VƯỜN THIỀN

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH TỌA THIỀN
CHỈ QUÁN ÐẢ TỌA



Cho đến lúc này quý vị vẫn còn đang theo dõi hơi thở bằng con mắt tâm, đang cố gắng kinh nghiệm một cách sống động hơi hít vào chỉ là hơi hít vào và hơi thở ra chỉ là hơi thở ra. Từ giờ trở đi, tôi muốn quý vị thực hành Chỉ quán đả tọa (Shikantaza), tôi sẽ mô tả chi tiết ngay bây giờ. Không phải tôi cứ thích thay đổi nhanh chóng các bài tập khác nhau đâu, tôi làm như thế để cống hiến quý vị mùi vị các phương pháp nhiếp tâm khác nhau. Sau khi các bài nói nhập môn này kết thúc, quý vị đến trước tôi từng người một, tôi sẽ chỉ định cho từng vị phương pháp tu tập thích hợp với bản chất nguyện vọng của mình, cũng như với mức độ quyết tâm của từng vị, nghĩa là đếm hoặc theo dõi hơi thở, Chỉ quán đả tọa hoặc một công án.

Bài này sẽ bàn về Chỉ quán đả tọa. "Chỉ quán" nghĩa là "chỉ" hay "duy" trong khi "đả" là "đánh" và "tọa" là "ngồi." Như thế Chỉ quán đả tọa là một phương pháp thực hành, trong đó tâm chỉ tập trung kịch liệt vào việc ngồi mà thôi. Trong loại tọa thiền này, tâm rất dễ bị xao lãng vì nó không được các trợ lực như đếm hơi thở hay công án giúp. Vì thế, sự bình tĩnh đúng đắn của tâm trở nên quan trọng gấp đôi. Bấy giờ, trong Chỉ quán đả tọa tâm không được vội vã song đồng thời hãy cắm vững vàng hay đứng sừng sững như núi Phú Sĩ. Nhưng nó cũng phải linh mẫn và vươn ra như dây cung trương lên. Như thế Chỉ quán đả tọa là một trạng thái của tâm thức tập trung cao độ, song không căng thẳng, không vội vã và chắc chắn không bao giờ giải đãi. Ấy là tâm của một người đang đối mặt với cái chết. Chúng ta hãy tưởng tượng mình đang nhập cuộc song đấu kiếm thuật theo kiểu thường xảy ra ở Nhật bản ngày xưa. Khi đối mặt với đối thủ, quý vị không ngừng theo dõi, thủ thế, saün sàng. Nếu lơi lỏng sự cảnh giác dù chỉ giây phút thôi, quý vị sẽ bị hạ ngay. Một đám đông tụ tập để xem cuộc đấu. Vì không mù nên quý vị thấy họ qua khóe mắt của mình, và vì không điếc nên quý vị nghe họ nói. Nhưng quý vị không nên để tâm mình bị các ấn tượng cảm giác ấy quyến rũ dù chỉ trong phút chốc.

Trạng thái này không thể duy trì lâu được. Thực tế, quý vị không nên thực hành Chỉ quán đả tọa hơn nửa giờ mỗi lần ngồi. Sau ba mươi phút, hãy đứng dậy đi vòng theo lối kinh hành, rồi bắt đầu ngồi lại. Nếu thực hành chỉ quán đả tọa đúng cách, chỉ trong nửa giờ thôi quý vị sẽ toát mồ hôi, ngay cả trong mùa đông trong một căn phòng không nóng, vì sức nóng do sự tập trung cao độ sinh ra. Khi quý vị ngồi quá lâu, tâm sẽ mất dần sinh lực, thân sẽ mệt và các nỗ lực sẽ nhận được phần thưởng ít hơn là nếu quý vị hạn chế thời gian ngồi trong ba mươi phút.

Trái với tay kiếm bất tài, một bậc kiếm sư sử dụng thanh kiếm không chút gắng sức. Nhưng không phải luôn luôn như thế vì cũng có lúc ông ta phải nỗ lực đến độ chót vì kỹ thuật chưa toàn hảo để tự cứu sinh mạng mình. Chỉ quán đả tọa cũng giống như vậy. Lúc mới bắt đầu không tránh được căng thẳng nhưng với kinh nghiệm tọa thiền chín muồi, sự căng thẳng này trở nên lơi ra song vẫn ngồi với chú tâm đầy đủ. Giống như tay kiếm bậc thầy tuốt kiếm vung lên không chút gắng sức và tiến công một cách giản dị, Chỉ quán đả tọa cũng thích hợp với cái ngồi không chút gắng sức, linh mẫn và chú tâm y như vậy. Nhưng đừng tưởng việc ngồi như thế có thể đạt được dễ dàng, dù chỉ trong một phút thôi mà không có sự luyện tập lâu và thành khẩn. Đến đây chấm dứt bài nói về Chỉ quán đả tọa.

NGỤ NGÔN DIỄN NHÃ ĐẠT ĐA

Trong nửa cuối bài này tôi sẽ nói về câu chuyện Diễn Nhã Đạt Đa, lấy từ kinh Lăng Nghiêm. Đây là câu chuyện ngụ ngôn hay phi thường. Tôi cam đoan rằng nếu quý vị suy nghĩ kỹ, nó sẽ soi sáng nhiều điểm còn u tối trong Phật giáo.

Người ta bảo rằng chuyện này xảy ra vào thời đức Phật. Chuyện có thật hay chỉ là truyền thuyết, tôi không thể nói được. Dẫu sao, Diễn Nhã Đạt Đa vẫn là một cô gái đẹp không thích gì hơn là ngắm mình trong gương mỗi sáng. Một hôm, khi soi gương, nàng thấy mình không có đầu. Tại sao vào buổi sáng đặc biệt này nàng lại không có đầu, kinh không nói. Dù sao, nỗi kích động lớn đến nỗi nàng hóa điên, chạy quanh hỏi xem ai đã lấy mất đầu mình: "Ai lấy đầu tôi? Đầu tôi đâu rồi? Nếu không có đầu, tôi chết mất!" Rồi nàng khóc, mặc dù mọi người bảo nàng rằng: "Đừng có ngốc, đầu cô trên cổ cô đấy, chứ có mất bao giờ đâu!" Nhưng nàng không tin: "Không, không đúng! Không, không đúng, phải có người nào đó đã lấy mất đầu tôi!" Nàng kêu lên, tiếp tục tìm kiếm điên cuồng. Cuối cùng, các bạn nàng, tin nàng điên, lôi nàng về nhà và buộc nàng vào cột đề phòng nàng tự làm hại mình.

Có thể so sánh sự trói buộc này với việc tọa thiền. Với sự bất động của thân, tâm sẽ đạt được một độ yên tĩnh nào đó. Và trong khi vẫn còn rối loạn, tâm của Diễn Nhã Đạt Đa cứ tin rằng mình không có đầu, thì lúc bấy giờ thân tránh được sự tiêu tán năng lượng.

Các bạn thân của nàng từ từ thuyết phục rằng nàng luôn luôn có đầu, và dần dần nàng tin được một nửa. Tiềm thức của nàng bắt đầu chấp nhận rằng có lẽ mình nghĩ lầm là mình bị mất đầu.
Có thể so sánh việc Diễn Nhã Đạt Đa chấp nhận lời tái khẳng định của các bạn nàng với việc nghe Lão sư thuyết pháp. Lúc đầu, những lời thuyết pháp khó hiểu nhưng lắng nghe nhiều thì từng lời sẽ chìm vào tiềm thức, rồi quý vị sẽ đi đến chỗ bắt đầu nghĩ: "Điều ấy có thực đúng vậy không? ... Tôi ngờ ... Vâng, nó phải thế."
Bỗng một người trong các bạn nàng cốc vào đầu nàng một cái thật mạnh, vì đau và kích động, nàng kêu: "Ui cha!" - "Đó, đầu mi đó!" bạn nàng bảo và tức khắc Diễn Nhã Đạt Đa thấy mình đã lầm khi nghĩ rằng mình bị mất đầu, mà thực tế thì lúc nào mình cũng có đầu.
Cũng thế, cái cốc trong tọa thiền cũng có giá trị tối đa như vậy. Đương nhiên là phải đúng lúc - nếu sớm quá sẽ không có hiệu quả - về mặt vật lý được cây kích trượng (Kyosaku) hoặc lời nói của một bậc thầy có kiến thức làm cho giật nẩy mình có thể đưa đến chứng ngộ tự tánh. Không phải chỉ cây kích trượng có giá trị thúc đẩy quý vị tiến tới mà ngay khi quý vị đã đạt đến một giai đoạn quyết định trong tọa thiền thì một cái đánh thật mạnh cũng có thể đẩy tâm quý vị vào nhận thức Chân tánh - nói cách khác, giác ngộ.

Khi sự kiện này xảy ra với Diễn Nhã Đạt Đa, nàng quá phấn khởi đến nỗi phải chạy nhanh kêu lên: "Ôi, tôi có đầu rồi! Cuối cùng tôi đã có đầu rồi, sung sướng quá!"

Đây là sự khoái lạc của kiến tánh. Nếu kinh nghiệm là chân thực, thì quý vị sẽ không ngủ được vài ba đêm vì vui. Song nó lại là một trạng thái nửa tỉnh nửa điên. Quá vui vì tìm lại được cái đầu mà quý vị đã có ngay từ đầu, ít nhất cũng có thể nói là kỳ quặc. Vui vì sự khám phá ra bản tánh của mình, cái mà quý vị không bao giờ không có, cũng kỳ quặc không kém. Trạng thái xuất thần tuy đủ chân thực, nhưng tâm thái quý vị không thể gọi là tự nhiên cho đến khi nào quý vị hoàn toàn loại bỏ được ý niệm "Tôi đã trở nên giác ngộ." Hãy chú ý thật kỹ điểm này, vì nó thường bị hiểu lầm.

Khi niềm vui lắng xuống, Diễn Nhã Đạt Đa thoát được trạng thái nửa điên. Đối với ngộ cũng thế. Khi trạng thái đê mê hoan hỷ dịu xuống, kéo theo các ý niệm về chứng ngộ, quý vị sẽ ổn định trong một cuộc sống thật tự nhiên và không có gì là kỳ quặc cả. Song cho đến khi nào đạt đến điều này, quý vị không thể sống hài hòa với chung quanh hoặc tiếp tục tu dưỡng tinh thần thực sự được.

Bây giờ tôi sẽ đặc biệt nêu rõ hơn phần đầu câu chuyện. Vì đa số người ta thờ ơ với giác ngộ, họ không biết sự khả hữu của một kinh nghiệm như thế. Họ giống như Diễn Nhã Đạt Đa khi nàng không biết mình có đầu như thế. Dĩ nhiên, cái "đầu" này tương ứng với Phật tánh, với sự toàn hảo bên trong của chúng ta. Dẫu rằng mình có Phật tánh, đối với đa số con người chưa bao giờ biết chuyện ấy cho đến khi họ chợt nghe nói: "Tất cả chúng sanh xưa nay đều có Phật tánh." Bỗng nhiên họ kêu lên: "Thế thì tôi cũng có tánh Phật ư, nhưng nó ở đâu vậy?" Cũng giống như Diễn Nhã Đạt Đa lúc đầu bị mất đầu và bắt đầu chạy trốn, họ bắt đầu tìm kiếm Chân tánh của mình.

Họ bắt đầu bằng cách lắng nghe nhiều bài thuyết pháp, mà chúng có vẻ trái nghịch và rối mù. Họ nghe nói rằng bản tánh của họ không khác với bản tánh của Phật, hơn nữa bản thể của vũ trụ cùng hiện hữu với tánh Phật của họ, song vì tâm họ bị mê hoặc che mờ nên họ thấy mình chạm trán với một thế giới của những thực thể riêng rẽ. Một khi tạo được niềm tin vững chắc vào thực tính của tánh Phật, họ được thúc giục khám phá nó với toàn bộ sức lực của con người họ. Giống như Diễn Nhã Đạt Đa chưa bao giờ không có đầu, chúng ta cũng chưa bao giờ tách rời khỏi tánh Phật của mình dù chúng ta ngộ hay không. Nhưng chúng ta không biết điều ấy. Chúng ta giống như Diễn Nhã Đạt Đa khi nàng được các bạn bảo rằng: "Đừng phi lý, cô luôn luôn có đầu, nghĩ khác là lầm đấy!"

Có thể so sánh sự khám phá ra Chân tánh của chúng ta với sự khám phá ra đầu của Diễn Nhã Đạt Đa. Nhưng chúng ta khám phá được cái gì? Chỉ là cái mà chúng ta không bao giờ không có nó. Song chúng ta rất hân hoan, y như Diễn Nhã Đạt Đa tìm ra được đầu. Khi trạng thái xuất thần lui đi, chúng ta nhận ra rằng mình không có được cái gì phi thường cả, chắc chắn không có gì đặc biệt hết. Bấy giờ chỉ có mọi vật hoàn toàn tự nhiên.

NHÂN VÀ QUẢ LÀ MỘT

Quý vị không hy vọng gì hiểu được

bản chất cao quý của Thiền mà không hiểu bài nói về nhân quả nhất như (Inga Ichinyo) này, nghĩa là nhân và quả là một. Thành ngữ này phát xuất từ Bài Ca Tọa Thiền của Thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin). Hãy nhớ rằng bài nói này không giải thích về nhân và quả theo nghĩa rộng mà chỉ nói đến khía cạnh liên quan đến thực hành tọa thiền.

Nói một cách nghiêm túc, quý vị không nên nghĩ về thời gian tọa thiền. Nói chung thực ra nếu quý vị tọa thiền một năm, sẽ có kết quả tương ứng với một năm nỗ lực và nếu tọa thiền mười năm sẽ có kết quả tương ứng với mười năm nỗ lực. Song các kết quả của tọa thiền có quan hệ đến ngộ không thể đo lường được bằng thời gian thực hành ... Thực tế, có một số người đạt ngộ sâu chỉ sau vài năm thực hành, trong khi có những người thực hành đến mười năm vẫn không có chứng ngộ gì cả.

Ngay từ khi khởi đầu thực hành, một người tiến lên những giai đoạn khác nhau rõ rệt có thể xem như những bậc thang nhân quả. Nhân quả có nghĩa là nguyên nhân và kết quả ám chỉ cả về mức độ lẫn sự khác biệt, trong khi nhất như có nghĩa là như nhau hay giống nhau, như là một. Như thế, trong khi có nhiều giai đoạn tương ứng với thời gian thực hành ở mỗi giai đoạn trong các giai đoạn khác nhau này, bản thể của tâm giống như bản thể của một vị Phật. Do đó, chúng ta nói về nhân và quả là một. Tuy nhiên, cho đến khi ngộ, quý vị không mong gì có được sự hiểu biết sâu hơn về nhân quả.

Bây giờ chúng ta hãy liên hệ điều này với ngụ ngôn Diễn Nhã Đạt Đa tôi đã nói hôm trước. Thời gian nàng không thấy đầu phản chiếu trong gương và chạy quanh tìm kiếm như điên - đây là bậc đầu tiên hay thấp nhất. Khi các bạn nàng buộc nàng vào cột và quả quyết rằng nàng có đầu, khi nàng bắt đầu nghĩ: "Có thể như thế," khi họ cốc mạnh vào đầu nàng và nàng kêu "Ui cha!" và nhận ra rốt cuộc nàng có đầu, khi nàng vui sướng vì thấy có nó, cuối cùng khi niềm vui hạ xuống và sự có đầu này cảm thấy tự nhiên đến nỗi không còn nghĩ đến có nó nữa - tất cả những lúc ấy là những bậc hay những mức tiến hóa khác nhau - ấy là khi quay nhìn lại. Ở mỗi một giai đoạn này, nàng chưa bao giờ không có đầu, dĩ nhiên nàng chỉ nhận ra điều ấy sau khi đã tìm thấy nó.

Cũng thế, sau khi ngộ chúng ta nhận ra rằng ngay từ đầu mình chưa bao giờ không có tánh Phật. Và cũng như vậy, Diễn Nhã Đạt Đa cũng cần đi qua tất cả các giai đoạn ấy để nhận ra sự thật rằng lúc nào nàng cũng có đầu, chúng ta cũng phải vượt qua các giai đoạn tọa thiền kế tiếp nhau để trực nhận ra Chân tánh của mình. Các bước kế tiếp nhau này có quan hệ với nhau về mặt nguyên nhân, nhưng sự thật chúng ta vốn là Phật, trong chuyện ngụ ngôn đó là việc Diễn Nhã Đạt Đa nhận ra rằng nàng vốn luôn luôn có đầu - đây là cái như nhau, là cái không khác.

Trong Chánh Pháp Nhãn Tạng, Thiền sư Đạo Nguyên cũng nói: "Sự tọa thiền dù là của người mới tu, cũng thể hiện toàn thể bản tánh của mình." Ở đây Đạo Nguyên muốn nói rằng tọa thiền chân chính là thể hiện Phật tâm, cái Tâm tất cả chúng ta đã được phú cho. Tọa thiền này là Tối thượng thừa, trong đó Đạo của Phật tràn ngập toàn bộ con người quý vị và nhập vào toàn thể cuộc sống quý vị. Mặc dù ban đầu chúng ta chưa biết trọn vẹn điều ấy, nhưng khi sự tu tập tiến bộ, chúng ta sẽ dần dần đạt được hiểu biết và nội kiến, và cuối cùng với ngộ, chúng ta biết rằng tọa thiền là thể hiện tánh Phật thanh tịnh vốn có của mình, dù chúng ta có ngộ hay không.

BA YẾU TỐ TU THIỀN

Những gì tôi sắp nói đặc biệt áp dụng cho Thiền Đại thừa, nhất là trực chỉ đến ngộ, nhưng nó cũng bao hàm cả Tối Thượng thừa mặc dù ở mức độ ít hơn.

Yếu tố đầu tiên trong ba yếu tố tu Thiền là Đại Tín Căn (Daishinkan) tức lòng tin mãnh liệt. Nó còn hơn là một niềm tin. Chữ "căn" có nghĩa là "rễ" và "tín" là "tin." Do đó, đại tín căn ám chỉ một niềm tin cắm rễ vững chắc, sâu xa, không lay chuyển được, giống như cái cây khổng lồ hay tảng đá kếch sù. Hơn nữa, nó còn là một niềm tin không hoen ố như tin vào năng lực siêu nhiên hay mê tín. Phật giáo thường được miêu tả như là một tôn giáo của trí tuệ. Nhưng nó là một tôn giáo và cái gì tạo nó thành tôn giáo, thì đó là yếu tố niềm tin, thiếu niềm tin thì nó chỉ là một triết lý. Phật giáo bắt đầu với sự giác ngộ của đức Phật, điều mà Ngài đã đạt được sau khi nỗ lực kịch liệt. Vì thế, niềm tin tối thượng của chúng ta là sự chứng ngộ của Phật, bản chất của sự chứng ngộ ấy Ngài đã tuyên bố là bản tánh của con người, của toàn bộ cuộc tồn sinh, nó vốn toàn hảo, không tỳ vết, vô biên - nói tóm là hoàn toàn. Không có niềm tin không lay chuyển vào điều ấy - trái tim của lời Phật dạy - thì không thể tiến xa trong tu tập được.

Phẩm chất cần thiết thứ hai là Đại Nghi Đoàn (Daigidan) tức một tình cảm nghi ngờ mãnh liệt. Quý vị nên nhớ, nó không phải là cái "nghi" đơn giản mà là một "mối nghi" - và đương nhiên nó phát xuất từ lòng tin mãnh liệt. Nó là cái nghi tại sao chúng ta và thế giới có vẻ quá bất toàn, quá đầy xao xuyến, xung đột và đau khổ, khi thực tế lòng tin sâu xa bảo chúng ta rằng chính cái nghịch lại mới đúng. Nó là cái nghi không đem lại cho chúng ta sự an ổn. Mặc dù chính chúng ta hoàn toàn biết rõ mình là triệu phú song lại thấy mình thiếu thốn một cách khốc liệt, không thể giải thích được vì không một xu dính túi. Vì thế, cái nghi mãnh liệt hiện hữu tương ứng với lòng tin mãnh liệt.

Tôi có thể minh họa tâm thái này bằng một thí dụ đơn giản. Hãy lấy một người đang ngồi hút thuốc và bỗng thấy rằng cái ống điếu trong tay mình một phút trước đây mà giờ đã biến mất. Người ấy bắt đầu tìm kiếm với sự hoàn toàn chắc chắn có thể tìm được.

Chỉ một phút trước đây nó còn đó, không ai ở gần cả, nó không thể biến mất được. Càng không tìm được chừng nào, người ấy càng săn đuổi với sức lực và quyết tâm nhiều chừng ấy.

Từ tình cảm nghi ngờ này, yếu tố thứ ba, Đại Phấn Chí (Daifunshi) tức quyết tâm mãnh liệt, xuất hiện một cách tự nhiên. Nó là quyết tâm tràn ngập cố đánh tan khối nghi này bằng toàn bộ sức mạnh

ý chí và năng lực chúng ta. Tin bằng mọi lỗ chân lông trên con người mình vào chân giáo lý của Phật rằng chúng ta đều được phú cho cái tâm Phật tinh khiết, chúng ta quyết khám phá và kinh nghiệm thực thể tâm này của mình.

Hôm kia có người hoàn toàn hiểu lầm tâm thái mà ba yếu tố này đòi hỏi, đã hỏi tôi: "Tin rằng chúng ta là Phật thì có gì khác hơn chấp nhận thế giới này toàn hảo, liễu thì xanh và cẩm chướng thì đỏ." Cái lầm ở đây tự nó hiển nhiên. Nếu chúng ta không hỏi tại sao có tham lam và xung đột, tại sao người thường lại hành động giống Phật, thì trong chúng ta không có quyết tâm nào xuất hiện để giải quyết sự mâu thuẫn hiển nhiên giữa những gì chúng ta tin như là vấn đề của lòng tin và những gì xuất hiện trước mắt thì đúng chỉ là sự thể trái ngược, và như thế sự tọa thiền của chúng ta bị tước mất nguồn năng lực tiên khởi.

Bây giờ, tôi sẽ liên hệ ba yếu tố này với Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa. Trong khi cả ba đều có mặt trong Đại Thừa khối nghi này là động cơ chính đưa đến ngộ vì nó không cho phép chúng ta yên ổn. Như thế chúng ta kinh nghiệm ngộ và giải quyết khối nghi này nhanh hơn với Thiền Đại thừa.

Mặt khác, trong Tối thượng thừa, yếu tố tin mạnh nhất. Không có khối nghi thuộc loại nền tảng như tôi đã nói tấn công chúng ta, và như thế chúng ta không bị thúc đẩy loại bỏ nó, vì chúng ta ngồi trong niềm tin không lay chuyển rằng chúng ta vốn là Phật. Không giống như Thiền Đại thừa, Thiền Tối thượng thừa mà quý vị nhớ là kiểu tọa thiền thuần khiết nhất, không dính dáng gì đến nỗ lực đầy xao xuyến vì ngộ. Nó là kiểu tọa thiền trong đó sự chín muồi xảy ra một cách tự nhiên, lên đến cực điểm trong giác ngộ. Đồng thời, Tối thượng thừa là hình thức tọa thiền khó nhất, đòi hỏi sự ngồi cương quyết nhất và thành khẩn nhất.

Tuy nhiên, cả ba yếu tố đều cần thiết trong cả hai kiểu tọa thiền và các Sư ngày xưa đã nói rằng chừng nào cả ba còn đồng thời có mặt thì chừng ấy đạt chân ngộ còn dễ hơn bước lầm chân.

NGUYỆN VỌNG

Ngay cả khi tất cả chúng ta cùng tọa thiền, nguyện vọng từng cá nhân cũng không đồng nhất. Các nguyện vọng ấy tự quyết định thành bốn nhóm hay bốn hạng chính.

Hạng đầu tiên và cạn nhất không dính dáng gì đến niềm tin vào Phật giáo Thiền, cũng như ngay cả một hiểu biết bất chợt về nó. Một người chỉ chợt nghe nói về nó và nhất định rằng mình thích ngồi với một nhóm tọa thiền hay một khóa nhiếp tâm. Song trong hàng ngàn người mê mờ (hoàn toàn không biết gì về Phật giáo, một cá nhân riêng rẽ sẽ được dẫn đến dòng giáo lý đã được 2.500 năm nguyên vẹn, theo quan điểm Phật giáo, không phải là việc ngẫu nhiên mà là một nghiệp duyên và do đó có ý nghĩa rộng lớn về mặt tinh thần.

Hạng nguyện vọng thứ hai là hạng không đi sâu quá ước vọng tọa thiền chỉ để cải thiện sức khỏe thể xác hoặc tinh thần hoặc cả hai. Hạng này, quý vị nhớ lại, rơi vào loại đầu của năm loại Thiền, tức là Thiền phàm phu.

Ở hạng thứ ba, chúng ta thấy những người không những không còn thỏa mãn với việc gia tăng an lạc thể xác và tinh thần mà còn muốn đặt chân lên con đường của Phật. Họ thấy vũ trụ quan Phật giáo cao diệu làm sao, nó nhìn cuộc tồn sinh không bị giới hạn trong một kiếp nhân sinh mà nhìn suốt cuộc sống hết kiếp này đến kiếp khác nối tiếp nhau không dứt, với cái vòng định mệnh mà con người chỉ kết liễu được khi thành Phật. Hơn nữa, họ đã thiết lập được lòng tin vào thực thể của kinh nghiệm ngộ và quyết tâm đạt ngộ vẫn chưa được đánh thức nhưng khát vọng theo đuổi con đường của Phật thì đã rõ ràng và chân thực.

Hạng thứ tư bao gồm những người quyết tâm thể hiện Chân Ngã của mình. Họ biết kinh nghiệm này là một thực thể sống động, vì họ đã gặp những người đã có kinh nghiệm ấy, và họ tin quyết rằng họ cũng có thể đạt được. Khi họ đến trước thầy mình, họ đến với cõi lòng mở rộng và khiêm tốn, sẳn sàng theo bất cứ phương pháp nào thầy chỉ định, biết chắc rằng làm như thế họ có thể thực hiện được mục tiêu của mình trong thời gian ngắn nhất.

Bây giờ tôi sẽ tóm tắt nhanh bốn hạng nguyện vọng này: Những người không có lòng tin nơi Thiền, đến với Thiền qua nghiệp duyên may mắn; những người thực hành tọa thiền chỉ vì ước vọng trợ giúp sức khỏe, thể xác hoặc tinh thần, hoặc cả hai; những người thực hành Thiền vì tin vào bản chất cao diệu của giáo lý Phật giáo và những người có quyết tâm mãnh liệt trở thành ngộ.

Từ giờ trở đi, quý vị sẽ đến trước mặt tôi từng người một và tôi sẽ hỏi quý vị thấy nguyện vọng của mình thuộc nhóm nào, nghĩa là quý vị rơi vào hạng nào trong bốn hạng ấy. Hãy nói các cảm nghĩ của mình một cách chân thật. Đừng vì tự kiêu mà thêm thắt vào, cũng đừng vì khiêm tốn giả tạo mà rút giảm bớt đi. Tùy thuộc vào những gì quý vị nói, tôi sẽ chỉ định cho quý vị phương pháp tọa thiền nào thích hợp nhất cho từng vị.

Không có phương pháp thực hành nào cố định áp dụng cho mọi người. Nói chung, một người tự đặt mình vào hạng thứ nhất sẽ được chỉ định cho phương pháp đếm hơi thở, một người thuộc hạng thứ hai sẽ theo dõi hơi thở, một người ở phạm trù thứ ba thì Chỉ quán đả tọa, thuộc hạng thứ tư thì một công án, thường là công án KHÔNG.

Có những học viên đến trước tôi từng cá nhân lần đầu tiên, họ đưa ra những câu trả lời hoàn toàn có tính cách tò mò. Vài người nói: "Tôi nghĩ tôi thuộc vào giữa hạng thứ nhất và hạng thứ nhì." Vài người khác bảo: "Tôi có cái dạ dày xấu kinh niên, thế thầy có vui lòng chỉ cho tôi loại tọa thiền nào giúp tôi trong tình trạng này không?" Hoặc đôi khi có người nói: "Tôi hơi điên điên, loại tọa thiền nào giúp được tình trạng ấy?"

Tùy thuộc vào loại người và sức mạnh của quyết tâm, tôi sẽ chỉ định cái mà tôi tin là phương pháp thực hành thích hợp với người ấy. Với một cá nhân lãnh đạm thì thường được thúc giục bằng kích trượng là thích đáng, trong khi một người hơi nóng tính hay nhạy cảm có thể tọa thiền tốt hơn nếu không có kích trượng. Chỉ khi nào quý vị thành thực đánh giá đúng mức cảm nghĩ của mình thì tôi mới có thể chọn cho quý vị phương pháp thực hành hiệu quả nhất.

"Ba Trụ Thiền"

Đỗ Đình Đồng dịch.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
NĂM LOẠI THIỀN
Những Bài Giảng Nhập Môn Tu Thiền của Lão Sư Bạch Vân (Yasutani)

Bây giờ tôi sẽ nêu năm loại thiền khác nhau. Trừ phi biết phân biệt các loại ấy, quý vị có thể lầm những điểm quyết định như ngộ có cần thiết cho Thiền hay không hoặc Thiền có nói đến sự vắng bặt tư tưởng phân biệt và những điều đại loại như thế không. Sự thật có nhiều kiểu Thiền, có cái sâu, có cái nông, có cái đưa đến ngộ có cái không.

Người ta nói rằng trong thời Phật có đến chín mươi hay chín mươi lăm trường phái triết học hay tôn giáo khác nhau. Mỗi trường phái có kiểu Thiền riêng và mỗi kiểu hơi khác với kiểu kia.

Tất cả các tôn giáo lớn đều hàm chứa Thiền ở một mức độ nào đó vì tôn giáo cần cầu nguyện cần nhiếp tâm. Các giáo lý của Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử và Trang Tử, tất cả đều có yếu tố Thiền riêng. Thực ra, Thiền bao hàm nhiều hoạt động khác nhau của đời sống như trà đạo, kịch Noh, kiếm đạo, nhu đạo... Ở Nhật bắt đầu thời Duy Tân Minh Trị, ngót một trăm năm qua và tiếp tục cho đến nay, đã phát sinh một số giáo lý và môn phái mang các yếu tố Thiền. Trong đó, tôi có thể kể Hệ Thống Tĩnh Tọa của Okada, một phương pháp tu dưỡng thân tâm. Gần đây một Tempu Nakamura đã hăng hái bênh vực cho một hình thức Thiền Yoga Ấn độ. Tất cả những phương pháp nhập định khác nhau này, hầu như vô số đều xuất hiện dưới cái đầu đề Thiền rộng rãi. Tốt hơn hết, hãy cố gắng xếp loại tất cả, tôi sẽ đề cập năm phân loại chính của Thiền như đã được Thiền sư Khuê Phong (Keiho) một trong những Thiền sư xuất hiện rất sớm ở Trung hoa đưa ra mà cách xếp loại tôi cảm thấy vẫn còn giá trị và hữu ích. Chỉ có một số dị biệt nhỏ trong cách xếp chân, tay hoặc điều hòa hơi thở, nhưng có ba yếu tố cơ bản chung cho tất cả: một tư thế ngồi thẳng đứng, kiểm soát thở cho đúng và nhiếp tâm. Tuy nhiên, những người mới bắt đầu cần nhớ rằng trong bản chất và mục đích các loại Thiền này có những điểm khác nhau rõ rệt. Những điểm khác nhau này rất quan trọng đối với quý vị, khi từng quý vị đến nói nguyện vọng của mình với tôi, vì chúng sẽ giúp quý vị có thể xác định rõ ràng mục đích của mình và như vậy tiện cho tôi trong việc chỉ định riêng cho từng vị phương pháp tu nào thích hợp hơn.

Loại thứ nhất trong các loại ấy chúng tôi gọi là Thiền Phàm phu (Bompu) hay của người thường đối lại với bốn loại kia, có thể cho rằng mỗi loại là một loại Thiền đặc biệt thích hợp với mục đích riêng của từng cá nhân khác nhau. Thiền Phàm phu hoàn toàn không chứa một nội dung triết lý, hay tôn giáo nào, dành cho tất cả mọi người. Ấy là thứ Thiền thực hành thuần túy vì tin rằng nó có thể cải thiện sức khỏe tinh thần lẫn thể xác. Vì hầu như chắc chắn không có một kết quả xấu nào, nên bất cứ ai cũng có thể thực hiện được, dù người ấy có theo hay không theo tín ngưỡng nào. Thiền Phàm phu sẽ loại bỏ các bệnh về tâm sinh lý và cải thiện sức khỏe nói chung.

Qua thực hành Thiền Phàm phu, quý vị sẽ biết tập trung và kiểm soát tâm. Chưa bao giờ xảy ra chuyện đa số người ta cố thử kiểm soát tâm mình và không may phương pháp huấn luyện cơ bản này bị bỏ rơi ngoài chương trình giáo dục hiện thời, nó không phải thành của cái gọi là thu thập kiến thức. Song không có nó, khó mà giữ lại được những điều đã học, bởi vì chúng ta học không đúng cách, trong quá trình chúng ta đã lãng phí nhiều năng lực. Kết quả chúng ta sẽ què quặt thực sự trừ phi biết cách hạn chế tư tưởng và tập trung tâm lực. Hơn nữa bằng cách thực hành phương pháp luyện tâm rất tuyệt diệu này, quý vị sẽ thấy mình tiến bộ, có thể chống lại được những cám dỗ mà trước kia đã đánh ngã mình và có thể cắt đứt được các sợi dây từ lâu ràng buộc mình. Sự phong phú về nhân cách, sự mạnh thêm về cá tính đương nhiên sẽ theo sau vì ba yếu tố cơ bản của tâm - tức lý trí, tình cảm và lý trí - phát triển một cách hài hòa. Việc ngồi tĩnh tọa thực hành trong đạo Khổng dường như nhấn mạnh chủ yếu các hiệu quả này của sự nhiếp tâm. Tuy nhiên, còn một điều nữa là Thiền Phàm phu, mặc dù có ích nhiều trong việc tu tập hơn là đọc vô số sách đạo đức và triết học, vẫn không thể giải quyết được vấn đề nền tảng của con người và mối tương quan của con người và vũ trụ. Tại sao? Vì nó không thể phá vỡ được cái mê hoặc cơ bản về chính mình của hạng người thường là mình rõ ràng khác với vũ trụ.

Loại thứ hai trong năm loại Thiền gọi là Ngoại đạo (Gedo). Ngoại đạo nghĩa đen là "Con đường bên ngoài" và như thế, theo quan điểm Phật giáo, nó ám chỉ các giáo lý khác với Phật giáo. Ở đây chúng ta có một loại Thiền có quan hệ với tôn giáo và triết học nhưng không phải là Thiền Phật giáo. Yoga của Ấn độ, phép tĩnh tọa của Khổng giáo, các phép chiêm bái thực hành trong đạo Kitô, tất cả đều thuộc phạm trù Thiền Ngoại đạo.

Một khía cạnh khác của Thiền Ngoại đạo là nó thường được thực hành để luyện các năng lực hoặc kỹ năng siêu nhiên khác nhau nào đó ở ngoài tầm mức người thường. Một thí dụ tốt thuộc loại này là Tempu Nakamura, người mà tôi đã nhắc trên kia. Người ta kể rằng ông ta có khả năng bảo người khác cử động bắp thịt hoặc nói thành lời mà không có mặt ông ta ở đó. Mục đích của phương pháp Emma là biểu diễn những kỹ xảo ngoạn mục, như đi chân trần trên những lưỡi kiếm bén hoặc nhìn những con chim sẻ khiến chúng trở nên tê liệt. Tất cả những trò biểu diễn kỳ diệu này là kết quả của sự tu luyện định lực (Joriki) là sức mạnh hay năng lực phát sinh cùng với sự thực hành nhiếp tâm kịch liệt, mà tôi sẽ nói chi tiết hơn sau. Ở đây tôi chỉ nhắc quý vị nhớ rằng một thứ Thiền mà mục đích chỉ nhằm tu luyện định lực với các mục tiêu như thế, không phải Thiền của Phật giáo.

Một mục tiêu nữa mà Thiền Ngoại đạo nhằm thực hành là để được tái sinh nơi các cõi trời khác nhau. Một vài môn phái Ấn độ giáo như chúng ta biết thực hành Thiền để tái sinh nơi cõi trời. Đây không phải là đối tượng của Thiền Phật giáo. Trong khi người Phật giáo Thiền không tranh luận các khái niệm về các tầng trời khác nhau, về niềm tin rằng một người có thể được tái sinh ở các nơi ấy, qua sự thực hiện mười loại đạo hạnh mà chính người ấy không mong ước tái sinh nơi cõi trời. Các điều kiện ở đó rất thích thú và dễ chịu, vì thế người ấy rất dễ bị cám dỗ từ bỏ tọa thiền. Vả lại khi công đức ở cõi trời suy cạn, người ấy rất có thể bị rơi xuống địa ngục. Vì thế, người Phật giáo Thiền thích được sinh nơi cõi người hơn và thích thực hành tọa thiền với mục đích tối hậu là thành Phật.

Tôi sẽ dừng lại ở đây và bài nói kế sẽ kết thúc về năm loại Thiền.

Đến đây tôi đã bàn với quý vị về hai loại Thiền đầu tức là Phàm phu và Ngoại đạo. Trước khi tiếp tục ba loại kế tiếp tôi sẽ chỉ cho quý vị một phương pháp nhiếp tâm khác: theo dõi hơi thở bằng con mắt tâm. Trong thời gian ngừng đếm các hơi thở, thay vào đó, quý vị hãy tập trung khẩn trương vào việc theo dõi các hơi thở ra và hít vào, cố gắng hình dung chúng một cách rõ ràng. Quý vị hãy thực hiện bài tập này cho đến khi quý vị lại đến trước tôi.

Loại Thiền thứ ba là Tiểu thừa (Shojo), nghĩa đen là cái xe nhỏ (Hinayana). Đây là cái xe đưa quý vị từ một tâm thái này (mê) đến một tâm thái khác (ngộ). Được gọi là cái xe nhỏ vì nó chỉ được dự trù chở một người thôi. Có lẽ quý vị có thể so sánh nó với chiếc xe đạp. Cái xe lớn hơn (Mahayana), mặt khác, giống như chiếc xe ca hay cái xe buýt, nó chở luôn cả những người khác. Vì vậy, Tiểu thừa là một loại Thiền chỉ chú trọng sự an tâm của một mình mình thôi.

Ở đây chúng ta có một thứ Thiền Phật giáo, nhưng không phải là loại Thiền hợp với giáo lý tối thượng của Phật. Nó là loại Thiền thích hợp cho những ai không thể nắm được ý nghĩa sâu xa nhất, sự giác ngộ của Phật, nghĩa là một hiện thể như là một toàn thể không thể chia cắt được, mỗi một người trong chúng ta đều bao trùm cả vũ trụ trong toàn thể tính của nó. Điều này đúng, nếu thấy rằng mình không thể đạt an tâm đích thực bằng cách chỉ tìm sự cứu độ riêng mình trong khi vẫn lạnh lùng với hạnh phúc của người khác.

Tuy nhiên có những người (một vài người trong số quý vị đang lắng nghe tôi đây có thể ở trong số đó) không thể tự khiến cho mình có thể tìm một cách đơn giản vào sự có thực của một thế giới như thế. Dẫu sao, họ cũng đã thường được dạy rằng thế giới tương đối của phân biệt và đối lập mà họ đang cố bám vào là hư vọng, là sản phẩm của những cái nhìn sai lầm nên họ không thể nào tin khác được. Đối với những người như thế, thế giới dường như chỉ có xấu và tội lỗi, xung đột và đau khổ, đầy giết chóc và bị giết chết và trong thất vọng họ muốn chạy trốn. Quả thật, chết còn đáng thích hơn sống. Cái tội không thể chịu đựng hơn hết trong tất cả mọi tội là gánh lấy sự sống trong bất cứ hình thức nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì điều ấy buộc họ vào đau khổ bất tận, hóa thân như là dã thú hay quỷ dữ trong vô số kiếp tương lai vì luật nghiệp báo không thể dung thứ được. Như thế chết không phải là hết. Do đó những gì họ cần tìm chỉ là con đường tránh tái sinh, một phương pháp chết không bị tái sinh.

Thiền Tiểu thừa cung cấp câu trả lời cho nhu cầu này. Nói như thế vì mục đích của nó là chận đứng mọi tư tưởng để tâm trở nên trống rỗng hoàn toàn và đi vào trạng thái gọi là vô tâm (Mushinjo), một trạng thái trong đó mọi cơ năng cảm biết bị loại bỏ và khả năng ý thức bị đặt trong tình trạng do dự phân vân. Với thực hành, ai cũng có thể tu dưỡng được năng lực này. Trong trường hợp không có ý muốn chết, người ta có thể đi vào trạng thái giống như xuất thần trong một thời gian có hạn định - một vài giờ hoặc một vài ngày - hay có thể ở lại trong trạng thái ấy vô hạn định, trong ấy cái chết đương nhiên sẽ xảy ra một cách tự nhiên, không đau đớn và - đây là điều quan trọng nhất - không tái sinh. Toàn bộ quá trình chết không tái sinh này được nói một cách rất chi tiết trong một tác phẩm triết học Phật giáo gọi là Câu Xá Luận (Kusharon).

Loại thứ tư gọi là Thiền Đại thừa (Daijo), là cái xe lớn (Mahayana) và đây là một loại Thiền Phật giáo đích thực vì mục đích chính của nó là kiến tánh ngộ đạo (kensho Godo) tức là nhìn thấy bản tánh của mình và nhận ra rằng Đạo ở trong cuộc sống hàng ngày của mình. Đối với những ai có thể hiểu được ý nghĩa sự chứng ngộ của Phật và khao khát xuyên phá cái nhìn hư vọng của mình về vũ trụ và kinh nghiệm Thực Tại Tuyệt Đối không sai khác, Phật giáo đích thực là tôn giáo của giác ngộ. Đức Phật sau khi chứng ngộ, đã dùng khoảng năm mươi năm để dạy cho mọi người biết cách làm thế nào tự họ có thể chứng ngộ Tự Tánh của mình. Các phương pháp của Ngài đã được truyền lại từ thầy sang trò, thẳng xuống đến chúng ta ngày nay. Vì thế có thể nói rằng một thứ Thiền mà nó không biết đến hoặc chối bỏ hoặc coi nhẹ ngộ thì không phải là Thiền Đại thừa Phật giáo đích thực.

Trong thực hành Thiền Đại thừa, mục đích của quý vị khởi đầu là ý thức về Chơn tánh mình, nhưng khi ngộ quý vị sẽ nhận ra rằng tọa thiền còn hơn là một phương tiện để ngộ - nó là sự hiện thực của Chơn tánh mình. Trong loại Thiền này, đối tượng là giác ngộ, người ta dễ nhận lầm tọa thiền chỉ là một phương tiện mà thôi. Tuy nhiên, một bậc thầy trí tuệ ngay từ lúc khởi đầu sẽ chỉ rõ rằng tọa thiền đích thực là sự hiện thực của Phật tánh vốn có và không phải chỉ là một kỹ thuật để đạt ngộ. Nếu tọa thiền không gì khác hơn là một kỹ thuật như thế, người ta sẽ thấy rằng sau khi ngộ, tọa thiền sẽ không còn cần thiết nữa. Nhưng như chính Đạo Nguyên đã chỉ rõ rằng ngược lại mới đúng, càng chứng ngộ sâu càng thấy cần thực hành.

Thiền Tối thượng thừa (Saijojo), loại cuối cùng của năm loại, là chiếc xe cao nhất, là đỉnh cao cùng tột của Thiền Phật giáo. Thiền này đã được tất cả các Phật quá khứ - như Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà - thực hành và là sự biểu lộ của sự sống tuyệt đối, sự sống trong hình thức tinh khiết nhất. Nó là cách tọa thiền mà Thiền sư Đạo Nguyên chủ yếu bênh vực và nó không dính dáng gì đến việc đấu tranh để ngộ hay bất cứ đối tượng nào khác. Chúng tôi gọi nó là Chỉ quán đả tọa (Shikan taza) và tôi sẽ nói chi tiết hơn về phương pháp này trong một bài sau.

Trong phương pháp thực hành cao nhất này, phương tiện và cứu cánh hợp thành một. Thiền Đại thừa và Thiền Tối thượng thừa thực tế bổ sung cho nhau. Phái Lâm Tế đặt Đại thừa lên cao nhất và Tối thượng thừa ở dưới, trong khi phái Tào Động làm ngược lại. Trong Tối thượng thừa, khi được thực hành đúng quý vị ngồi trong niềm tin kiên định rằng tọa thiền chính là thể hiện Chân tánh không ô nhiễm của mình, và đồng thời quý vị ngồi trong niềm tin trọn vẹn rằng cái ngày ấy sẽ đến, khi kêu lên: "Ô, nó đây rồi!" Quý vị sẽ nhận ra Chân tánh này không nhầm lẫn. Vì thế, về mặt tự thức, quý vị không cần cố gắng để ngộ.

Ngày nay nhiều người trong phái Tào Động chủ trương rằng tất cả chúng ta vốn là Phật, thì ngộ đâu có cần thiết. Một sai lầm quá đáng như thế khiến cho Chỉ quán đả tọa, đúng ra nó là hình thức ngồi cao nhất, trở thành không gì khác hơn một thứ Thiền Phàm phu, loại đầu trong năm loại.

Đến đây tôi đã tường thuật đầy đủ về năm loại Thiền khác nhau, nhưng trừ phi khi nào tôi nói với quý vị về ba mục tiêu của tọa thiền thì việc giới thiệu của tôi về năm loại Thiền nhất là hai loại cuối vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ.
-------------------------------------------

Trích từ tác phẩm "Ba Trụ Thiền"

Đỗ Đình Đồng dịch.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Vô công dụng hạnh của các Bậc Bồ tát:

Khéo khéo lúc dụng tâm
Khéo khéo không tâm dụng
Không tâm khéo khéo dụng
Thường dụng khéo khéo không.


Thiền sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác .

(Thường xuyên tỉnh giác, một ngày nào đó tâm sẽ thanh tịnh rỗng rang, lúc cần khởi niệm thì đó là dụng của tự tánh, lúc bình thường lại trở về với thể tánh chân thường. Mọi việc làm của chúng ta tự nhiên khế hợp với tự tánh, dụng công mà không dụng nên hằng dụng .
Vì không có tâm dụng nên không có năng dụng và sở dụng, nhưng không dung túng vọng tưởng nên hàng ngày vẫn khéo khéo dụng công. Dù thường ngày dụng công nhưng không chủ ý khởi vọng niệm, không trừ vọng tâm, cũng không tâm phân biệt người dụng và đối tượng dụng, nên vẫn khéo khéo không. Đây là điều rất sâu xa khó hiểu, không thể dùng ý thức để đo lường, mà phải tự mình đặt chân đến đoạn-đường-tâm ấy mới thầm hội được. )
-------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
“Vọng Tận hoàn nguyên quán”.


“Vọng Tận hoàn nguyên quán” là gì ?

Đó là Thông điệp của kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka ).Thông thường kinh này được coi là vua của các kinh Đại thừa. Dưới đây là giải thích của ngài Pháp Tạng về thông điệp đó:

Đây là Nhất Tâm, vốn là thực tại cứu cánh, mà tự tánh vốn thanh tịnh, mãn túc, và viên minh. Từ Tâm này khởi lên hai diệu dụng. Do Tâm này mà có thế giới sum la vạn tượng; và từ Tâm này khởi lên tất cả tác dụng viên minh, tự tại, thực hành các hạnh nguyện ba la mật (pãramità). Trong hai tác dụng này, mà chúng ta có thể gọi là tác dụng tồn tại và tác dụng đạo đức, phân biệt thành ba đặc tính phổ biến. Xét trên khía cạnh tồn tại mỗi một sự vật cá biệt, thuật ngữ gọi là “Vi trần” (anuraja) bao hàm toàn thể pháp giới. Thứ nữa, trên khía cạnh sáng tạo, mỗi một vi trần này hiện hằng sa công đức; như thế, bí mật của toàn thể vũ trụ được thăm dò chỉ bằng vào một vi trần truy nhất. Thứ ba, trong một vi trần có thể nhận thấy lý thể của Chân Không.

Đối chiếu với thế giới khách thể này, Bồ tát thực hành bốn Đức:
1. Đức tùy duyên diệu dụng phát sinh từ trí (prajnà) và bi (karuna);
2. Đức luật tắc luân lý nhờ đó bảo trì phẩm cách của đời sống con người;
3. Đức nhu hòa với tất cả, và nhất trực;
4. Đức xả kỷ, thay tất cả chúng sinh mà chịu đựng khổ đau. Nhờ những đức này, kẻ phàm ngu giải trừ được các mê hoặc, các phiền não trở thành chánh lý, các ô nhiễm bị quét sạch, và đài gương Chân Như luôn luôn trong và sáng.

Tự tu tập trong những đức ấy chưa phải là hoàn tất cuộc đời hành đạo, bởi vì Pháp môn chỉ (Smatha) cần có để giữ tâm hoàn toàn hòa điệu với bản tính của thực tại; cốt không để bị lôi kéo vào một thế giới của những sai biệt, và còn phải gìn giữ cho ánh sáng của Vô thức không bị tắt ngủm và bị che đậy. Tuy nhiên, pháp môn Chỉ đơn độc, nó có thể dẫn tâm đến tình trạng tự mãn và hủy diệt mất nguồn suối vận hành đại bi. Do đó cần phải thực hành pháp môn Quán (Vipasyanã). Samatha có nghĩa là đình chỉ, và Vipasyanà là quán chiếu. Cả hai bổ túc lẫn nhau. Pháp Tạng nhận xét rằng, muốn hiểu Hoa nghiêm cần phải có sáu phép quán sau đây: 1. nhìn vào bản tính trong sáng của Chân Tâm, nơi trở về của vạn hữu; 2. nhìn vào tự thể của thế giới sai biệt vốn là do Chân Tâm mà có; 3. quán sát về bí mật viên dung của tâm và cảnh; 4. quán sát rằng tất cả chỉ là Chân Như, mà tất cả ảnh hiện tồn tại đều phản chiếu trong đó; 5. quán sát rằng đài gương nhất thể thu nạp ảnh tượng của mọi vật mà mỗi vật không ngăn ngại nhau, và 6. quán sát rằng chủ và bạn cùng quan hệ tồn tại toàn triệt khắp tất cả thế giới, nếu kéo ra một vật cá biệt thì toàn thể tất cả vật khác cũng được kéo ra theo cùng lúc.


Nhờ bản chuyên luận này của Pháp Tạng, chúng ta sẽ có thể nắm được giáo thuyết tối hậu của Gandavyùha cũng như mối liên lạc của nó với Phật giáo Thiền tông. Cuối cùng, pháp môn Thiền cốt thể hiện Vô thức, vốn là căn cơ của tất cả, và vô thức này chính là Duy Tâm trong Ganda cũng như trong Lankà. Một khi chứng đắc Tâm này, không phải như là một cái sở đắc, mà là cái siêu việt thế giới thiên chấp đối đãi, thì rồi, Phật, Bồ tát và hết thảy chúng sinh đều được qui chiếu về Tâm, - vốn là Vô thức - ấy. Thiên bẩm của ấn diễn chúng thành một Pháp giới được miêu tả gửi hình dưới hình thức lầu cát Lô-xá-na (Vairochana) với tất cả những vật huy hoàng và tráng lệ của nó. (Vyùha và alamkara). Trong đầu óc của người Trung Hoa, những tráng lệ thiên đường rực rỡ với những ánh sáng siêu nhiên, được diễn tả vô cùng kỳ diệu trong Ganda, lập tức được quy chiếu vào những màu sắc của mặt đất xám này. Thần tiên không ở trên trời, mà là những con người khổ lụy của trần gian. Nhưng Thiền không hủ lậu, không vụ lợi. Dù là trọng sự thực hiển nhiên, Thiền vẫn có phong thái huyền bí và tâm linh, sau này khai triển thành một hình thức thần bí duy nhiên. Hồ Thích, một học giả Tàu cho rằng Thiền là sự nổi loạn của tâm lý người Tàu chống lại những siêu hình khúc mắc của Phật giáo Nhưng sự thực nó không phải là một cuộc nổi loạn, mà là một lối định giá sâu sắc.
------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Những Bài thơ được dịch tư Thi Kệ (trong Kinh Phật)


Thức dậy
Thức dậy mỉm miệng cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời

Quơ dép
Đặt chân trên mặt đất
Là thể hiện thần thông
Từng bước chân tỉnh thức
Làm hiển lộ pháp thân

Xuống giường
Sáng, trưa, chiều và tối
Mọi loài hãy giữ gìn
Nếu dưới chân lỡ đạp
Xin nguyện chóng siêu sinh

Nam mô bồ tát Siêu Lạc Địa

Mở cửa sổ
Mở cửa nhìn pháp thân
Đời mầu nhiệm không cùng
Lòng dặn lòng tỉnh thức
Giòng nước tâm trong ngần

Vặn nước
Nước từ nguồn suối cao
Nước từ lòng đất sâu
Nước mầu nhiệm tuôn chảy
Ơn nước luôn tràn đầy

Rửa tay

Múc nước để rửa tay
Xin nguyện cho mọi người
Có đôi bàn tay khéo
Gìn giữ trái đất này

Đánh răng
Đánh răng và súc miệng
Cho sạch nghiệp nói năng
Miệng thơm lời chánh ngữ
Hoa nở tự vườn tâm

Súc miệng
Súc miệng lòng cũng sạch
Vũ trụ ngát hoa hương
Ba nghiệp thường thanh tịnh
Cùng Bụt chơi Tây Phương

Vào nhà cầu
Không nhơ cũng không sạch
Không bớt cũng không thêm
Trí tuệ Ba La Mđat
Không có pháp nào trên

Tắm
Không sinh cũng không diệt
Không trước cũng không sau
Trao truyền và tiếp thọ
Pháp giới tính nhiệm mầu

Soi gương
Chánh niệm là đài gương
Gương soi hình tứ đại
Đẹp nhất là tình thương
Và cái nhìn rộng rãi

Rửa chân
Sự an lạc
Của ngón chân
Niềm an lạc
Của thân tâm

Mặc áo nhật bình
Mang áo của người tu
Tâm tư thường khỏe nhẹ
Nguyện sống đời thảnh thơi
Đem vui cho trần thế

Khoác áo ca sa
(nâng ngang trán)
Đẹp thay áo giải thoát
Áo ruộng phước nhiệm mầu
Con cúi đầu tiếp nhận
Đời đời nguyện mang theo

Vào thiền đường
Vào thiền đường
Thấy chân tâm
Một ngồi xuống
Dứt trầm luân

Ngồi xuống
Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề
Vững thân chánh niệm không hề lãng xao

Điều thân
Trong tư thế kiết già
Đóa hoa nhân phẩm nở
Ưu Đàm Hoa muôn thuở
Vẫn tỏa ngát hương thơm

Điều chỉnh hơi thở
Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giờ phút đẹp tuyệt vời

Tê chân đổi cách ngồi
Khổ thọ và lạc thọ
Như mây trời theo gió
Hơi thở là giây neo
Thuyền về nơi bến cũ

Chắp tay chào
Sen búp xin tặng người
Một vị Bụt tương lai

Nâng bình bát
Bình bát của Như Lai
Nay được nâng trên tay
Nguyện hết lòng thực tập
Pháp tam luân không tịch

Chú nguyện
Pháp Bụt thật phi thường
Bảy hạt đầy mười phương
Cúng dường khắp pháp giới
Từ bi không biên cương

Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)

Xuất sanh
Đại bàng Garuda
Quỷ thần nơi khoáng dã
Mẹ con quỷ La Sát
Cam lồ đều no đủ

Án mục đế tóa ha (3 lần)

Quán niệm trước khi ăn
Bụt dạy ta khi ăn
Nên duy trì chánh niệm
Đại chúng khi nghe chuông
Xin thực hành năm quán:

1. Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác
2. Xin nguyện sống xứng đáng để thọ nhận thức ăn này
3. Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu, nhất là tật tham lam
4. Chỉ xin ăn những thức có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh
5. Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này

Nâng bát không
Tay nâng chiếc bát không
Tôi biết rằng trưa nay
Tôi có đủ may mắn
Để có bát cơm đầy

Nâng bát đầy
Tay nâng bát cơm đầy
Tôi thấy rõ vạn vật
Đang dang tay góp mặt
Để cùng nuôi dưỡng tôi

Trước khi ăn
Vạn vật tranh sống
Trên quả đất này
Nguyện cho tất cả
Có bát cơm đầy

Bốn đũa đầu
Đũa thứ nhất, học hiến tặng niềm vui
Đũa thứ hai, học làm vơi nỗi khổ
Đũa thứ ba, học giữ lòng hoan hỷ
Đũa thứ tư, học thực tập thả buông

Nhìn bát cơm đã sạch thức ăn
Bát cơm đã vơi
Bụng đã no rồi
Bốn ơn xin nhớ
Nguyện sẽ đền bồi

Tắm Bụt
Hôm nay được tắm cho Như Lai
Trí tuệ quang minh công đức lớn
Chúng sanh ba cõi đang chìm ắđm
Được thấy trần gian hiện pháp thân

Kệ chuông (1)
Ba nghiệp lắng thanh tịnh
Gửi lòng theo tiếng chuông
Nguyện người nghe tỉnh thức
Vượt thoát nẻo đau buồn

Kệ chuông (2)
Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Xa xôi tăm tối cũng đều nghe
Những ai lạc bước mau dừng lại
Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về

Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

Kệ chuông (3)
Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Khắp nơi u tối mọi loài nghe
Siêu nhiên vượt thoát vòng sinh tử
Giác ngộ tâm tư một hướng về

Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

Nghe chuông (1)
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm

Nghe chuông (2)
Nghe chuông phiền não tan mây khói
Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười
Hơi thở nương chuông về chánh niệm
Vườn tâm hoa tuệ nở muôn nơi

Nam mô đức bổn sư Bụt Thích Ca Mâu Ni

Nghe chuông (3)
Nghe tiếng chuông
Lòng nhẹ buông
Tâm tĩnh lặng
Hết sầu thương
Tập buông thả
Thôi vấn vương
Lắng nghe thấu
Tận nguồn cơn
Học nhìn lại
Hiểu và thương

Ngồi thiền sáng
Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai
Tĩnh tọa lòng an miệng mỉm cười
Ngày mới nguyện đi trong tỉnh thức
Mặt trời trí tuệ rạng muôn nơi.

Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến nhiếp tâm thiền tập
Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần)

Ngồi thiền tối
Vững thân ngồi dưới cội bồ đề
Ba nghiệp lắng rồi hết thị phi
Thu nhiếp thân tâm vào chánh niệm
Rõ soi diện mục thoát bờ mê.

Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến nhiếp tâm thiền tập
Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3 lần)

Kệ vô thường
Ngày nay đã qua
Đời sống ngắn lại
Hãy nhìn cho kỹ
Ta đã làm gì?
Đại chúng hãy cùng tinh tấn
Thiền tập hết lòng
Sống cho sâu sắc và thảnh thơi
Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.

Xưng tán Bụt
Phật bảo sáng vô cùng
Đã từng vô lượng kiếp thành công
Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông
Sáng rực đỉnh Linh Phong
Trên trán phóng hào quang rực rỡ
Chiếu soi sáu nẻo hôn mông
Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng
Tiếp nối Pháp chánh tông
Xin quy y thường trú Phật đà gia !

Xưng tán Pháp
Pháp bảo đẹp vô cùng
Lời vàng do chính Bụt tuyên dương
Chư thiên trỗi nhạc tán hoa hương
Pháp mầu nhiệm tỏ tường
Ghi chép rõ ràng thành ba Tạng
Lưu truyền hậu thế mười phương
Chúng con nay thấy được con đường
Nguyện hết sức tuyên dương
Xin quy y thường trú Đạt ma gia !

Xưng tán Tăng
Tăng bảo quý vô cùng
Phước điền hạt tốt đã đơm bông
Ba y một bát bước thong dong
Giới định tuệ dung thông
An trú đêm ngày trong chánh niệm
Thiền cơ chứng đạt nên công
Chúng con tất cả nguyện một lòng
Trở lại với tăng thân
Xin quy y thường trú Tăng già gia !

Thở (1)
Quay về nương tựa
Hải đảo tự thân
Chánh niệm là Bụt
Soi sáng xa gần
Hơi thở là Pháp
Bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là Tăng
Phối hợp tinh cần
Thở vào thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang

Thở (2)
Thở vào biết thở vào
Thở ra biết thở ra
Hơi thở vào đã sâu
Hơi thở ra đã chậm
Thở vào tôi thấy khỏe
Thở ra tôi thấy nhẹ
Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giây phút đẹp tuyệt vời

Thở (3)

Đã về
Đã tới
Bây giờ
Ở đây
Vững chãi
Thảnh thơi
Quay về
Nương tựa
Nay tôi đã về
Nay tôi đã tới
An trú bây giờ
An trú ở đây
Vững chãi như núi xanh
Thảnh thơi dường mây trắng
Cửa vô sinh mở rồi
Trạm nhiên và bất động

Giận
Cái giận làm tôi xấu
Biết vậy tôi mỉm cười
Quay về thủ hộ ý
Từ quán không buông lơi

Mở máy điện toán
Thắp lên máy điện toán
Ý tiếp xúc với Tàng
Tập khí nguyện chuyển hóa
Nuôi lớn Hiểu và Thưong

Trước khi rồ máy xe
Trước khi cho máy nổ
Tôi biết tôi đi đâu
Xe với tôi là một
Xe mau tôi cũng mau

Gắn giây lưng an toàn
Hai phần ba tai nạn
Xảy ra tại gần nhà
Biết vậy tôi cẩn trọng
Dù không đi đâu xa

Quán tưởng trước khi lễ Bụt
Trong thể tính chân như
không chủ thể đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như Đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy

Nâng chén trà lên
Chén trà trong hai tay
Chánh niệm nâng tròn đầy
Thân và tâm an trú
Nơi này và ở đây

Ngồi xuống
Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề
Vững thân chánh niệm không hề lãng xao

Tưới cây trong chậu
Đừng thấy mình riêng lẻ cây ơi
Nước này tuôn chảy từ mạch đất trời
Nước này là đại địa
Ta có nhau tự muôn đời

Nhìn bàn tay
Bàn tay là của ai
Chưa từng một lần chết
Ai ngày qua đã sinh
Ai ngày mai sẽ diệt

Nhấc điện thoại
Tiếng đi ngoài ngàn dặm
Xây dựng niềm tin yêu
Mỗi lời là châu ngọc
Mỗi lời là gấm thêu

Tưới cây
Nước mát và mặt trời
Cùng làm nên màu xanh
Cam lộ của Bồ Tát
Rưới xuống nơi sa mạc
Thành biển xanh
Mông mênh

Thiền hành
Ý về muôn vạn nẻo
Thiền lộ tâm an nhiên
Từng bước gió mát dậy
Từng bước nở hoa sen

Bật đèn
Thất niệm là bóng đêm
Chánh niệm là ánh sáng
Đưa tỉnh thức trở về
Cho thế gian tỏa rạng

Lặt rau
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Vạn pháp nương nhau làm nên cuộc đời

Làm vườn

Đất đưa ta ra đời
Rồi đất ôm ấp ta
Sinh diệt trong hơi thở
Sinh diệt như hằng sa

Trồng cây
Tôi gửi tôi cho đất
Đất gửi đất cho tôi
Tôi gửi tôi nơi Bụt
Bụt gửi Bụt nơi tôi

Chùi cầu tiêu

Đẹp thay sự quét dọn
Tịnh nghiệp ngày thêm lớn

Quét tước
Siêng năng quét đất Bụt
Cây tuệ nẩy mầm xanh

Dọn thiền đường
Nơi thiền đường im mát
Quét dọn không thấy mệt

đổ rác
Một thùng rác bẩn
Một bông hồng thơm
Muôn vật chuyển hóa
Thường trong vô thường

Cắt hoa
Xin cắt một cành hoa
Tặng phẩm của đất trời
Hoa là vị Bồ Tát
Làm đẹp cho cuộc đời

Cắm hoa
Trang nghiêm Tịnh Độ
Nơi cõi ta bà
Đất tâm thanh tịnh
Hiển lộ ngàn hoa

Thay nước bình hoa
Nước giữ hoa tươi
Hoa nở cho người
Hoa thở tôi thở
Hoa cười tôi cười

đốt nến
Thắp lên một ngọn đèn
Cúng dường vô lượng Bụt
Một tâm niệm an lành
Làm rạng ngời mặt đất
-----------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Các đọan Thi Kệ này dành cho các Thiền Sinh Tại Gia cũng như Xuất Gia .

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Mở cửa sổ


Mở cửa nhìn pháp thân
Đời mầu nhiệm không cùng
Lòng dặn lòng tỉnh thức
Giòng nước tâm trong ngần


-----------
Thi Kệ

Ghi lại tặng V/H và Tú Uyên .
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Tặng các ĐH cành Kiếm Hoa màu Tím :

Summerflower.jpg



Mong trong năm mới Trí Huệ Bát Nhã của chúng ta nở hài hoà .

Mến,
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên