- Tham gia
- 23/8/10
- Bài viết
- 3,832
- Điểm tương tác
- 766
- Điểm
- 113
Lục Tổ đã từng dạy:
Đó đường lối của Thiền Tông, TỰ TÁNH TÂY PHƯƠNG, tức giác ngộ bản lai của chính mình, chỗ đó không phải Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mà Phật dạy, chỗ tự tánh ấy là cứu cánh cho những người ở Cực Lạc và mọi thế giới. Cái mà trong Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Niệm Phật Ba La Mật nói là "Thế Giới" Cực Lạc, chứ không phải tự tánh, nó là một thế giới để người ta dễ dàng giác ngộ tự tánh chính mình.
Lục Tổ chưa biết là Tây Phương Cực Lạc không có các thứ ác: không có tâm ác, không có ba đường ác, chỉ toàn là thiện lành, vì không ác mà chỉ thiện nên mới được gọi là Cực Lạc! Người ở đó không hề có tâm ác và tạo tội. (Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Niệm Phật Ba La Mật)
Kế đến nữa, Lục Tổ chưa biết ưu điểm của thế giới Cực Lạc là cuối cùng ai nấy đều thẳng đến Phật Quả nên mới bảo "Tu thập thiện, không cần nguyện vãng sanh" mà trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Phật khuyên người niệm Phật phải nguyện vãng sanh. Cái hay của Tịnh Độ là dẫn dắt người mê vãng sanh (tuy còn mê nhưng không theo pháp ác, tin nhân quả, tin Phật pháp giải thoát sanh tử), khi lọt vào được Cực Lạc thì sẽ chắc chắn giác ngộ.
“… Sử Quân hỏi: Ðệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A Di Ðà, nguyện sanh Tây Phương, được vãng sanh chăng? Xin Hoà Thượng chỉ thị để phá nghi.
Sư (Lục Tổ Huệ Năng) nói: Sử Quân hãy nghe đây. Lúc Thế Tôn ở trong thành Xá Vệ thuyết Kinh Dẫn Hoá Tây Phương, rõ ràng từ đây đến đó chẳng xa. Nếu nói theo tướng thuyết, tính theo số dặm thì có mười vạn tám ngàn, tức thập ác tám tà nơi thân; đó là nói xa. Nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì người thượng trí, người có hai loại, pháp chẳng hai thứ, do mê ngộ có khác nên thấy có nhanh chậm. KẺ MÊ NIỆM PHẬT CẦU SANH NƠI KHÁC, NGƯỜI NGỘ TỰ TIN NƠI TÂM. Cho nên Phật nói: TÙY NƠI TÂM TỊNH (trong sạch) TỨC PHẬT ĐỘ TỊNH.
Sử Quân là người Ðông Phương, hễ tâm tịnh thì chẳng tạo tội, người Tây Phương tâm nếu chẳng tịnh cũng có lỗi. Người Ðông Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người Tây Phương tạo tội cầu sanh phương nào? Kẻ mê chẳng rõ tự tánh, chẳng biết tịnh độ trong thân, cầu nguyện nơi Ðông nơi Tây, người ngộ thì ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói: Ở bất cứ nơi nào cũng đều an lạc vậy.
Sử Quân nếu chẳng khởi ác niệm thì Tây Phương cách đây chẳng xa, nếu tâm thường khởi ác thì dẫu cho niệm Phật cũng khó mà vãng sanh. Nay khuyên thiện tri thức, trước nhất phải TRỪ THẬP ÁC, tức đã đi được mười vạn dặm, sau DỨT TÁM TÀ, tức đã qua tám ngàn dặm vậy. Niệm niệm thấy Tánh, thực hành Bình-đẳng và Ngay-thẳng, đến Tây Phương như búng ngón tay, liền thấy Di Ðà. Sử Quân chỉ cần tu Thập-thiện, đâu còn phải nguyện vãng sanh! NẾU CHẲNG DỨT THẬP ÁC TÂM, PHẬT NÀO MÀ ĐẾN RƯỚC? Nếu ngộ được pháp vốn VÔ SANH, thấy Tây Phương chỉ trong chốc lát, chẳng ngộ Tự Tâm mà niệm Phật thì con đường vãng sanh xa xôi, làm sao đến được! Nay Huệ Năng dời Tây Phương đến với các ngươi, chỉ cần trong sát na liền thấy trước mắt, các ngươi có muốn thấy chăng?
Ðại chúng đảnh lễ rằng : Nếu được thấy tại nơi đây, đâu cần cầu nguyện vãng sanh nữa, xin Hoà Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho cả thảy đều thấy.
Sư nói: Ðại chúng! Cơ thể của các ngươi là thành, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý (ý căn), tâm là địa, tánh là vua. Vua ngụ nơi tâm địa, tánh còn tức vua còn, tánh đi vua chẳng còn, tánh còn thân tâm còn, tánh đi thân tâm hoại. Tìm Phật ở nơi tâm, chớ nên cầu bên ngoài. Tự tâm Mê tức chúng sanh, tự tâm Giác Ngộ tức Phật, Từ Bi tức Quán Âm, Hỉ Xả tức Thế Chí, Thanh Tịnh tức Thích Ca, Bình Đẳng ngay thẳng tức Di Ðà, Nhơn-Ngã là núi Tu Di, Tà-tâm là nước biển, Phiền-não là làn sóng, Độc-hại là rồng ác, Hư-vọng là quỷ thần, Trần-lao là cá trạch, Tham - Sân là địa ngục, Ngu-Si là súc sanh. Thiện tri thức, thường HÀNH THẬP THIỆN, thiên đàng liền đến; TRỪ ĐƯỢC NHƠN-NGÃ, núi Tu Di sụp; PHÁ ĐƯỢC TÀ TÂM thì nước biển cạn; CHẲNG SANH PHIỀN NÃO thì làn sóng lặn; QUÊN BỎ ĐỘC HẠI thì cá rồng tuyệt. Tự tánh Như Lai trong tâm địa phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá hết lục dục chư thiên, tự tánh chiếu soi, bên trong liền trừ Tam-độc THAM - SÂN - SI, các tội Địa ngục nhất thời tan rã, trong ngoài sáng tỏ, chẳng khác Tây Phương, nếu chẳng tu như vậy, Tây Phương làm sao đến được?
Ðại chúng nghe nói, đều tự tin sẽ được kiến tánh, thảy đều lễ bái tán thán rằng: Lành thay, nguyện khắp pháp giới chúng sanh, nghe được pháp này sẽ được từ NGHI đến NGỘ.
Sư nói: Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, chẳng do tại chùa. Tại gia tu được như người Ðông Phương mà tâm thiện, tại chùa chẳng tu như kẻ Tây Phương mà tâm ác, chỉ cần TÂM ĐƯỢC THANH TỊNH tức là TỰ TÁNH TÂY PHƯƠNG.
Đó đường lối của Thiền Tông, TỰ TÁNH TÂY PHƯƠNG, tức giác ngộ bản lai của chính mình, chỗ đó không phải Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mà Phật dạy, chỗ tự tánh ấy là cứu cánh cho những người ở Cực Lạc và mọi thế giới. Cái mà trong Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Niệm Phật Ba La Mật nói là "Thế Giới" Cực Lạc, chứ không phải tự tánh, nó là một thế giới để người ta dễ dàng giác ngộ tự tánh chính mình.
Lục Tổ chưa biết là Tây Phương Cực Lạc không có các thứ ác: không có tâm ác, không có ba đường ác, chỉ toàn là thiện lành, vì không ác mà chỉ thiện nên mới được gọi là Cực Lạc! Người ở đó không hề có tâm ác và tạo tội. (Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Niệm Phật Ba La Mật)
Kế đến nữa, Lục Tổ chưa biết ưu điểm của thế giới Cực Lạc là cuối cùng ai nấy đều thẳng đến Phật Quả nên mới bảo "Tu thập thiện, không cần nguyện vãng sanh" mà trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Phật khuyên người niệm Phật phải nguyện vãng sanh. Cái hay của Tịnh Độ là dẫn dắt người mê vãng sanh (tuy còn mê nhưng không theo pháp ác, tin nhân quả, tin Phật pháp giải thoát sanh tử), khi lọt vào được Cực Lạc thì sẽ chắc chắn giác ngộ.