Thắng Pháp Tập Yếu Luận

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

SẮC GIỚI TÂM: 5 SẮC GIỚI THIỆN TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 17) Vitakka-vicàra - pìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànakusalacittam. Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhàna-kusalacittam. Pìtisukhekaggatàsahitam tatiyajjhànakusalacittam. Sukhekaggatàsahitam catutthajjhànakusalacittam. Upekkhekaggatàsahitam pancamajjhànakusalacittam ceti imàni pancapi rùpàvacarakusalacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Vitakha: Tầm. Vicàra: Tứ. Pìti: Hỷ. Sukha: Lạc. Ekaggatà: Nhứt tâm. Sahitom: Câu hữu. Pathama: Ðệ nhất Jhàna: Thiền. Kusalacittam: Thiện tâm. Dutiya: Ðệ nhị. Tatiya: Ðệ tam. Catuttha: Ðệ tứ. Upekkhà: Xả. Pancama: Ðệ ngũ. Panca: Năm. Rùpàvacara: Sắc giới.

III. VIỆT VĂN.

- 17) Ðệ nhứt thiền thiện tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ nhị thiền thiện tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tam thiền thiện tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền thiện tâm câu hữu với lạc và nhứt tâm Ðệ ngũ thiền thiện tâm câu hữu với xả và nhất tâm. Như vậy năm tâm này được gọi là Sắc giới thiện tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Tâm ở Dục giới luôn luôn dao động, bị chi phối bởi dục lạc nên không thể định tỉnh. Vì vậy có người tu hành muốn chứng được định tâm. Vị ấy lấy một hình tròn độ hơn một gang tay và dùng đất màu hồng trét bằng. Vật ấy gọi là Parikamma Nimitta, hay Sơ tướng. Người tu hành ngồi và nhìn đối tượng ấy hết sức chăm chú cho đến khi nhắm mắt mà vẫn có thể thấy một hình tròn sáng hiện ra. Ðó tức là Uggaha Nimitta (thô tướng). Uggaha Nimitta này còn thô sơ và còn những dấu vết dọc ngang của đối tượng trét đất trước. Với đối tượng này, người tu hành lại chuyên chú định tâm quán sát cho đến khi trở thành Pàtibhàga Nimitta (quang tướng). Quang tướng này thành một vòng trong sáng không một tì vết nào cả, mà chỉ do tưởng tượng hình thành mà thôi. Người tu hành vẫn tiếp tục định tâm trên Pàtibhàga Nimitta này cho đến khi chứng được đệ nhất thiền (Pathamajjhàna).

Khi chứng được Ðệ nhứt thiền, thời 5 Nìvarana (Triền cái): Kàmacchando: Dục cái, Vyàpàda: Sân, Thìnamiddha: Hôn trầm, Uddhacca-kukkucca: Trạo cử và Vicikicchà: Nghi) được diệt trừ và 5 Thiền chi sau đây được hiện ra: Vitakka (tầm), Vicàra (tứ), Pìti (hỷ), Sukka (lạc) và Ekaggatà (nhứt tâm). Khi người ấy tu đến định thứ hai, thì không có Vitakka; khi chứng đến thiền thứ ba thời không có Vicàra. Khi đến thiền thứ tư thời Pìti không còn. Khi đến thiền thứ năm thì Sukha không còn và được thế vào bởi Upekkhà (Xả). Như vậy dần dần tâm của người tu thiền định chỉ còn Upekkhà và Ekaggatà mà thôi.

Vitakka xuất xứ từ vi + takk nghĩa là suy nghĩ. Ở đây có nghĩa là đưa đến và quy tụ trên đối tượng. Do vitakka sanh ra mà thìna-middha (hôn trầm) được diệt trừ.

Vicàra xuất từ vi + car nghĩa là di chuyển, đây có nghĩa là tìm tòi, tức là để tâm trên đối tượng. Khi có vicàra thời diệt trừ được vicikichà (nghi). Vitakka ví như con ong bay đến bông hoa. Vicàra ví như con ong bay xung quanh cái bông ấy.

Pìti nghĩa là hỷ, từ chữ Pì nghĩa là hoan hỷ, sung sướng. Khi có Pìti thời diệt trừ được Vyàpàda (sân).

Sukha nghĩa là lạc. Khi có Sukha thời không có Uddhacca và Kukkucca (trạo cử). Pìti khiến ta thích ý đối với một đối tượng còn Sukha giúp ta hưởng thọ đối tượng ấy.

Upekkhà có nghĩa là thấy (Jkkhati) một cách vô tư (upa: yuttito) nghĩa là thấy một đối tượng với một tâm trí bình tĩnh. Nghĩa này chỉ dùng với Sobhana citta mà thôi.

Ekaggatà (eka + aggatà) nghĩa là nhứt tâm. Khi đã có định thì phải có Ekaggatà. Khi có Ekaggatà thời trừ diệt được Kàmacchanda (tham dục).

Thiền định Bhàvanà có hai loại: Samatha (chỉ) và Vipassanà (quán). Samatha, chỉ, nghĩa là tịch tỉnh nhờ tu 5 thiền mà chứng được. Chính nhờ tu Samatha mà chứng được Abhìnnà (thắng trí thần thông). Còn Vipassanà là thấy sự vật đúng với sự thật. Chính nhờ Vipassanà mà chứng được thánh quả.

Do 3 nghĩa nên gọi là Sắc giới. Vì dùng sắc pháp làm đối tượng tu hành mà chứng được thiền tâm. Vì ở sắc giới, vẫn còn có tế sắc. Và vì do chứng các thiền tâm này nên sau khi chết, có thể được sanh ở cõi Sắc giới thiên.

Jhàna từ ngữ căn Jhe (suy tư). Ngài Buddhaghosa định nghĩa: Àramman’upanijjhànato paccanìkajhàpanato và jhànam. Jhàna được gọi vậy là vì suy tư chín chắn trên đối tượng hay vì đốt cháy những vật chướng ngại (Nìvarana: Triền cái).

Lộ trình của thiền tâm được diễn tiến như sau:

- Khi Bhavanga (Hữu phần) được dừng lại, thời ý môn hướng tâm khởi lên với đối tượng là quang tướng (Patibhàganimitta). Tiếp đến là Tốc hành tâm (Javana), Tốc hành này bắt đầu với Parikamma (chuẩn bị) hay Upacàra (Cận định) tùy theo trường hợp. Tiếp đến là Anuloma (thuận thứ). Chính ở giai đoạn này mà tâm mới chắc chắn chứng được Appanà (An chỉ). Tiếp đến là Gotrabhù (chuyển tánh) Gotra chỉ cho Dục giới tánh; Bhù là chinh phục. Mọi tâm sát na đến đây thuộc về Dục giới. Sau Gotrabhù sẽ đến Appanà (An chỉ) và thuộc về Sắc giới. Ở đây, Appanà (An chỉ), cả 5 thiền chi đều có mặt ở Sơ thiền. Như vậy sự diễn tiến lộ trình của thiền tâm như sau: Bhavanga, manodvàràvajjana, Parikamma, Upacàra, Anuloma, Gotrabhù, Appanà (Hữu phần, ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tánh, an chỉ).
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

SẮC GIỚI DỊ THỤC TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 18) Vitakkavicàrapìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànavipàkacittam. Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhànavipàkacittam. Pìtisukhekaggatàsahitam tatiyajjhànavipàkacittam. Sukhekaggatàsahitam catutthajjhànavipàkacittam. Upekkhekaggatàsahitam pancamajjhànavipàkacitam ceti imàni panca pi rùpàvacaravipàkacittàni nàma.

II. VIỆT VĂN.

- 18) Ðệ nhứt thiền dị thục tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ nhị thiền dị thục tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tam thiền dị thục tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền dị thục tâm câu hữu với lạc và nhứt tâm. Ðệ ngũ thiền dị thục tâm câu hữu với xả và nhứt tâm. Như vậy năm tâm này gọi là Sắc giới dị thục tâm.

III. THÍCH VĂN.

- 3 thiện nhân (kusalahetu) alobha, adosa, amoha (vô tham, vô sân, vô si) rất mạnh trong các tâm rùpàvacarakusalacitta cho nên đem lại các kết quả dị thục giống như các tâm này đến đời sau.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

SẮC GIỚI DUY TÁC TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 19) Vitakkavicàrapìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànakriyàcittam. Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhànakriyàcittam. Pìtisukhekaggatasahitam tatiyajjhànakriyàcittam. Sukhekaggatàsahitam catutthajjhànakriyàcittam. Upekkhekaggatàsahitam pancamajjhànakriyàcittam ceti imàni panca pi rùpàvacarakriyàcittàni nàma. Iccevam sabbathà pi pannarasa rùpàvacarakusalavipàkakriyàcittàni samattàni.

II. THÍCH VĂN.

- Pannarasa: 15. Samattàni: Có tất cả là.

III. VIỆT VĂN.

- 19) Ðệ nhứt thiền duy tác tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ nhị thiền duy tác tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tam thiền duy tác tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền duy tác tâm câu hữu với lạc và nhứt tâm. Ðệ ngũ thiền duy tác tâm câu hữu với xả và nhứt tâm. Như vậy 5 tâm này gọi là Sắc giới duy tác tâm.

Như vậy có tất cả là 15 Sắc giới Thiện, Dị thục và Duy tác tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Các vị La hán cũng tu 5 thiền này. Nhưng không có kết quả Dị thục, chỉ có duy tác mà thôi nên gọi là kriyàcitta.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TÓM TẮT 15 SẮC GIỚI TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 20) Pancadhà jhànabhedena rùpàvacaramànasam Punnapàkakriyàbhedà tam pancadasadhà bhave.

II. THÍCH VĂN.

- Pancadhà: Có 5 loại. Jhànabhedena: Phân loại thiền. Rùpàvacaramànasam: Sắc giới về ý. Punna: Thiện. Pàka: Dị thục. Kriyà: Duy tác. Bhedà: Phân loại chia chẻ. Tam: Tâm ấy. Pancadasadhà: Có 15 loại. Bhave: Có.

III. VIỆT VĂN.

- 20) Sắc giới tâm có 5 loại phân theo các thiền. Theo thiện, dị thục và duy tác, có tất cả là 15 thiền tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Câu kệ này tóm tắt các tâm ở Sắc giới. Theo thiền thời Sắc giới tâm có 5 loại. Theo thiện, dị thục và duy tác thời có đến 15 thiền tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

VÔ SẮC GIỚI TÂM: 5 VÔ SẮC GIỚI THIỆN TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 21) Àkàsànancàyatanakusalacittam. Vinnànancàyatanakusalacittam. Àkincannàyatanakusalacittam. Nevasannànàsannàyatanakusalacittam ceti imàni cattàri pi arùpàvacarakusalacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Àkàsànancàyatana: Không vô biên xứ. Vinnànancàyatana: Thức vô biên xứ. Àkincannàyatana: Vô sở hữu xứ. Nevasannànàsannàyatana: Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

III. VIỆT VĂN.

- 21) Không vô biên xứ thiện tâm. Thức vô biên xứ thiện tâm. Vô sở hữu xứ thiện tâm. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện tâm. Bốn tâm này gọi là vô sắc giới thiện tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Người tu hành sau khi chứng các tâm thiền ở cõi sắc giới muốn tu lên các cõi thiền ở vô sắc giới. Vị này định tâm trên Patibhàganimitta (Quang tướng) như đã nói trong chương trước. Khi vị này chú tâm, thời một ánh sáng yếu ớt, như con đom đóm, phát xuất từ đối tượng ấy. Vị tu hành muốn cho ánh sáng ấy tràn lan khắp cả hư không, và nay chỉ thấy ánh sáng ấy chiếu khắp tất cả mọi chỗ. Cái hư không vô biên ấy không phải là một hiện thực mà chỉ là một tưởng tượng gọi là Kasinagghatimàkàsa (hư không phát sanh từ Kasina). Trên đối tượng ấy, người tu hành chú tâm và nghĩ "Àkàsa ananto" (Hư không là vô biên) cho đến khi chứng được đệ nhứt thiền. Rồi vị này chú tâm trên đệ nhứt Arùpajhàna và suy tưởng: "Vinnànam anantam" (Thức là vô biên) cho đến khi chứng được đệ nhị thiền (Vinnànancàyatanam). Muốn chứng đệ tam thiền, người tu hành lấy đệ nhứt thiền làm đối tượng tu hành và suy nghĩ "Natthi kinci" (không có vật gì tất cả). Muốn chứng đệ tứ thiền, người tu hành lấy đệ tam thiền làm đối tượng tu hành, và vì đệ tứ thiền quá tế nhị nên không thể nói là có tưởng hay không có tưởng.

Năm thiền tâm ở sắc giới khác ở các thiền chi, còn bốn thiền ở vô sắc giới sai khác nhau ở đối tượng tu hành. Ðệ nhứt thiền và đệ tam thiền có hai Pannatti (khái niệm) làm đối tượng tu hành, tức là khái niệm về hư không vô biên và khái niệm về vô sở hữu. Ðệ nhị và đệ tứ thiền lấy đệ nhứt thiền và đệ tam thiền làm đối tượng tu hành. Trong 12 vô sắc thiền tâm, chỉ có hai thiền chi là xả và nhứt tâm.

Lộ trình của vô sắc giới thiền tâm được tiến diễn như sau: Manodvàràvajjàna, Parikamma, Upacàra, Anuloma, Gotrabhù, Àkàsànancàyatana (ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tánh, hư không vô biên xứ). Parikamma có thể có hay không, tùy theo trường hợp.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

VÔ SẮC GIỚI DỊ THỤC TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 22) Àkàsànancàyatanavipàkacittam. Vinnànancàyatanavipàkacittam. Àkincannàyatanavipàkacittam. Nevasannanàsannàyatanavipàkacittam ceti imàni cattàri pi arùpàvacaravipàkacittàni nàma.

II. VIỆT VĂN.

- 22) Không vô biên xứ dị thục tâm. Thức vô biên xứ dị thục tâm. Vô sở hữu xứ dị thục tâm, Phi tưởng phi phi tưởng xứ dị thục tâm. Bốn tâm này gọi là vô sắc giới dị thục tâm.

III. THÍCH NGHĨA.

- 4 Tâm này là quả dị thục của bốn thiện tâm vừa kể trên.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

VÔ SẮC GIỚI DUY TÁC TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 23) Àkàsànancàyatanakriyàcittam, Vinnànancàyatanakroyàcittam, Àkincannàyatanakriyàcittam, Nevasannànàsannàyatanakriyàcittam ceti imàni pi arùpàvacarakriyàcittàni nàma. Iccevam sabbathà pi dvàdasa arùpàvacarakusalavipàkakriyàcittàni.

II. VIỆT VĂN.

- 23) Không vô biên xứ duy tác tâm. Thức vô biên xứ duy tác tâm. Vô sở hữu xứ duy tác tâm. Phi tưởng phi phi tưởng xứ duy tác tâm. Bốn tâm này gọi là Vô sắc giới duy tác tâm. Như vậy, có tất cả 12 Vô sắc giới thiện, dị thục và duy tác tâm.

III. THÍCH NGHĨA.

- Bốn tâm này do các vị A La Hán tu 4 thiền định vô sắc giới mà có, nhưng không có kết quả dị thục chỉ có duy tác mà thôi. Cả 12 thiền tâm này chỉ có hai thiền chi, tức là Upekkhà (Xả) và Ekaggatà (Nhứt tâm).
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TÓM TẮT 12 VÔ SẮC GIỚI TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 24) Àlambanappabhedena catudhàruppamànasam, Punnapàkakriyàbhedà puna dvàdasadhà thitam.

II. THÍCH VĂN.

- 24 Àlambana: Ðối tượng tu hành. Bhedena: Chia chẻ, phân loại. Catudhà: Bốn loại. Aruppà: Vô sắc. Mànasam: Ý. Puna: Lại nữa. Dvàdasadhà: 12 loại. Thitam: Ðứng như vậy.

III. VIỆT VĂN.

- 24) Theo đối tượng tu hành, thời có bốn loại tâm thuộc về sắc giới. Lại nữa, nếu phân loại theo thiện, dị thục và duy tác thì có 12 tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Ðây là bài kệ tóm tắt 12 vô sắc giới tâm. Nếu chia theo thiện, dị thục và duy tác thời có đến 12 tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

SIÊU THẾ TÂM, SIÊU THẾ ÐẠO TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 25) Sotàpattimaggacittam, Sakadàgàmimaggacittam, Anàgàmimaggacittam, Arahattamaggacittam ceti imàni cattàri pi lokuttarakusalacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Sotàpattimaggacittam: Dự lưu đạo tâm. Sakadàgàmimaggacitam: Nhứt lai đạo tâm. Anàgàmimaggacittam: Bất lai đạo tâm. Arahattamaggacittam: A-la-hán đạo tâm. Cattàri: Bốn. Lokuttara kusalacittàni: Siêu thế thiện tâm.

III. VIỆT VĂN.

- 25) Dự lưu đạo tâm, Nhứt lai đạo tâm, Bất lai đạo tâm, A-la-hán đạo tâm, bốn tâm này gọi là siêu thế thiện tâm.

IV. THÍCH NGHĨA:

- Một loài hữu tình ở cõi sắc giới hay vô sắc giới có thể do vô minh lầm tưởng đời sống ở hai cõi ấy là vĩnh viễn và hoàn toàn hạnh phúc. Do vậy lòng tham ái được sống phát sanh và do vậy phải tái sanh sau khi chết. Vị này có thể bị chi phối bởi 10 phiền não sau này:

1. Sakàyaditthi (thân kiến),
2) Vicikicchà (nghi),
3) Sìlabbataparàmàsa (giới cấm thủ),
4) Kàmàràga (Dục ái),
5) Patigha (Sân),
6) Rùparàga (sắc ái),
7) Arùparàga (Vô sắc ái),
8) Màna (mạn)
9) Uddhacca (trạo cử),
10) Avijjà (Vô minh).

Người tu hành, muốn diệt trừ các phiền não trên, quán tưởng về Anicca (vô thường), Dukkha (khổ) và Anata (vô ngã) và chứng được cõi thiền về Niết Bàn.

Khi người ấy diệt trừ được 3 phiền não thứ nhứt, vị ấy chứng được quả vị thứ nhứt được gọi là Sotàpanna tức là Tu đà-hoàn hay Dự Lưu. Vị này đã dự nhập vào dòng đưa đến Niết bàn. Vị này nhất định sẽ thành A-la-hán sau bảy đời.

Khi vị này làm cho yếu ớt, muội lược hai phiền não kế tiếp, tức là kàmaràga (dục ái) và Patigha (sân), vị này chứng được quả vị thứ hai và được gọi là Sakadàgàmi, tức là Tư-đà-hàm hay nhứt-lai. Vị này phải tái sanh một lần nữa, trước khi chứng quả A-la-hán.

Khi vị này diệt trừ được hai món phiền não dục ái và sân, vị này chứng được quả vị thứ ba và được gọi là Anàgàmi, tức là A-na-hàm hay Bất-Lai. Vị này sẽ, hoặc chứng được quả A-la-hán ngay trong đời này, hay sẽ tái sinh đến một cõi cao hơn và từ nơi đó chứng quả Niết bàn.

Khi vị này diệt trừ cà 5 phiền não còn lại, vị này chứng được quả vị thứ tư và được gọi là Arahan tức là A-la-hán.

Khi vị này chứng được các quả vị trên thời gọi là maggacittam hay đạo tâm. Khi vị này nhận thức rằng mình đã chứng được các quả vị trên, thời được gọi là Phalacitta hay quả tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

Sự chứng ngộ Niết bàn:

Hành giả muốn chứng Niết bàn phải cố gắng tìm hiểu sự vật đúng với thực tướng. Với nhất tâm, vị ấy quan sát tự ngã và tìm thấy cái gọi là tự ngã chỉ gồm có danh và sắc. Khi đã hiểu tự ngã chỉ gồm có danh và sắc, vị ấy lại tìm hiểu những nguyên nhân tạo ra tự ngã, và nhận thấy là đời sống hiện tại là do 5 nguyên nhân vô minh ở quá khứ, ái thủ, kamma (nghiệp) và đoàn thực của đời hiện tại. Vì 5 nguyên nhân này, tự ngã sanh khởi, và vì hành vi quá khứ chỉ định hiện tại, hiện tại sẽ chi phối tương lai. Suy tư như vậy, vị này vượt khỏi các nghi ngờ về quá khứ, hiện tại và tương lai (Kankhàvitaranavisuddhi - Ðoạn nghi tịnh). Rồi vị này quán mọi pháp hữu vi là vô thường, khổ và vô ngã. Chỗ nào đưa mắt đến, vị này cũng chỉ thấy ba tánh này chi phối tất cả. Vị này nhận rằng cuộc đời là một dòng sông trôi chảy mãi mãi, không có hạnh phúc nào là chân thật, vì mọi hạnh phúc đưa đến khổ đau, vì vô thường là đau khổ, và chỗ nào có vô thường và đau khổ, dĩ nhiên không thể có tự ngã.

Trong khi vị này chú tâm tu thiền tưởng, một ngày kia thình lình tự thân phát ra hào quang. Vị này cảm thấy hoan lạc vô biên, thân tâm an lạc nhẹ nhàng, lòng tin nhiệt thành tinh tấn. Tưởng lầm là đã chứng được thánh quả vì sự hiện hữu của hào quang, vị này tha thiết với trạng thái tâm tư ấy. Nhưng rồi vị này nhận chân được những sự cám dỗ ấy chỉ là những phiền não và cố gắng phân biệt giữa tà đạo và chánh đạo (Maggàmagganànadassana visuddhi - Ðạo phi đạo tri kiến tịnh).

Nhận định được chánh đạo, vị này quán tưởng sự sanh khởi (Udayanàna - Sanh trí) và sự diệt trừ (Vayanàna Diệt trí) của các pháp hữu vi. Ðối với lý sinh diệt, sự diệt trừ để lại một ấn tượng sâu đậm hơn và vị này hướng tâm quán tưởng đến sự tiêu diệt các pháp (Bhanganàna - Ðoạn trí). Vị này nhận chân rằng cả tâm pháp và sắc pháp của mình đều luôn luôn chuyển biến, không một phút dừng nghỉ. Vị ấy hiểu biết rằng mọi vật chuyển biến đều đáng ghê sợ (Bhayanàna - Kinh hãi trí). Cả thế giới hiện ra như một hầm lửa, đầy nguy hiểm. Tiếp theo, vị ấy suy nghĩ đến sự đau khổ và nguy hiểm (Àdìnavanàna - Hiểm nguy trí) của thế giới hiện tại và tự cảm thấy chán ghét (Nibbidànàna) và muốn thoát ly khỏi thế giới này (Muncitukamyatànàna - Dục giải thoát trí).

Với mục đích trên, vị này lại quán tưởng đến ba pháp ấn (Patisankhà nàna - Suy tư trí) và tự cảm thấy thản nhiên đối với mọi pháp hữu vi, không tham ái, không chán ghét đời và mọi pháp ở thế gian (Upekkhà nàna - Xả trí). Khi đến trình độ này, vị này lấy một trong ba pháp ấn, pháp ấn nào đối với mình rất thích hợp, rồi quán tưởng suy tư cho đến một ngày kia vị này chứng được Niết bàn.

Lộ trình Javana như sau:



Khi không có Parikamma đối với một vị rất thông minh và sáng suốt, thời quả tâm có đến ba sát-na.

Tám trí này: Udaya, Vaya, Bhanga, Bhaya, Àdìnava, Nibbidà, Patisankhà và Upekkhà được gọi chung là Patipadà Nànadassana Visuddhi. (Ðạo tri kiến tịnh). Khi vị này chứng ngộ Niết bàn lần đầu tiên, vị ấy được gọi là Sotàpanna (Dự Lưu). Rồi vị này tiếp tục diệt trừ các phiền não khác cho đến khi chứng được quả A-la-hán. Cần để ý là các phiền não được tuần - tự diệt trừ trong bốn giai đoạn. Ðạo tâm chỉ khởi lên có một sát na rồi tiếp là quả tâm. Ở Siêu thế giới, thiện quả tâm đến ngay lập tức nên được gọi là Akàliko.

Ở Dục giới, kamma hay nghiệp chi phối, còn sở Siêu thế giới, thời Pannà (Trí tuệ) chi phối.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

SIÊU THẾ TÂM: 4 QUẢ TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 26) Sotàpattiphalacittam. Sakadàgàmiphalacittam, Anàgàmiphalacittam, Arahattaphalacittam, ceti imàni cattàri pi lokuttaravipàkacittàni nàma.
Iccevam sabbathà pi attha lokuttarakusalavipàkacittàni samattàni.

II. VIỆT VĂN.


- 26) Dự lưu quả tâm, nhứt lai quả tâm, bất lai quả tâm, A-la-hán quả tâm. Bốn tâm này gọi là siêu thế dị thục tâm.

Như vậy có tất cả là tám siêu thế thiện dị thục tâm.

III. THÍCH NGHĨA.

- Ðây cộng thêm bốn dị thục tâm nữa, thành có tất cả là tám siêu thế tâm: Bốn tâm gọi là siêu thế thiện tâm và bốn tâm gọi là siêu thế dị thục tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TÓM TẮT CÁC SIÊU THẾ TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 27) Catummaggappabhedena, catudhà kusalam tathà,
Pàkam tassa phalattà ti atthadhànuttarammatam.

II. THÍCH VĂN.

- Catu: Bốn. Magga: Con đường. Pabhedena: Do sự phân biệt. Catudhà: Có bốn. Tathà: Như vậy. Pàkam: Dị thục. Phalattà: Quả tánh. Atthadhà: Có tám. Anuttaram: Vô thượng. Matam: Ðược biết là.

III. VIỆT VĂN.

- 27) Phân biệt về bốn đạo thì có bốn thiện tâm. Cũng vậy, các tâm dị thục là quả của các tâm trên. Như vậy được biết là có tám siêu thế tâm tất cả.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Ðây là bài kệ tóm tắt các siêu thế tâm. Có bốn thiện tâm là bốn con đường và bốn dị thục tâm là kết quả của bốn con đường trên.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TỔNG PHÂN LOẠI 89 DỤC GIỚI TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 28) Dvàdasàkusalànevam Kusalànekavìsati, Chattimseva vipàkàni kriyàcittàni vìsati.

II. THÍCH VĂN.


- Dvàdasa: 12. Akusalàni: Bất thiện. Ẹvam: Như vậy. Kusalàni: Thiện. Ekavìsati: 21. Chattimsa: 36. Vipàkàni: Dị thục. Kriyàcittàni: Duy tác tâm. Vìsati: 20.

III. VIỆT VĂN.

- 28) Có 12 Bất thiện tâm, có 21 Thiện tâm, có 36 Dị thục tâm và có 20 Duy tác tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Bài kệ này tóm tắt các tâm đã nói đến từ trước. Có 12 Bất thiện tâm, có 21 Thiện tâm (8 Tịnh Quang tâm ở Dục giới, 5 ở Sắc giới, 4 ở Vô sắc giới và 4 Siêu thế đạo tâm). Có 36 Dị thục tâm (15 Vô nhân tâm + 8 Tịnh Quang tâm + 5 Sắc giới tâm + 4 Vô sắc giới tâm + 4 Siêu thế tâm) và 20 Duy tác tâm (3 Vô nhân tâm + 8 Tịnh Quang tâm + 5 Sắc giới tâm + 4 Vô sắc giới tâm).
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TỔNG PHÂN LOẠI 89 TÂM VÀ 121 TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 29) Catupannàsadhà kàme rùpe pannarasìraye. Cittàni dvàdasàruppe attha-dhànuttara tathà.

Itthamekùnanavutippabhedam pana mànasam,
Ekavìsasatam vàtha vibhajanti vicakkhanà.

II. THÍCH VĂN.

- Catupannàsadhà: 54 loại. Kàme: Ở dục giới. Rùpe: Ở sắc giới. Pannarasa: 15. Iraye: Ireti, nói đến. Dvàdasa: 12. Àruppe: Ở Vô sắc giới. Atthadhà: Có 8 loại. Anuttare: Ở cõi Siêu thế giới. Tathà: Như vậy. Ittham: Như vậy. Ekùnanavuti: 89. Pabhedam: Chia chẻ. Mànasam: Ý. Ekavìsasatam: 121. Và: Hay là. Atha: Ở đây. Vibhajanti: Phân loại, chia chẻ. Vicakkhanà: Người trí huệ.

III. VIỆT VĂN.

- 29) Ở Dục giới có 54 tâm, ở Sắc giới có 15 tâm, ở Vô sắc giới có 12 tâm, ở Siêu thế giới có 8 tâm. Như vậy 89 tâm này, các nhà có trí lại chia có 121 tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Bài kệ này tóm tắt tất cả tâm ở Dục giới (54), ở Sắc giới (15), ở Vô sắc giới (12) và ở Siêu thế giới (8). 89 tâm này lại được các nhà có trí chia thành 121 tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

PHÂN LOẠI CÁC SIÊU THẾ TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 31a) Jhànangayogabhedena katvekekam tu pancadhà,
Vuccatànuttaram cittam cattàlisa vidham ti ca.

II. THÍCH VĂN.

- Jhànanga: Các phần tử của thiền. Katvà: Khi đã làm. Ekekam: Mỗi một. Pancadhà: 5 loại Vuccati: Gọi là. Anuttaram cittam: Siêu thế tâm. Cattàlisavidham: Có 40. Ca: Và.

III. VIỆT VĂN.

- 31a) Tương ưng với các phần tử của Thiền, mỗi tâm Siêu thế nhân với 5 cõi thiền thành có 40 Siêu thế tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Bài kệ này giải thích vì sao 8 Siêu thế tâm trở thành 40 Siêu thế tâm, tức là lấy tám tâm ấy nhơn với 5 cõi thiền ở Sắc giới.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
PHÂN LOẠI CÁC THIỀN TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 31b) Yathà ca rùpàvacaram gayhànuttaram tathà, Pathamàdijjhànabhede àruppam càpi pancame,
Ekàdasacidham tasmà pathamàdikamìritam,
Jhànamekekamante tu tevìsatividham bhave.
Sattatimsavidham punnam dvipannàsavidham tathà.
Pàkamiccàhu cittàni ekavìsasatam budhà.

II. THÍCH VĂN.

- Yathà tathà: Giống như, cũng như. Rùpàvacaram: Sắc giới. Gayha: Quá khứ phân từ của Ganhàti, được lấy. Anuttaram: Vô thượng, đây chỉ cho Siêu thế tâm Pathamàdijjhànabhede: Theo sự chia chẻ của các thiền từ đệ nhứt thiền trở đi. Àruppam: Vô sắc giới tâm. Pancame: Thứ năm Ekàdasavidham: 11 loại. Tasmà: Do vậy. Pathamàdikam: Ðệ nhứt thiền v.v... Iritam: Quá khứ phân từ của Ireti: nói, thuyết. Jhànamekekam: Mỗi thiền. Antam: Thiền cuối cùng. Tevìsatividham: 23 loại. Bhave: Có. Sattatimsavidham: 37. Dvipannàsavidham: 52 Pàkam: Dị thục. Àhu: Ðã nói: Ekàvìsasatam: 121. Budhà: Vị sáng suốt.

III. VIỆT VĂN.

- 31b) Cũng như các tâm ở sắc giới, tâm ở siêu thế giới cũng chia chẻ như vậy (nghĩa là chia thành 5 cõi thiền). Về thứ tự các cõi thiền, từ đệ nhứt thiền v.v... Vô sắc giới tâm được xem là thiền thứ năm. Do vậy, từ thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, mỗi thiền có 11 tâm. Còn thiền cuối cùng tức là thiền thứ năm, có đến 23 tâm.

Có 37 thiện tâm, 52 dị thục tâm. Như vậy vị sáng suốt nói rằng có 121 tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Kể thiền tâm, cả sắc giới, vô sắc giới và siêu thế giới, xem vô sắc giới thiền tâm như Thiền thứ năm, xem Ðạo tâm và Quả tâm là 40 tâm, thời sự phân chia theo 5 Thiền kể như sau:

Bản đồ sau đây sẽ nêu rõ:



1) Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh (với đầy đủ các ký tự Pàli).
2) A Manual of Abhidhamma, bản dịch Anh ngữ và chú thích của Hòa Thượng Narada.


.............................................-ooOoo-
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương II các cetasika hay tâm sở

PHẦN MỘT: CÁC LOẠI TÂM SỞ

Một tâm thức không phải là một đơn vị giản dị. Tâm thức là một sự tổng hợp phức tạp của những tâm sở hay Cetasika. Những phần tử ấy tạo thành tâm thức và sống trong và với tâm thức ấy.

Ví dụ trong 89 tâm đã bàn trong chương trước, những tâm giản dị nhất là Cakkhuvinnàna (nhãn thức), Sotavinnàna (nhĩ thức)..., những tâm này là những cảm giác thuần túy, không bị tiêm nhiễm, ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ trên đối tượng. Nhưng nếu chúng ta tìm xét kỹ, chúng ta sẽ thấy những tâm ấy gồm có đến 7 tâm sở:

1) Phassa (Xúc chạm của chủ thể đối với đối tượng),
2) Vedànà (Thọ: cảm giác của chủ thể, chịu ảnh hưởng của đối tượng),
3) Sannà (Tưởng: Ðể ý đến đối tượng),
4) Cetanà (Tư: thiên ý đến đối tượng),
5) Ekaggatà (Nhứt tâm: chú tâm đến đối tượng),
6) Jìvitindriya (Mạng căn) và
7) Manasikàra (Tác ý đến đối tượng).

Bảy tâm sở cùng khởi một lần, không phải trước sau. Chúng cùng một đối tượng với thức và phát ra từ một căn với thức. Khi thức diệt thì các tâm sở này cũng diệt theo.

Có 52 tâm sở tất cả, được phân loại như sau: 13 Annasamàna (Ðồng bất đồng tâm sở) chia thành 2 loại: 7 Biến hành tâm sở (Sabbacittasàdhàrana) và 6 Biệt cảnh tâm sở (Pàkinnaka), 14 Bất thiện tâm sở và 25 Tịnh quang tâm sở (Sobhana). 52 tâm sở này phối hợp và thay chỗ cho nhau để hợp thành các tâm sai khác, phân biệt.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương II các cetasika hay tâm sở

52 TÂM SỞ

I. PÀLI VĂN.


- 1) Ekuppàdanirodhà ca ekàlambanavatthukà, Cetoyuttà dvipannàsa dhammà cetasikà matà.

II. THÍCH VĂN.

- Ekuppàda: Ðồng sanh. Ekanirodhà: Ðồng diệt. Ekàlambana: Ðồng một đối tượng. Ekavatthukà: Ðồng một căn. Cetoyuttà: Tương ưng với tâm. Dvipannàsa: 52. Dhammà: Pháp. Cetasikà: Tâm sở. Matà: Quá khứ phân từ của Mannàti: Ðược biết là.

III. VIỆT VĂN.

- 1) Tương ưng với tâm có 52 tâm sở, chúng đồng khởi với tâm, đồng diệt với tâm, đồng một đối tượng và một căn với tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Ðoạn này nói đến các tâm sở và hành tướng của chúng. Có 52 tâm sở tất cả và chúng đồng sanh, đồng diệt một lần với tâm và đồng một đối tượng, một căn với tâm. Không một tâm nào có thể tồn tại mà không có tâm sở. Cả tâm và tâm sở của tâm ấy sanh và diệt đồng thời. Như vậy một tâm sở phải có đầy đủ bốn đặc tánh trên mới được gọi là tâm sở. Có một loại sắc gọi là Vinnàttirùpa (phát biểu sắc) cũng sanh diệt đồng thời với tâm, nhưng không thể gọi là tâm sở vì thiếu 2 điều kiện sau. Theo Abhidhamma, có 52 tâm sở tất cả. Trừ thọ tâm sở (Vedanà) và tưởng tâm sở (Sannà), 50 tâm sở còn lại thuộc về Sankhàra (hành uẩn).
 
  • Like
Reactions: VQ6

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương II các cetasika hay tâm sở

7 BIẾN HÀNH TÂM SỞ

I. PÀLI VĂN.


- 2) Katham, Phasso, vedanà, Sannà, Cetanà, Ekaggatà, Jìvitindriyam, Manasikàro, ceti sattime cetasikà sabbacittasàdhàranà nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Katham? Vì sao? Phasso: Xúc. Vedanà: Thọ. Sannà: Tưởng. Cetanà: Tư. Ekaggatà: Nhứt tâm. Jìvitindriyam: Mạng căn. Manasikàra: Tác ý. Sattime: Satta + ime = Bảy (tâm sở) này. Sabbacittasàdhàranà: Nhứt thế tâm biến hành (tâm sở). Nàma: Gọi là.

III. VIỆT VĂN.

- 2) Vì sao? Xúc, thọ, tưởng, tư, nhứt tâm, mạng căn, tác ý. Bảy tâm sở này gọi là nhứt thế tâm biến hành tâm sở.

IV. THÍCH NGHĨA.

1) Phassa: Từ ngữ căn Phas: Xúc chạm. Phassa là sự xúc chạm của chủ thể đối với đối tượng vật chất hay tinh thần. Xúc được nói đến đầu tiên, vì đến trước các tâm khác. Theo lý 12 nhân duyên, xúc có trước rồi mới đến thọ. Sự thật, các tâm sở đều khởi lên một lần, không trước không sau, nhưng nói xúc trước cho tiện việc trình bày.

2) Vedanà là thọ, từ ngữ căn Vid nghĩa là kinh nghiệm, thọ lãnh. Thọ có thể là lạc thọ (sukha) khổ thọ (dukkha) và không lạc không khổ (adukkhamsukha). Chính Vedanà cảm thọ đối tượng, khi đối tượng xúc chạm với các giác quan.

3) Sannà, từ ngữ căn Sam + nà nghĩa là biết. Ðây là nhận thức đối tượng như một tướng có màu xanh v.v... Chính Sannà giúp ta nhận biết một đối tượng mà một lần trước ta đã nhận biết được qua giác quan. Cũng giống như một người thợ mộc đã biết đến các loại gỗ nhờ những dấu đã ghi trước trên các tấm gỗ.

4) Cetanà từ ngữ căn cit nghĩa là suy nghĩ, phối hợp và chất chứa các tâm sở câu hữu với mình trên đối tượng. Cetanà chi phối và định đoạt mọi hoạt động. Ðối với các Dục giới tâm, Cetanà đóng vai chủ động. Ðối với Siêu thế tâm, Pannà tri tuệ đóng vai chủ động. Dục giới tâm đưa đến sự chất chứa các nghiệp còn Siêu thế tâm hướng đến sự diệt trừ các nghiệp. Như vậy Cetanà ở Siêu thế giới không tác thành nghiệp (Kamma). Dầu Cetanà có tìm thấy trong các Dị thục tâm (Vipàka), cũng không có giá trị luân lý vì thiếu sức mạnh chất chứa.

5) Ekaggatà (nhứt tâm): Eka + agga + tà, tức là chú tâm trên một đối tượng, như một ngọn lửa tại một chỗ không có gió, như một cột trụ không bị gió lay động. Nhứt tâm này là một phần tử của Thiền. Khi Nhứt tâm được phát triển và trau giồi, sẽ trở thành Samàdhi (Ðịnh).

6) Jìvitindriya: mạng căn: Jìvita là mạng, Indriya là căn. Sở dĩ gọi là mạng vì nuôi dưỡng các tâm sở câu hữu, và gọi là căn vì điều hành các tâm sở câu hữu. Nếu Cetanà định đoạt các nghiệp, chính mạng căn này nuôi dưỡng sự sống cho Cetanà và các tâm sở khác. Có hai loại Jìvitindriya. Một là Nàma-Jìvitindriya (danh mạng căn), hai là Rùpa-jìvitindirya. (sắc mạng căn). Danh mạng căn nuôi dưỡng các tâm, tâm sở, sắc mạng căn nuôi dưỡng sắc pháp. Như hoa sen được nuôi dưỡng bởi nước, như đứa con nít được người vú nuôi dưỡng, các tâm pháp và sắc pháp được Jìvitindriya nuôi dưỡng. Cả Danh mạng căn và Sắc mạng căn được sanh khởi khi bào thai mới thành, và sẽ bị tiêu diệt khi mạng chung. Vậy sự chết có thể xem là sự diệt trừ của Jìvitindriya.

7) Manasikàra (tác ý) nghĩa là đưa tâm đến đối tượng, cũng như bánh lái đưa con thuyền đến đích. Một tâm không có tác ý cũng như con thuyền không bánh lái. Manasikàra khác với Vitakka (Tầm). Tác ý hướng các tâm sở trên đối tượng, tầm quăng các tâm sở trên đối tượng. 7 tâm sở vừa kể trên khi nào cũng hiện khởi với tất cả các tâm nêu được gọi là Sabbacittasàdhàranà (Biến hành tâm sở).
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương II các cetasika hay tâm sở

6 BIỆT CẢNH TÂM SỞ

I. PÀLI VĂN.


- 3) Vitakko, Vicàro, Adhimokkho, Viriyam, Pìti, Chando càti cha ime cetasikà pakinnakà nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Vitakka: Tầm. Vicàra: Tứ. Adhimokkho: Thắng giải. Viriyam: Tinh tấn. Pìti: Hỷ. Chando: Dục. Càti: Ca + iti: Và. Cha: Sáu. Ime cetasikà: Những tâm sở này. Pakinnakà: Biệt cảnh. Nàma: Gọi là.

III. VIỆT VĂN.

- 3) Tầm, tứ, thắng giải, tinh tấn, hỷ, dục, sáu tâm sở này gọi là biệt cảnh tâm sở.

IV. THÍCH NGHĨA.

6 Tâm sở kể trên có thể hiện khởi trong tất cả các loại tâm, nhưng không phải trong tất cả tâm.

1) Vitakka, ngữ căn Vi + takk (suy nghĩ). Chữ này có nhiều nghĩa sai khác giữa Kinh tạng và Abhidhamma tạng. Trong Kinh Tạng, Vitakka có nghĩa là quan điểm tư tưởng. Trong Abhidhamma tạng, Vitakka có nghĩa đặc biệt là dán áp các tâm sở trên đối tượng. Như một biệt cảnh tâm sở, Vitakka chỉ có nghĩa là tâm sở thông thường, nhưng trong thiền định, Vitakka trở thành một tâm sở quan trọng trong đệ nhứt thiền và được gọi là Appanàvitakka. Khi Vitakka hiện khởi trong Lokuttara maggacitta (Siêu thế đạo tâm), thì được gọi là Sammà Sankappa (chánh tư duy), vì nó diệt trừ tà tư duy và dán áp tâm trên Niết bàn.

2) Vicàra: Tứ; Vi + car (đi chỗ này chỗ kia). Vicàra là sự tiếp tục dán áp tâm trên đối tượng. Như con ong đến đậu trên cái bông là Vitakka, bay tròn hay đi vòng quanh cái hoa là Vicàra. Như con chim đập cánh sắp sửa bay là Vitakka, khi bay liệng trên hư không là Vicàra. Như đánh trống hay đánh chuông là Vitakka, tiếng dội, tiếng ngân của chuông trống là Vicàra. Vicàra cũng là một phần tử của thiền, Vicàra trừ diệt Vicikicchà (nghi).

3) Adhimokkha (thắng giải) Adhi + mục, giải thoát. Adhimokkha thả tâm ra trên đối tượng. Ðặc tánh của Adhimokkha là quyết định, lựa chọn, cũng như một quan tòa tuyên án đối với một vụ kiện.

4) Viriya từ ngữ căn Vaj, đi và ir. Vì thay cho Aj. Vira là một người tinh tấn, cương quyết làm việc không dừng nghỉ. Như ngôi nhà cũ được các cột trụ mới chống đỡ, cũng vậy các tâm sở câu hữu được Viriya chống đỡ. Viriya được thành một trong 5 pháp ngũ căn (indriya) vì diệt trừ biếng nhác. Viriya cũng là một trong ngũ lực (bala) Vì không thể bị biếng nhác lay động. Viriya này thành 4 Chánh cần (Sammappadhàna), thành một trong 7 Giác chi (Sattabojjahanga) và cuối cùng được thành một trong Bát Chánh đạo (Atthangikamagga) là Sammàvàyàmo (chánh tinh tấn).

5) Pìti: hỷ, từ, ngữ căn Pì: hoan hỷ, thích thú. Không phải là một cảm thọ như Sukha (lạc) nhưng đến trước Sukha. Pìti được tìm thấy ở thiện và bất thiện tâm. Ðặc tánh là khiến tâm thích thú đối tượng. Có 5 loại Pìti:

1. Khuddaka pìti, sự hoan hỉ khiến da nổi lên như rỡn tóc gáy;
2. Khanika pìti, sát na hỷ, chỉ khởi ra trong một giây phút như chớp;
3. Okhantika pìti, hải triều hỷ, dâng lên như nước hải triều;
4. Ubbega pìti, thượng thăng hỷ, khiến có thể bay lên hư không như một cục bông được gió cuốn đi;
5. Pharana pìti, sung mãn hỷ, thấm thuần toàn thân như nước lụt tràn qua hồ.

6) Chanda (dục), từ ngữ căn chad: ao ước, muốn, đặc tánh của Chanda là muốn làm (kattukamyatà), giống như đưa tay để nắm đối tượng. Có 3 loại chanda:

1. Kàmacchanda nghĩa là tham dục, hoàn toàn bất thiện;
2. Kattukamyatà chanda chỉ là sự ao ước muốn làm, không thiện không ác;
3. Dhammachanda, pháp dục, tức là ham muốn chơn chánh. Chính Dhammachanda này đã khiến Thái tử Tất Đạt Ta xuất gia.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên