện Tri Thức mà những pháp học cũng đều mang tính bất định pháp. Vì pháp môn nào cũng hàm ẩn chân lý giải thoát cả, tư tưởng này phá bỏ những cố chấp theo một chiều của những người tu tiểu thừa khép kín trong giáo lý nguyên thủy. Thiện Tài Đồng Tử học đạo như con ong bay đi khắp nơi để hút chất ngọt trong các nhụy hoa tinh luyện thành thứ mật thơm quý. Cũng vậy, Thiện Tài biết dung hợp các môn phái dù là không môn, hữu môn, Pháp tánh, Pháp tướng hoặc Thiền hay Tịnh, Hiển hay Mật, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, tất cả đều tương dung tương nhiếp trong ánh sáng chan hòa của Phật Pháp, nên Thiện Tài đã lần lượt học các pháp môn một cách thông đạt.
Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Thin_t12

Thiện Tài phát Bồ Đề Tâm cốt để “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” là chí nguyện của một vị Bồ Tát nên Thiện Tài vừa trau dồi trí tuệ vừa mở rộng tâm bi, đồng thời học đủ vạn hạnh của một vị Bồ Tát như: lục độ, tứ nhiếp pháp, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lục thông, ngũ minh … Có khi một pháp môn mà Thiện Tài phải học nhiều lần với nhiều vị thầy khác nhau.

Về giáo dục tri thức để đào tạo Ngũ Minh cho một vị Tu Sĩ là một hệ thống giáo dục tốt đẹp của Phật giáo trong bất cứ thời đại nào, ở bất cứ nền văn hóa nào....

+ Ba vị Bồ Tát sau cùng là Di Lặc, Văn Thù và Phổ Hiền là những vị Bồ Tát thượng thủ thừa hành Phật ấn chứng cho vị “Tân Bồ tát” chính là Thiện Tài Đồng Tử. Đến đây Thiện Tài Đồng Tử cảm thấy sung sướng vì “Công viên quả mãn” cả một đời hy sinh cho lý tưởng giác ngộ được thành công tốt đẹp.

Tinh thần cầu học của Thiện Tài được Kinh Hoa Nghiêm ghi nhận một cách rất tỉ mỉ và logic từ sự đến lý, từ tướng đến tánh trong một hệ thống phân tầng từ thấp đến cao, từ thế gian đến xuất thế gian. Qua đó ta thấy việc giáo hóa hay mục đích khai thị giác tâm cho chúng sanh và tính giác ngộ tự nguyện của con người có sự thông nhiếp với nhau gọi là “tâm cảm tâm” . Thiện Tài được Bồ Tát Văn Thù khai tâm qua lời thuyết pháp mà sanh niềm tin gọi là “tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh”.

Cho nên phải biết người đó từ trong Phật pháp mà sanh ra và kết tinh thành con người sống động, đầy đủ Bồ Tát hạnh làm lợi lạc cho đời. Đây chính là hình ảnh cao quý cho những hành giả có tâm nguyện Đại Thừa. Thật đúng là :

Hoa lòng đã sớm nở rồi
Thì hoa Bát Nhã kịp thời nở đơm
Gió làn hương dịu mát thơm
Mới hay thịnh đức, chứa dồn từ lâu.
(Văn thơ Phật giáo – nhiều tác giả)

+++++++++++++
Bài viết này xin kết thúc ở đây. Kính chúc Đại chúng đồng Nhập Pháp Giới Hoa Nghiêm. Đồng chứng Pháp Thân. Đồng Thành Phật Đạo.

Nam Mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát.
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
662
Điểm tương tác
597
Điểm
93
Bài 46.- “Nhập Pháp Giới” :

là phẩm tâm cao nhất của toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm. Mà nhân vật chính là Thiện Tài Đồng Tử, một mẫu người lý tưởng có chí tiến thủ sắt đá, nguyện hiến dâng suốt đời mình để phụng sự đạo vô thượng. Đồng Tử đã chẳng từ nan đi khắp đó đây tìm cho được minh sư, thiện hữu, tham học đủ với mọi hạng người, từ bậc thượng trí thượng căn đến những người thấp hèn trong xã hội, nguyện dốc lòng hướng thượng cầu được Giác Ngộ, hướng hạ rãi tâm đại từ rộng phắp bốn phương, mong cứu độ toàn thể chúng sanh trong cõi Ta Bà đầy thương đau khổ luỵ. Hay nói khác hơn “Nhập pháp giới” là đi vào thế giới bao la của tình thương và trí tuệ. Nhập vào cảnh địa Tỳ Lô Giá Na pháp thân chứng được nhất tâm chơn như vô chướng ngại pháp giới, hay lìa thế gian sai biệt giả tướng bề ngoài mà nhập vào thế giới thể tánh bình đẳng vô sai biệt tướng bên trong, nhập vào tâm đại đồng của vũ trụ, thấy mình với người, tâm và cảnh, tuy hai mà một, một mà hai.

Trong thời gian hai mươi mấy năm trời, không ngại sương sa tuyết lạnh, mưa dầm nắng hạn, Thiện Tài lê gót khắp nơi tìm cầu Thiện Tri Thức để tu Bồ Tát Hạnh trải qua tất cả năm mươi ba vị. Điều này có ý nghĩa:

Mục đích của Thiện Tài là “Nhập Pháp Giới”, vì vậy trên lộ trình từ thế gian giới đến Pháp Giới Phật phải trải qua quá trình gian nan cam go đầy thử thách, với người có ý chí kiên cố, nguyện lực vững vàng của một hành giả mang hoài bão to lớn nối truyền mạng mạch Phật Pháp mới có thể gánh vác nổi. Trải qua 53 vị Thiện Tri Thức (vị thầy học đạo), Thiện Tài đã đạt được 53 quả vị từ Thiện đến Thánh đến Bồ Tát mà trong Hoa Nghiêm Tông đã vạch ra để dẫn dắt Thiện Tài hay người học Phật đến quả vị Phật. Năm mươi ba quả vị gồm có:

Thập Tín
Thập Trụ
Thập Hạnh
Thập Hồi Hướng
Thập Địa

+ Vị thầy đầu tiên của Thiện Tài là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tượng trưng cho trí tuệ, với nhiệm vụ hóa đạo. Hết thảy cái gì tiêu biểu cho Đại Trí Tuệ bất khả tư nghì của Như Lai đều được Ngài Văn Thù lãnh hội. Do đó ta có thể nói Văn Thù là vị Bồ Tát tiêu biểu Đại Giác của Phật Thích Ca. Vị Thầy sau cùng là Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, tượng trưng cho hạnh nguyện. Đây là sự phối hợp hài hòa giữa Tri và Hành. Người muốn tu học Bồ Tát Đạo phải có trí tuệ sáng suốt, phải tìm mọi cách để phát huy nguồn linh quang sẵn có nơi mình. Trí tuệ tượng trưng cho lý tánh, là ngọn đuốc soi đường cho hành giả, còn hạnh nguyện tượng trưng cho sự tướng, ví như đôi chân. Bao giờ “Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất” thì tánh tướng vô ngại dung thông, hành giả ung dung bước vào tòa nhà Như Lai.

+ Thiện Tài là một Phật Tử tha thiết tìm chân lý mà chân lý là một thực thể tuyệt đối, tuy thường hằng nhưng đa dạng, tuy chói sáng nhưng lại ảo diệu lung linh, ví như một viên như ý bảo châu, tuy bản thể của nó chỉ là một nhưng lại tỏa ra muôn ngàn tia sáng long lanh và chiếu ra muôn màu sắc. Muốn nhận ra nó và muốn nắm giữ được nó phải trải công tìm hiểu chân lý muôn mặt là tránh đi cái lỗi lầm của những “người nấu cát mà muốn thành cơm”. Chính vì lẽ đó mà Thiện Tài không quản bao công lao khó nhọc đi hỏi đạo khắp nơi, tuy biết rằng lẽ đạo nhiệm mầu nhưng trước sau chỉ có một.

+ Tốn công lao trong mấy chục năm trời, lặn lội chân trời góc biển, hết thọ giáo với vị này lại theo lời chỉ dẫn tìm đến vị khác, chẳng phải Thiện Tài chỉ cầu nghe Đạo mà thật ra trong thời gian đó Thiện Tài đã thực hành đủ 3 phương pháp Văn – Tư – Tu. Chính nhờ thực hành phương pháp Văn – Tư – Tu một cách nhuần nhuyễn mà Thiện Tài đã nắm được chìa khóa mở cửa ngôi nhà Chánh Pháp.

+ Vai trò quan trọng của Thiện Tri Thức: Người cầu đạo Bồ Tát là người đã biết phát tâm Bồ Đề, tức là đã có một yếu tố tiên quyết để thành đạo, nhưng nếu không có sự giúp đỡ của Thiện Tri Thức thì chẳng thể nào tiến tu được. Do đó vai trò của Thiện Tri Thức rất quan trọng đối với hành giả. Vì Thiện Tài chính nhờ vào năm mươi ba vị Thiện Tri Thức mới thành tựu sự tu học. Chúng ta có thể tóm tắt vai trò của Thiện Tri Thức như sau:

Thiện Tri Thức là người chỉ đường cho hành giả, vì họ là những người đã có kinh nghiệm đi trước. Muốn tìm đường lên núi phải hỏi những người đang xuống núi. Muốn tu pháp Thiền phải thỉnh cầu vị Thiền Sư … Nếu như hành giả tự mình vạch lối, rẽ lau thì chẳng những hao tốn nhiều công phu mà đôi khi còn lầm đường lạc lối.

Thiện Tri Thức là người tạo cho hành giả một môi trường tốt đẹp để tiến tu. Bởi vì nếu hằng ngày hành giả chỉ giao tiếp với các Thiện Tri Thức, thường được nghe giảng những lời kim ngọc thì chủng tử thiện ngày càng tăng trưởng, làm cho các chủng tử ác phải tiêu hao. Cũng như ở cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà sự tu tập luôn thuận lợi … hành giả dễ chứng đắc tiến lên địa vị Bất Thối.

Thiện Tri Thức là những người có cái nhìn khách quan nên dễ nhận ra những thiếu sót, sơ hở của hành giả để kịp thời chỉ bảo cho hành giả sửa đổi. Nếu một mình ẩn tu, hành giả rất khó bỏ ngã chấp-vị kỷ. Tục ngữ có câu “Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì quáng”. Cho nên người tu cần phải can đảm đón nhận những lời phê bình quý giá của các bậc Thiện Tri Thức.

Qua 53 tiến trình tu học của Thiện Tài Đồng Tử, ta thấy Kinh Hoa Nghiêm lập ra cho ta nền giáo dục vững chắc, giáo dục từ thô đến vi tế pháp từ cách ăn nói (ái ngữ), hành xử (lợi hành đồng sự) …cho đến thái độ (Hoan hỷ địa) và vi tế sâu sắc hơn là giáo dục về trí tuệ Bát Nhã giải thoát. Đạo Phật chủ trương giải thoát ngay trong hiện tại (Hiện tiền địa) nương vào Phật lực để hành đạo Bồ Tát (Thiện Huệ địa) và luôn nhấn mạnh việc lấy đức làm đầu (Pháp vân địa). Kinh Hoa Nghiêm cũng như các Kinh Đại Thừa đều lấy trí tuệ chỉ đạo cho mọi hành động và để mở rộng phương tiện làm đạo Bồ Tát không khép kín trong mô hình cố định nào. Điều này nổi bật tính “Bất định” trong Phật Giáo, đồng thời những hành giả Đại Thừa rất tôn trọng ý chí tự do, có như vậy mới thấy hết khả năng của con người để tận dụng vào công việc một cách chính xác hợp với khả năng của họ. Hơn nữa Đạo Phật thường chủ trương “tri hành hợp nhất” nghĩa là cái biết đi trước, việc làm theo sau, người có trí tuệ rồi, có đủ tri thức mới có thể làm đạo được. Theo Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đã trải qua học hơn 50 cái biết đạt đến chỗ Nhất Thiết Trí, khi ấy Bồ Tát Phổ Hiền mới ấn chứng cho Thiện Tài hành Bồ Tát hạnh. Từ ngoài thế gian giới Thiện Tài học hỏi để biết Nhập Pháp Giới rồi từ trong Pháp Giới Thiện Tài trở lại thế gian giới để kiểm chứng lại mình.

Qua sự cọ xát với cuộc đời mới đánh giá được thực chất của con người đã có trình độ, có Kinh nghiệm tu chứng thật sự. Cho nên Đạo Phật giáo dục con người cốt là đào tạo về chất lượng trí tuệ, phẩm hạnh giới đức, thái độ giải thoát và cách hành xử bình đẳng không thiên vị. Học hỏi nghiên cứu giáo lý Đạo Phật mới thấy được những điểm nổi bật này vượt trội hơn các đạo khác ở bốn yếu tố đó. Ngoài ra đạo Phật còn chủ trương tinh thần vô chấp thủ qua pháp môn hồi hướng, đây là một dạng “cho” triệt để không mong cầu trả lại, nhưng xét kỹ đó chẳng qua đó là trao đổi vật thể vô hình, đổi cái hữu lậu để lấy cái cao quý vô lậu. Qua đó ta thấy Đạo Phật chỉ cốt giáo dục bằng tâm, một nền giáo dục siêu hình nhưng bám sát thực tại mà lại siêu thực và trở thành nền giáo dục siêu thế gian không một đạo giáo nào có thể sánh kịp. Vì vậy Giáo Sư Lý Kim Hoa, một học giả nổi tiếng khoa sử Việt Nam nhận định về giáo dục Phật Giáo như sau:

“Nền giáo dục Phật Giáo là một nền giáo dục của khối óc và con tim quả cảm. Tư tưởng giáo dục Phật Giáo là tư tưởng giáo dục hiện thực và hành động”.

C. KẾT LUẬN

Kinh Điển tùy duyên tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư.
Đến nay tính lợi đà quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.

(Cố Hòa Thượng Phước Hậu, Chùa Báo Quốc)

Đây chính là tư tưởng chung của những hành giả học Kinh Điển Đại Thừa và họ có lối nhìn phóng khoáng của người ngộ đạo. Hoa Nghiêm gắn liền với lối sống thực tại dù là một thực tại nay đau thương nhưng nó vẫn thực tế hơn và sự hiện hữu của nó là sự hiện hữu của bức thông điệp ngàn đời bất hủ. Vì vậy hành giả phải lấy cái xấu của cuộc đời để quan sát, thấy cái ác để tránh, thấy cái tội lỗi để răn mình. Cho nên khi đối diện với nghịch cảnh trái ngang, hành giả không cảm thấy chán chường hay thất vọng, sự mất mát đau thương của kiếp sanh lão bệnh tử là cái “Bi” của thế gian đối nghịch với cái “Hỷ” của xuất thế gian là vô sinh và bất diệt. Hành giả học Phật là giữ được tính thăng bằng của nội tâm, vì nội tâm an lạc là nội tâm tràn ngập “Từ, Bi, Hỷ, Xả” vượt khỏi bản ngã nhỏ hẹp, vị kỷ mà vị tha, xem nhẹ cái riêng mà đặt nặng cái chung. Khi hành giả đạt đến trạng thái tâm ấy thì sẽ dung hòa được tất cả pháp, đạt đến chỗ “Một là tất cả, tất cả là một” đó chính là tâm vô phân biệt của lý tưởng sự sự vô ngại pháp giới của Tông Hoa Nghiêm “Nhất tức nhất thế”. Như vậy hành giả đã thể nhập vào pháp giới Hoa Nghiêm và cảm nhận được:

Đây là tịnh độ tịnh độ là đây
Mỉm cười chánh niệm
An trú hôm nay
Bụt là chín, Pháp là mây bay
Tăng thân khắp chốn
Quê hương nơi này
Thở vào hoa nở
Thở ra trúc bay
Tâm không ràng buộc
Tiêu dao tháng ngày
(Đây là Tịnh Độ – Thiền sư Nhất Hạnh)

Đúng như lời Thiền sư Vạn Hạnh đã dạy;

Trời tam muội bao la vô cùng tận
Trăng tứ trí viên mãn chiếu sáng ngời
“Có còn chi để kiếm tìm
Niết Bàn rõ ràng trước mặt
Cõi giới này là cõi Liên Hoa
Chính thân này là thân Phật”.
(lượt trích Luận văn tốt nghiệp. Thích Nữ Tâm Thảo.)

thin_t11.jpg


Bài viết này xin kết thúc ở đây. Kính chúc Đại Chúng đồng Nhập pháp Giới. Đồng Chứng Pháp Thân, Đồng thành Phật Đạo.
 
Last edited:

trừng hải

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
30 Thg 7 2013
Bài viết
1,097
Điểm tương tác
687
Điểm
113
Kính đa tạ Thầy Viên Quang đã giới thiệu Huê Nghiêm Huyền Môn, Pháp giới bất khả tư nghì qua những chơn văn tường thuật hành tướng diệu hóa, tùy hảo mà mặc tịnh đồng nhất cả tam thân, Pháp thân Hóa thân Báo thân trong sát na NHƯ THỊ NHƯ THỊ.

Hương lý kết tường vân Tam Thân viên hiển
Hoa khai trình diệu tướng Thập Hiệu hùng tôn


Kính
trừng hải
 
Last edited:

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,715
Điểm tương tác
784
Điểm
113
Nghe chư đại Thánh nói rằng Kinh Hoa Nghiêm lưu truyền tại cõi Nam Diêm Phù Đề là lược tắt, ngưỡng cầu chư Phật mười phương từ bi dẫn hoá, thân hoại mạng chung, hết thảy đại chúng nơi đây đều được thân gần chư đại Phật, để lãnh hội trọn vẹn Hoa Nghiêm Kinh này.

Nam mô thập phương thường trú Tam Bảo.
 
Last edited:

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17 Thg 1 2024
Bài viết
150
Điểm tương tác
117
Điểm
43
Nghe chư đại Thánh nói rằng Kinh Hoa Nghiêm lưu truyền tại cõi Nam Diêm Phù Đề là lược tắt, ngưỡng cầu chư Phật mười phương từ bi dẫn hoá, thân hoại mạng chung, hết thảy đại chúng nơi đây đều được thân gần chư đại Phật, để lãnh hội trọn vẹn Hoa Nghiêm Kinh này.

Nam mô thập phương thường trú Tam Bảo.
Sao lại phải đợi tới khi tứ đại tan rả? Ấy gọi là kiến chấp nhị thừa!

Sắc tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc

Ngay đây và bây giờ. Vốn Chân đâu lại chờ lúc nào :D

Không khởi và khởi đều viên tròn vì tánh chẳng khác vậy :D

Vô trụ liền chân trụ

Đại tự tại ngay đi :D
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,715
Điểm tương tác
784
Điểm
113
Sao lại phải đợi tới khi tứ đại tan rả? Ấy gọi là kiến chấp nhị thừa!

Sắc tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc

Ngay đây và bây giờ. Vốn Chân đâu lại chờ lúc nào :D

Không khởi và khởi đều viên tròn vì tánh chẳng khác vậy :D

Vô trụ liền chân trụ

Đại tự tại ngay đi :D
Hề hề,

Đại tự tại rồi, sao lại câu chấp trước thân sau thân, tánh sắc tánh không chẳng khác, chứ sắc là sắc không là không, pháp giới tánh tướng nhân quả sao lại đảo lộn như thế được.

Đại Bồ Tát Phổ Hiền còn nguyện thỉnh Phật trụ thế, thì hàng phàm phu không nên chẳng tự lượng sức, bởi ngộ tánh nhập chân Sơ địa Bồ Tát mới chỉ gọi là càn Huệ - cái Huệ khô cạn "chưa nối được dòng pháp của Như Lai",

Vì sao biết được ?

12 phần giáo chưa tự ngôn thuyết, thì biển Trí Như Lai sao cho là đã nhập.

Hì hí,
Có hiểu không ?
Mến kính,
Ba Tuần.
 
Last edited:

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17 Thg 1 2024
Bài viết
150
Điểm tương tác
117
Điểm
43
Hề hề,

Đại tự tại rồi, sao lại câu chấp trước thân sau thân, tánh sắc tánh không chẳng khác, chứ sắc là sắc không là không, pháp giới tánh tướng nhân quả sao lại đảo lộn như thế được.

Đại Bồ Tát Phổ Hiền còn nguyện thỉnh Phật trụ thế, thì hàng phàm phu không nên chẳng tự lượng sức, bởi ngộ tánh nhập chân Sơ địa Bồ Tát mới chỉ gọi là càn Huệ - cái Huệ khô cạn "chưa nối được dòng pháp của Như Lai",

Vì sao biết được ?

12 phần giáo chưa tự ngôn thuyết, thì biển Trí Như Lai sao cho là đã nhập.

Hì hí,
Có hiểu không ?
Mến kính,
Ba Tuần.

Ha ha...

Kính bác 3!

Đã gọi là Đại Tự Tại có nghĩa là tất cả những gì thành hoại, khởi cùng chẳng khởi, hiểu cùng chẳng hiểu đều không chi phối cảnh giới Vô Trụ tức Tự Tại .

Bác có hiểu không :D
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên