vienquang6

Ẩn ý Truyện Tây Du

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Bí ẩn cây phất trần của Trấn Nguyên Đại Tiên, một mình đương cả ba binh khí của Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng


“Thần binh ba món bao vây,
Phất trần một chiếc tung bay oai hùng.
Che sau đỡ trước ung dung,
Đỡ trên gạt dưới vững lòng tự tin”.

Cây phất trần của Trấn Nguyên Đại Tiên vì sao lại nhiệm màu đến vậy? Bài viết xin mạo muội đưa ra kiến giải hạn hẹp, hy vọng cùng quý độc giả chiêm nghiệm nội hàm bao la của văn hóa Thần truyền.

Khi bốn thầy trò Đường Tăng đi qua Ngũ Trang đạo quán ở núi Vạn Thọ, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Đại Tiên vâng lời sư phụ dặn dò đã mang hai trái nhân sâm quý tới mời Đường Tăng. Nhưng vì loại quả này trông tựa đứa trẻ sơ sinh nên Đường Tăng một mực khước từ. Hai tiểu đồng không còn cách nào khác, đành quay về phòng, chia nhau mỗi người một quả.

Bí mật này chẳng may lọt vào tai Trư Bát Giới. Bản tính háu ăn, Bát Giới xúi giục Ngộ Không hái trộm nhân sâm cho biết mùi vị. Sau khi phát hiện, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Tử đã buông lời nhục mạ cả bốn thầy trò, từ đó mà dẫn đến sự việc đáng tiếc: Tôn Ngộ Không đại náo Ngũ Trang quán, đạp đổ cây nhân sâm.
Hai tiểu đồng phát hiện ra, bèn lập kế khoá chặt thầy trò Đường Tăng ở trong phòng, chờ sư phụ về xử trị. Nhờ phép thuật của Tôn Hành Giả, mấy thầy trò đang đêm trốn đi. Trấn Nguyên Đại Tiên trở về, biết chuyện liền đuổi theo.
‘Thần binh ba món bao vây, Phất trần một chiếc tung bay oai hùng’
Trấn Nguyên Đại Tiên hóa thành một nhà sư lang thang, thử thăm dò thầy trò Đường Tăng. Ngộ Không sợ lộ chuyện, liền nói dối rằng mình không đi qua Ngũ Trang quán. Tây du ký, hồi 25 có viết:
“Đại Tiên chỉ thẳng vào mặt nói:
– Con khỉ hỗn láo kia, nhà ngươi định giấu ai nữa! Chính nhà ngươi ở quán của ta, quật đổ cây nhân sâm của ta, rồi đang đêm chạy trốn đến đây, còn vờ vĩnh gì! Chớ có chạy, quay lại đền cây cho ta!

Hành Giả nghe nói, trong lòng giận dữ, rút luôn gậy sắt, chẳng cần phân bua, nhằm đầu Đại Tiên bổ xuống. Đại Tiên nghiêng mình tránh, nhảy phắt lên mây. Hành Giả cũng nhảy lên, đuổi theo. Trên không trung, Đại Tiên hiện nguyên hình:
Đầu đội mũ vàng óng,
Mình mặc áo cánh tiên.
Gót chân giày nhẹ bước,
Bên mình dải tơ buông.
Dáng dấp như đạo sĩ,
Mặt mũi đẹp thần tiên,
Ba chòm râu quanh mép.
Hai món tóc đôi bên,
Đánh nhau không khí giới,
Phất trần nhẹ vung lên.

Hành Giả chẳng biết thấp cao, vung gậy đánh bừa. Đại Tiên cũng giơ phất trần che phải đỡ trái. Hai người đánh nhau trong ba hiệp, Đại Tiên bèn dùng phép “càn khôn trong tay áo” đứng trên tầng mây, nhẹ nhàng vung tay áo đón gió, tay áo rộng tỏa ra khắp mặt đất, úp chụp lấy cả bốn thầy trò và con ngựa”.
Thầy trò Đường Tăng bị bắt rồi, về sau Tôn Ngộ Không lại làm phép biến bốn cây liễu thế thân cho bốn người, rồi cả đoàn đang đêm lẻn đi phen nữa. Trấn Nguyên Đại Tiên biết được, đuổi theo tức thì, và lại xảy ra một trận kịch chiến nữa:
“Đại Tiên từ tầng mây nhảy xuống, quát:

– Tôn Hành Giả chạy đi đâu! Trả cây nhân sâm cho ta!
Bát Giới nghe vậy, nói:
– Hỏng rồi, địch thủ lại đến rồi!
Hành Giả nói:
– Sư phụ hãy gói “chữ thiện” lại để chúng con dùng đòn hiểm kết liễu đời hắn, mới đi thoát được.

Đường Tăng nghe nói, run rẩy sợ hãi, chưa kịp trả lời, thì Sa Tăng đã rút bảo trượng, Bát Giới vung đinh ba, Đại Thánh múa gậy sắt, nhất tề xông lên, vây chặt lấy Đại Tiên trên không trung, lao vào đánh tới tấp. Trận đấu rất quyết liệt. Có bài thơ làm chứng rằng:
Ngộ Không chẳng biết Đại Tiên,
Đồng Quân Dữ Thế đạo huyền diệu thay!
Thần binh ba món bao vây,
Phất trần một chiếc tung bay oai hùng.
Che sau đỡ trước ung dung,
Đỡ trên gạt dưới vững lòng tự tin.
Trốn đêm sáng lại bắt liền,
Bao giờ mới được lên đường sang Tây.

Ba anh em, mỗi người một loại binh khí cùng xông cả vào đánh. Vị Đại Tiên vung phất trần đón đỡ. Đánh nhau được nửa tiếng, Đại Tiên vung rộng tay áo, lại chụp gọn cả bốn thầy trò, cùng con ngựa, hành lý vào trong tay áo như lần trước, rồi cưỡi mây trở về quán”.
Trong hai lần giao chiến này, Trấn Nguyên Đại Tiên chẳng cần dùng đến vũ khí, chỉ một cây phất trần mảnh nhẹ là có thể ung dung gạt sau đỡ trước, chế ngự ba món vũ khí của Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng. Trong đó, gậy Như Ý vốn là khối thần thiết được Thái Thượng Lão Quân chín lần nấu luyện, pháp lực phi thường. Hai đầu bịt vàng, ở giữa là đoạn ô thiết có khắc hàng chữ “Như Ý Kim Cô Bổng, một vạn ba ngàn năm trăm cân”; có thể tùy tâm dài ngắn, biến hóa vi châm, lại có thể đỉnh thiên lập địa, chống trời chống đất, nhập giang hà hồ hải, khi lũ lụt lại có thể bình định về sau. Bởi vậy, lúc thiên hạ hồng thủy phiếm lạm, Đại Vũ đã đem Kim Cô Bổng đi trị thủy, sau đó ném vào Đông Hải, lấy ý Hải Hà vĩnh viễn cố, từ đó có tên gọi là Định Hải Thần Châm.
Cây đinh ba của Bát Giới cũng có lai lịch phi thường, là thứ binh khí do chính tay Thái Thượng Lão Quân dùng thần băng thiết rèn nên, sau lại được Yết Đế năm phương gia trì. Còn bảo trượng hàng yêu của Sa Tăng nặng 5.048 cân, uy vũ bất phàm. Vậy vì sao ba thứ binh khí rắn chắc nặng nề này lại không đọ nổi cây phất trần vừa mềm vừa nhẹ của Trấn Nguyên Đại Tiên?

Pháp khí của Tiên gia
Trong “Uyên Giám Loại Hàm” cũng có một câu chuyện liên quan đến phất trần như sau: Một ngày, Lã Động Tân thân mang Đồ Long bảo kiếm, lưng đeo hồ lô kim đan, tay cầm phất trần cán ngọc, dùng hình tượng đạo nhân vân du đến bờ Nam sông Hoàng Hà, gặp được Tào Quốc Cữu đến từ Biện Kinh đang muốn đến núi Chung Nam cầu tiên học đạo, lúc đó chuẩn bị lên thuyền qua sông. Lã Động Tân vung phất trần một cái, Tào Quốc Cữu vừa chớp mắt, liền cảm thấy gió thổi qua hai nách của mình, mở mắt ra nhìn thì thấy mình đã bay qua sông Hoàng Hà, rồi đáp xuống bờ Bắc.
Chữ “phất” nghĩa là “phủi, quét”, chữ “trần” nghĩa là “bụi”, cây phất trần vốn là vật dùng để phủi bụi, đuổi muỗi mòng. Giới tu luyện thường gọi thế gian con người là “trần thế”, là “cõi hồng trần”. Các danh sĩ trong lịch sử cũng thường dùng từ “trần” đề miêu tả thế gian, như trong “Tây đô phú” của Ban Cố viết: “Hồng trần bốn phía, mây khói nối liền”; trong “Độ môn tự” của Nguyên Chẩn viết: “Tâm dù hiểu rõ, trần thế khổ bập bùng”.
Như vậy, có thể thấy phất trần trong văn hóa của Đạo gia và Phật gia mang hàm ý phủi sạch bụi trần, dẫn dắt thế nhân buông bỏ dục vọng ô uế, bước trên con đường phản bổn quy chân. Vì thế, cây phất trần là một pháp khí có uy lực vô biên, kết tinh từ công phu tu luyện của các vị Thần Tiên. Uy lực của nó không thể đánh giá qua vẻ bề ngoài mỏng manh mà con mắt thịt nhìn thấy được.
Ở một tầng nghĩa khác, cây phất trần mềm mại tượng trưng cho lòng từ bi, ôn nhu của người tu luyện, đó là đức ‘Thiện’. Đối mặt với các thứ binh khí sắc bén nặng nề cũng như đối mặt với sự đả kích, tấn công, nhục mạ của người đời; khi ấy tâm lương thiện, từ bi có thể bảo hộ người tu luyện, hoá giải hiềm khích oán hờn, biến nguy thành an.
Tương tự, Trấn Nguyên Đại Tiên có thể thâu gọn bốn thầy trò vào tay áo rộng, tay áo rộng biểu tượng cho lòng khoan dung độ lượng, “hữu dung nãi đại” như biển cả. Đó là đức ‘Nhẫn’.
Trấn Nguyên Tử là tổ sư của các địa Tiên, vốn đã rũ sạch thất tình lục dục của người phàm, vậy nên thực ra ông không phải là tức tối Ngộ Không quật ngã cây nhân sâm mà hai lần giao chiến. Ông chỉ muốn thầy trò Đường Tăng ghi nhớ bài học này: rằng đã làm người tu hành thì phải thật thà, không thể nói dối; làm việc cần đường đường chính chính, không được lén lút cửa sau. Đó cũng là chữ ‘Chân’ mà Đạo gia tôn thờ.
Kết thúc câu chuyện, Quán Âm Bồ Tát rưới nước cam lồ hồi sinh cây nhân sâm, Trấn Nguyên Đại Tiên cùng Tôn Hành Giả kết làm anh em. Một mối duyên này được thiện giải, âu cũng nhờ có ‘Chân – Thiện – Nhẫn’ vậy.

(sưu tầm)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Tu Di, Nga Mi và Thái Sơn: Ẩn ý sâu xa mấy ai tỏ tường?

Bạn đọc yêu mến Tây du ký* hẳn ai cũng đều nhớ 500 năm Tôn Ngộ Không bị đày dưới Ngũ Hành Sơn, 500 năm đợi chờ đằng đẵng người đi lấy kinh. Nhưng bạn còn nhớ chăng, có một lần trên đường đến Tây Thiên, Tôn Ngộ Không cũng bị núi đè như thế, đến mức “hai vai đau đớn, máu bảy khiếu phun ra”. Ba trái núi Tu Di, Nga Mi và Thái Sơn bị yêu quái Ngân Giác vận thần thông đè lên vai và đầu Tôn Hành Giả là một ẩn dụ vô cùng sâu sắc.
Tây du ký kể rằng, sau khi được Bát Giới dùng nghĩa khích lệ và cứu thoát Đường Tăng ở nước Bảo Tượng, Tôn Ngộ Không lại trở về cùng hộ tống sư phụ sang Tây Trúc thỉnh kinh. Đến núi Bình Đính, mấy thầy trò đụng độ hai yêu quái tài phép đa mưu là Kim Giác và Ngân Giác. Hai ma vương muốn ăn thịt Đường Tăng nhưng e sợ Tề Thiên Đại Thánh thần thông quảng đại, biết rằng cậy thế bắt không xong, bèn khéo léo lập mưu lợi dụng lòng từ bi của Tam Tạng. Ngân Giác đại vương biến thành một đạo sĩ ngã gãy chân, máu me đầm đìa ngồi ở mé đường, miệng rên ư ử, kêu van cứu mạng. Gặp Đường Tăng, hắn nói dối rằng tối qua đi làm lễ về gặp hổ dữ, sợ quá ngã lăn vào đá nhọn nên mới bị thương, không ngồi được ngựa, bắt Tôn Hành Giả phải cõng. Hồi thứ 33 “Ngoại đạo mê chân tính, Nguyên thần giúp bản tâm” có viết:

“Hành Giả cõng rồi, miệng tủm tỉm nói:

– Đồ ma quái chết tiệt, dám che mắt cả ta sao? Ngươi thử hỏi lão Tôn bao nhiêu tuổi rồi? Những lời trí trá của ngươi chỉ lừa được Đường Tăng, chứ làm sao lừa nổi ta? Ta nhận ra ngươi là yêu quái ở núi này rồi. Ngươi định ăn thịt sư phụ ta hẳn? Sư phụ ta không phải là hạng tầm thường để ngươi ăn thịt đâu. Mà có ăn thịt cũng phải chia nửa già cho lão Tôn đấy nhé!
Yêu quái nghe thấy Hành Giả lẩm bẩm như vậy, bèn nói:
– Sư phụ ạ, tôi là con cái nhà tử tế đi làm đạo sĩ, hôm nay không may, gặp nạn hổ báo, chứ không phải là yêu quái đâu.
Hành Giả nói:
– Nhà ngươi sợ hổ báo, tại sao không đọc kinh Bắc Đẩu?

Tam Tạng đang trèo lên mình ngựa, nghe thấy thế mắng luôn:
– Con khỉ hỗn láo kia! “Cứu một mạng người, còn hơn xây bảy cấp phù đồ”, nhà ngươi cứ việc cõng là cõng, còn nói lôi thôi “kinh Bắc Đẩu”, “kinh Nam Đẩu” làm gì!
Hành Giả nghe vậy nói:
– Nhà ngươi, gặp may đấy! Sư phụ ta là người từ bi hiếu thiện, lại hơi có tính thích sĩ diện bề ngoài, ta mà không cõng, người sẽ mắng ta ngay, ừ, cõng thì cõng, nhưng ta giao hẹn thế này: nếu mót đi ỉa, đi đái thì phải bảo cho ta biết, chứ đừng đái ướt đầm trên lưng ta, khai không chịu nổi, mà bẩn cả quần áo không ai giặt được.
Yêu quái nói:

– Tôi ngần này tuổi đầu lại không hiểu câu nói của ngài hay sao?
Lúc ấy Hành Giả mới đỡ yêu quái dậy, cõng trên lưng, cùng Đường Tăng, Sa Tăng tiếp tục theo đường cái sang phương Tây. Những chỗ đường gồ ghề khấp khểnh, Hành Giả cố ý đi chậm, để Đường Tăng đi trước.
Đi được chừng vài dặm, sư phụ và Sa Tăng đi khuất vào thung lũng, không nhìn thấy, Hành Giả trong lòng oán trách nói:
– Sư phụ ngần ấy tuổi đầu mà vẫn không hiểu sự đời. Đường thì xa, đến vác cái xác còn không xong lại còn bắt mình cõng cái con yêu quái này! Chẳng biết hắn là yêu quái hay người tử tế, nhưng đến cái tuổi này thì chết cũng đáng rồi. Quẳng hắn cho chết quách đi, cõng làm gì!
Đại Thánh đang nghĩ mẹo quẳng yêu quái đi, nhưng yêu quái đã biết trước, hắn lại biết cả phép thuật “dời non chuyển biển”, cứ việc ngồi trên lưng Hành Giả bắt quyết niệm chú, đưa cả tòa núi Tu Di lên không trung đè xuống ép Hành Giả, Hành Giả sợ quá, vội vàng nghiêng đầu sang một bên, để cho ngọn núi đè lên vai trái, rồi cười nói:

– Con trai của bố ơi, con định dùng phép làm nặng thân để đè lão Tôn đấy hử? Cái trò đó sợ quái gì, có điều “gánh đều thì dễ đi, gánh lệch thì vất vả” một tý thôi.
Yêu quái nói:
– Một quả núi đè hắn không xong!
Bèn lại niệm chú bốc cả trái núi Nga Mi lên không trung rồi cho đè xuống Hành Giả. Hành Giả lại nghiêng đầu sang một bên, để cho trái núi đè xuống vai phải. Bạn xem, Hành Giả gánh cả hai trái núi đi như bay đuổi theo sư phụ. Yêu quái thấy thế sợ quá, mồ hôi vã ra như tắm, nói:
– Hắn gánh được cả núi!
Đoạn lấy lại tinh thần, tiếp tục niệm chú bắt quyết, bốc bổng trái núi Thái Sơn lên không trung cho đè xuống người Hành Giả. Đại Thánh sức yếu gân mềm lại bị yêu quái làm phép đè cả trái núi Thái Sơn xuống đầu, khiến cho hai vai đau đớn, máu bảy khiếu phun ra.
Yêu quái vận dụng thần thông đè chặt Hành Giả, rồi cưỡi trên luồng gió mạnh đuổi theo Đường Tam Tạng. Hắn đứng trên đám mây, thò tay xuống quắp ngay lấy Tam Tạng.

Lại nói chuyện Hành Giả bị yêu quái dùng phép ép chặt dưới chân núi, gặp hoạn nạn lòng càng nhớ tới sư phụ, bèn cất tiếng than thở:
– Sư phụ ơi, nghĩ tới lúc thầy đến núi Lưỡng Giới, bóc đạo bùa, cứu thoát con khỏi nạn lớn, đi theo đạo Sa Môn, được Bồ Tát ban cho pháp chỉ, thầy trò cùng tu hành, cùng duyên nghiệp, cùng trí kiến, có ngờ đâu đi tới chốn này, gặp ma chướng, bị chúng dời núi đè chặt. Hỡi ôi, thầy chết đã đành, lại khổ thêm cả một lũ Sa Tăng, Bát Giới, và Tiểu Long hóa ngựa nữa! Thật là “cây đón gió bị gió rung cây, người tham danh bị danh vùi xác!”.
Thở than rồi, nước mắt ròng ròng như mưa”.

Lời than thở của Tôn Ngộ Không thật xót xa mà thâm thuý biết bao! Người xưa thường nói “Tâm viên ý mã”, ví tâm con người nhảy nhót lăng xăng như khỉ, nên Ngộ Không là hình tượng hoá của cái tâm của Đường Tam Tạng. Tôn Ngộ Không bị ba trái núi đè chặt, một tầng hàm nghĩa có lẽ là cái tâm của người tu luyện bị chấp trước đè nặng, không bước đi nổi nữa rồi. Mà chấp trước này là chấp trước vào danh, cái tâm cầu danh, tham danh khiến mỗi bước đi trở nên nặng nề chậm chạp, thân thể nội thương, thậm chí còn mất mạng.
Con người ta sống trên thế gian không nằm ngoài ba chữ danh, lợi, tình, tất tả ngược xuôi một đời cũng chỉ vì ba chữ ấy. Làm người tu luyện, Đường Tăng không màng quan tước, giàu sang, cắt đứt dục tình, nhưng ông lại khó nhận ra cái tâm tham danh ẩn hình sau ý muốn làm việc thiện. Làm việc thiện thì được tiếng là hiền lương, được người đời kính phục, đó cũng là truy cầu kín đáo của không ít người hành thiện.
Chu Tử Gia Huấn có câu: “Làm thiện muốn người ta thấy, điều thiện ấy không thực. Làm ác sợ người ta biết, điều ác ấy thực to”. Giúp người, bố thí… làm điều tốt đến đâu mà còn muốn được người khác biết, cảm ân mang đức đối với mình, thì cái đó chỉ là giả thiện. Mà đã là giả thiện thì không có công đức, cũng chẳng thể đề cao cảnh giới, không thể được Thiên Thượng phù hộ độ trì.
Sau này, trước lúc gặp nạn ở sông Thông Thiên, khi nhìn thấy đoàn người tấp nập vượt sông buôn bán, Đường Tăng nói: “Việc đời chỉ có danh lợi là tối trọng. Bọn họ chỉ vì lợi mà liều chết quên sống. Thầy trò tôi vâng mệnh vua giữ vẹn lòng trung cũng là vì danh. So với họ cũng chẳng khác nhau mấy tý”. Chứng tỏ ông đã nhận ra được chấp trước, sơ hở của mình. Vì tâm danh này mà Đường Tăng nôn nóng vượt sông, cuối cùng bị yêu quái phá băng, vùi thân dưới dòng nước lạnh. Quả như Tôn Ngộ Không than thở: “Cây đón gió bị gió rung cây, người tham danh bị danh vùi xác!”.
Tây du ký nói về hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng, thực ra cũng là hành trình diệt trừ ma tính của người tu luyện. Mỗi một yêu quái xuất hiện trên hành trình là đối ứng với một chủng tâm chấp trước cần buông bỏ. Nên trong tác phẩm có bài thơ rằng:
Một niệm nảy sinh đấy vạn ma,
Tu trì vất vả khó khăn là.
Đã đành tắm gội không vương bụi.
Vẫn phải dày công khổ luyện mà.
Quét sạch vạn duyên về cõi tịch,
Diệt phăng nghìn quái chẳng buông tha.
Rồi đây thoát khỏi vòng vây hãm,
Viên mãn bay lên cõi Đại La.

Cố sự Tôn Ngộ Không cõng núi trên đây là ẩn dụ sâu sắc cho người tu luyện cõng trong tâm chấp trước vào danh, vào thể diện. Tu tâm hành thiện mà còn dính mắc vào danh, thì chỉ cần bị người khác đả kích hoặc thờ ơ, không được nghe nhiều lời khen tặng cảm ơn, ắt sẽ nảy sinh tâm lý chán chường, mệt mỏi. Tâm tham danh nhìn ở không gian khác chính là những trái núi to lớn, đè chặt người tu luyện, khiến họ không thể tinh tấn tiến về viên mãn. Chỉ có vứt bỏ chấp trước vào danh, giữ một trái tim trong sáng vô dục vô cầu mà hành thiện, thì bước đi mới có thể nhẹ nhàng thông thuận.
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Vì sao Phật Tổ ‘bắt’ Đường Tăng trải qua 81 nạn mới chịu ban chân kinh?

Năm nào vâng mệnh thánh quân,
Quê hương từ biệt rời chân cõi ngoài
Sáng trèo non đón gió trời,
Chiều về gối đá ngủ nơi mây mù.
Gói khăn nghìn dặm xông pha,
Đường xa lặn lội biết là bao năm.
Sắt son quyết chí cầu kinh,
Như Lai yết kiến thỏa tình từ đây.

Trải qua bao nhiêu lần nóng lạnh, kể sao hết những nếm gió nằm sương, thầy trò Đường Tăng vượt qua 81 nạn mới thỉnh được chân kinh, về phương Đông hồng dương Phật Pháp. Độc giả yêu mến Tây du ký* đã bao giờ tự hỏi, vì sao thầy trò Đường Tăng phải nếm trải đủ 81 nạn mới được ban chân kinh? Vì sao Phật Tổ không ngay từ đầu lệnh cho Bồ Tát Quán Âm mang kinh tạng đến Trường An để chúng sinh sớm đắc độ?
Bản thân Tôn Ngộ Không cũng từng băn khoăn về điều này.

Ở hồi thứ 77 “Yêu ma lừa bản tính, Nhất thể bái chân như”,

mấy thầy trò gặp đại nạn ở thành Sư Đà. Khi nghe tin Đường Tăng đã bị yêu quái ăn thịt, Ngộ Không “rầu rĩ thê thảm, suy nghĩ trước sau, lòng tự hỏi lòng:

– Việc này là Đức Phật Như Lai ở cõi cực lạc, do nhàn rỗi chẳng có việc gì mà làm, mới viết ra bộ kinh Tam Tạng đây mà! Nếu Đức Phật có lòng khuyến thiện, thì lẽ ra phải đưa sang phương Đông, lại không lưu truyền muôn thuở sao? Đằng này không chịu đưa sang, lại bắt bọn ta phải đến lấy, có biết đâu phải vất vả gian nan trèo đèo lội suối để rồi tới đây bỏ mạng! Thôi! Thôi! Lão Tôn phải dùng phép cân đẩu vân tới gặp Như Lai nói rõ đầu đuôi. Ngài mà chịu đưa kinh cho ta mang về phương Đông thì một là thiện quả được ghi công, hai là bọn mình cũng thỏa lòng. Nếu ngài không đưa cho mình, thì mình bảo ngài niệm “túng cô nhi chú”, cởi chiếc vòng ra, mình trả lại cho ngài rồi trở về bản động xưng vương xưng bá, ăn chơi thỏa thích”.
Vậy Đức Phật có thật do “nhàn rỗi” mà bảo Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh không? Điều này trong Tây du ký, hồi thứ tám “Phật tổ tạo kinh truyền cực lạc, Quan Âm vâng mệnh đến Tràng An” đã có lời giải đáp.
“Như Lai giảng pháp xong, lại nói với mọi người rằng:
– Ta xem trong bốn đại bộ châu, chúng sinh thiện ác có khác nhau: Người Đông Thắng Thần Châu tôn trời kính đất, tâm khí thanh sảng. Người Bắc Câu Lư Châu tính thích sát sinh, ăn nói hồ đồ, tình sơ tính vụng; chẳng được việc gì. Người Tây Ngưu Hạ Châu thì không tham không giết, dưỡng khí nuôi thần, tuy chưa được vào bậc thượng chân, nhưng mọi người được hưởng thọ. Duy có người Nam Thiệm Bộ Châu tham dâm gây họa, hay giết hay tranh, chính là nơi đánh nhau cãi cọ, ác độc thị phi. Nay ta có ba tạng chân kinh có thể khuyên họ làm việc thiện.
Các vị Bồ tát nghe nói chắp tay đảnh lễ, bước tới gần tòa sen hỏi rằng:

– Phật tổ có ba tạng chân kinh nào?
Như Lai đáp:
– Ba tạng chân kinh của ta, một là Pháp tạng, bàn về trời; hai là Luận tạng bàn về đất; ba là Kinh tạng độ cho ma quỷ. Ba tạng gồm ba mươi lăm bộ, cả thảy một vạn năm nghìn một trăm bốn mươi quyển. Đó là kinh tu luyện chân tâm, cửa vào cõi thiện, mà ta muốn truyền sang phương Đông. Khốn nỗi chúng sinh nơi đó ngu xuẩn hủy báng chân ngôn, không biết yếu chỉ trong pháp môn của ta, coi thường cả chính tông du già. Nay làm sao có được một người có pháp lực sang phương Đông tìm một thiện tín, bảo người ấy chịu đựng gian khổ, vượt qua muôn núi nghìn sông, đến chỗ ta cầu lấy chân kinh, để lưu truyền bên phương Đông mãi mãi, khuyến hóa cho chúng sinh, thì đó là một phúc duyên cao rộng như núi, việc thiện sâu như bể vậy đó. Có ai dám chịu đi một chuyến không?
Khi ấy, Quan Âm bồ tát bước tới gần đài sen, lạy Phật tổ ba lạy, rồi nói:
– Đệ tử bất tài, xin sang phương Đông tìm người lấy kinh”.

05-ngoisao-vn-w580-h387.jpg

Lời của Phật Tổ đã làm rõ một điều: Ba tạng chân kinh chính là để khuyến hoá chúng sinh, khuyên làm việc thiện, chỉ đạo tu luyện chân tâm. Hiềm một nỗi chúng sinh nơi đó ngu xuẩn, hủy báng chân ngôn, coi thường chính giáo, nên mới cần một bậc thiện tín chịu đựng gian khổ, cầu lấy chân kinh. Nếu như kinh Phật dễ dàng có được, bày bán đầy đường, thì chúng sinh tối tăm ngu muội sẽ không biết trân quý, coi kinh Phật cũng chỉ như con cá mớ rau. Như vậy, Đường Tăng phải trải qua 81 nạn mới thỉnh được chân kinh, lý do thứ nhất chính là để chúng sinh phương Đông thấu hiểu sự trân quý vô vàn của Phật Pháp.
Quả vậy, trong hồi thứ 64 “Núi Kinh Cức Ngộ Năng gắng sức, Am Mộc Tiên Tam Tạng làm thơ”, khi được thỉnh giáo về Thiền Pháp, Đường Tăng đã nói với ba ông già mộc tinh rằng: “Than ôi, nhân thân khó thành, Trung thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp. Trọn vẹn được cả ba điều ấy thì may mắn nào bằng”. Sau này khi Đường Tăng đem được chân kinh về bản quốc, Hoàng đế Đường Thái Tông nghe kể về nỗi gian nan của hành trình thỉnh kinh cũng cảm thán khôn nguôi.
Chữ Kinh 經 trong tiếng Hán ngoài ý nghĩa là kinh Phật, kinh điển, đạo lý bất di bất dịch, còn có một nghĩa nữa là chịu đựng, nếm trải, kinh qua. Ví như “kinh đắc khởi khảo nghiệm” (經得起考驗) nghĩa là đã chịu đựng được thử thách. Chữ Kinh 經 này bên trái là bộ Mịch (糹: sợi tơ nhỏ), bên phải là chữ Nhất (一 : một), bộ Xuyên (巛: sông) và chữ Công (工: công trình), khiến ta liên tưởng tới hình ảnh một người trải một phen gian khổ, vượt muôn núi nghìn sông, cắt đứt hết những sợi tơ lòng phiền não, cuối cùng viên mãn thành công.
Chúng ta đều biết, Đường Tăng trải qua đủ 81 nạn, thỉnh được chân kinh mang về phương Đông, tuy chưa đọc những kinh sách ấy nhưng đã tu thành chính quả, được Phật Tổ phong chức Chiên Đàn Công Đức Phật. Hay như Tôn Ngộ Không, dọc đường chẳng mở sách tụng kinh bao giờ, cuối hành trình cũng đã thành Đấu Chiến Thắng Phật. Thế mới biết, cuốn “Kinh” chân thật mà thầy trò Đường Tăng đã thỉnh được có lẽ chính là hành trình đằng đẵng vượt trùng nan, vào sinh ra tử, trải hết đắng cay ngọt bùi, kiên định chính tín vào Phật Pháp. Nhờ kinh qua khổ nạn mà người tu luyện diệt trừ ma chướng, gội rửa bụi lòng, buông bỏ chấp trước, tìm lại được bản tính thuần chân, thuần thiện. Như trước núi Bình Đính cao vòi vọi, Tôn Ngộ Không đã từng nói với sư phụ rằng:
“Trong tâm quét sạch bẩn
Bên tai rửa bụi trần.
Không nhận điều đau khổ
Khó làm bậc thượng nhân”.

*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Đường Tăng tu thành Phật, Trư Bát Giới không thành, chỉ bởi sai khác một niệm này.

Xuất gia lập chí phi thường,
Ái ân rũ sạch mọi đường xưa nay.
Ngoại vật coi nhẹ, nhàn thay
Âm dương vũ trụ đủ đầy trong ta.

Kết thúc hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh, cả Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đều tu thành Phật quả; Sa Tăng thành La Hán Mình Vàng; duy có Trư Bát Giới chỉ được làm Tịnh Đàn Sứ Giả. Tây du ký*, hồi thứ 100 có viết:
“Bát Giới miệng lầu bầu:

– Mọi người đều thành Phật, tại sao chỉ mỗi mình con là Tịnh Đàn Sứ Giả?
Như Lai nói:
– Tại nhà ngươi ăn khỏe tính lười, dạ dày to lắm. Mà khắp bốn đại bộ châu trong thiên hạ, những nơi ngưỡng mộ đạo ta rất nhiều, phàm các việc Phật, ta giao cho nhà ngươi làm tịnh đàn, cũng là một chức phẩm có được ăn uống, sao lại không tốt?”.
Kỳ thực, ngay từ thuở ban đầu Trư Bát Giới gặp Đường Tăng, kết quả này đã phần nào có thể tiên đoán rồi. Trong hồi thứ 19 “Động Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới/ Núi Phù Đồ, Tam Tạng nhận Tâm Kinh”, khi sửa soạn cùng sư phụ và đại sư huynh lên đường sang Tây, Bát Giới còn dặn dò “bố vợ” đôi điều.
0.jpg

“Bát Giới xúng xính dạ một tiếng rồi nói với Cao lão:

– Con gửi lời chào nhạc mẫu và mọi người thân thích trong nhà. Hôm nay con đi làm hòa thượng không kịp chào hỏi tạm biệt, xin đừng trách cứ. Về phần nhạc phụ, con mong nhạc phụ trông nom vợ con chu đáo. Nếu công việc lấy kinh không thành, thì còn sẽ hoàn tục về đây, lại làm con rể của nhạc phụ và sinh sống như trước.
Hành Giả quát luôn:
– Đồ khốn, chớ có ăn nói hồ đồ như thế!
Bát Giới nói:
– Không phải hồ đồ đâu. Chỉ sợ nhất thời lỡ xảy ra điều gì thì hỏng cả việc làm hòa thượng, hỏng cả việc lấy vợ, xôi hỏng bỏng không thì sao?”.

Ôi, Bát Giới thật khéo “lo xa”! Cái lo xa ấy thực ra là một tay với đến Thần Phật, tay kia lại níu giữ những thứ người thường không buông. Chí nguyện, quyết tâm của Bát Giới còn dùng dằng như vậy, sao có thể thành chính quả?
Vì một tay còn níu người thường, nên dọc đường hễ gặp cảnh cùng khốn, Bát Giới lại nản lòng, bàn lùi, muốn chia hành lý để quay lại cuộc sống phàm tục. Ví như khi sư phụ gặp nạn tại nước Bảo Tượng, bị yêu quái Hoàng Bào nhốt trong hình hài hổ, cả Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã đều không địch nổi, Ngộ Không lại bị sư phụ đuổi đi rồi. Bát Giới nói với Tiểu Long rằng: “Chú còn đi được thì xéo về biển cho rảnh, còn tôi gánh hành lý trở về Cao Lão trang làm rể như trước” (Trích hồi thứ 30).

Luôn có một “phương án dự phòng” như vậy, nên Bát Giới không thể toàn tâm toàn ý tu luyện, không thể nỗ lực hết sức đột phá trở ngại khó khăn.
Đường Tăng thì hoàn toàn ngược lại. Trước khi từ biệt hoàng đế Đại Đường, pháp sư Huyền Trang đã nói: “Chuyến đi này, thần xin cố gắng quên mình, đến tận Thiên Trúc. Nếu không sang tới nơi, không thỉnh được chân kinh, thần xin chết, không dám trở về nước, mãi mãi chịu đắm chìm nơi địa ngục”.
Đường Tăng nói vậy không phải vì ông nắm chắc thành công mà mạnh miệng, mà chính là ông quyết dâng hiến trọn đời mình. Khi đồ đệ của Huyền Trang ở chùa Hồng Phúc nói: “Thưa sư phụ, người ta nói rằng phương Tây xa lắm, lại nhiều hổ báo yêu ma, chỉ sợ có đi không về, khó toàn tính mạng”, thì ông trả lời rằng:
“– Ta đã phát lời nguyền, nếu không thỉnh được chân kinh thì đắm chìm vào địa ngục mãi mãi. Ta đã chịu ơn sâu nặng của nhà vua, không thể không tận trung báo quốc. Chuyến đi này thật mênh mông mờ mịt, lành dữ chưa biết trước được.

Huyền Trang lại nói thêm:
– Các đồ đệ này, sau khi ta đi rồi. Hoặc hai ba năm, hoặc dặm bảy năm, nếu thấy những cành tùng trước cửa hướng về phía Đông, là ta về đấy. Bằng không là vĩnh viễn không trở lại”.
Đem so với lời dặn dò “cha vợ” của Trư Bát Giới, cảnh giới tâm tính quả là một trời một vực.
Khi Đường Tăng bắt đầu hành trình thỉnh kinh, còn chưa vượt khỏi biên giới Đại Đường, dừng chân ở chùa Pháp Môn. Tây du ký, hồi thứ 13 viết:
“Dưới ánh đèn, các sư ngồi trò chuyện việc pháp sư vâng chỉ sang phương Tây lấy kinh. Người nói đường xa thăm thẳm, đường lắm hùm beo; kẻ nói non cao vách dựng khó qua, nước độc ma thiêng khó vượt. Tam Tạng chỉ ngồi im không nói, lấy tay chỉ vào tim, gật đầu mấy cái. Các nhà sư không hiểu ý, chắp tay hỏi:
– Pháp sư chỉ tay vào tim, gật đầu mấy cái nghĩa là thế nào?
Tam Tạng đáp:
– Tâm sinh thì ma quỷ đều sinh. Tâm diệt thì ma quỷ cũng diệt. Ở chùa Hóa Sinh, trước bàn thờ Phật tôi đã nguyện rồi, đâu có dám không hết lòng. Chuyến đi này, tôi quyết sang đến tận phương Tây, lễ Phật cầu kinh, để bánh xe đạo pháp của chúng ta chuyển vận, để non sông của đức vua vững bền mãi mãi”.
Đường Tăng là người trần mắt thịt, không có năng lực dời non lấp biển như các đồ đệ, cũng chẳng có mắt thần nhìn rõ yêu ma, thế nhưng cuối cùng ông lại đắc chính quả, là Chiên Đàn Công Đức Phật. Phải chăng chính vì trái tim thuần khiết dành cho tu luyện, chí nguyện son sắt không sờn ấy?
Quả đúng là:
Tám mươi mốt nạn tai ương trọn,
Dựng cơ huyền, chí hướng sắt son.
Ma lui là bởi lòng bền,
Muốn thành chính pháp phải nên tu trì.
Chớ bảo lấy kinh kia là dễ,
Công thánh tăng chịu khổ xiết bao.
Xưa nay hòa hợp tuyệt sao!
Một ly sai biệt kết nào nổi đan!
Ảnh: Phim “Tây Du Ký” 1986.
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Vì sao sau bao năm thỉnh kinh thầy trò Đường Tăng không mắc bệnh?

Có lẽ khi xem Tây Du không ít người có nghi vấn: Vì sao bao nhiêu năm đi thỉnh kinh thầy trò Đường Tăng không mắc bệnh? Sau khi xem kỹ lại một lượt, xuyên suốt tác phẩm Tây Du Ký, thầy trò Đường Tăng chỉ mắc ‘bệnh’ ba lần. Một lần là Tôn Ngộ Không, một lần là Bát Giới và sau cùng là Đường Tăng. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem người tu luyện đối đãi với vấn đề này như thế nào?
Tại hồi thứ 21:
Hộ Pháp dựng nhà lưu Đại Thánh; Tu Di Linh Cát bắt yêu ma
Ngộ Không bị Hoàng Phong Quái thổi gió vàng Tam Muội Thần Phong khiến mắt bị mù, sau may mắn gặp được Hộ Pháp Già Lam hóa thành cụ già ra tay cứu chữa. Ngộ Không và Bát Giới gặp Hộ Pháp Già Lam biến thành cụ già, hai huynh đệ họ xin tá túc nhờ một đêm rồi hỏi thăm trong vùng có ai bán thuốc đau mắt hay không?
Cụ già hỏi: “Là vị nào đau mắt phải không?”.
Ngộ Không đáp: “Chẳng giấu gì cụ, chúng tôi là người xuất gia, xưa nay không bệnh tật, giờ không hiểu sao lại đau mắt”.
Cụ già nói: “Nếu không đau mắt thì hỏi thuốc làm gì?”.
Hành Giả thưa: “Hôm nay, khi chúng tôi cứu sư phụ ở cửa động Hoàng Phong, không ngờ bị yêu quái thổi gió, làm mắt tôi cay sè đau đớn, nước mắt giàn giụa, nên tôi phải tìm thuốc”.

Tại hồi 55: Dâm tà bỡn cợt Đường Tam Tạng; Đứng đắn tu trì chẳng hoại thân.
Bốn thầy trò Đường tăng gặp sông Mẫu Tử, Bát Giới uống phải nước sông nên bị đau bụng, Ngộ Không đi cầu cứu Mão Nhật tinh quan tới để hàng yêu, Sa Tăng nhìn thấy nói: “Nhị sư huynh dậy đi, đại sư huynh đã mời Tinh quan về kìa”.
Bát Giới môi vẫn sưng vều nói: “Xin tha tội, tha tội! Trong người có bệnh không làm lễ được”. Tinh quan nói: “Ngài là nhà tu hành còn có bệnh gì?”.
Bát Giới nói: “Sớm nay đánh nhau với nữ quái, bị nó đốt một phát vào môi, giờ vẫn còn buốt”.
Như vậy là Mão Nhật tinh quan cũng khẳng định là người tu luyện thì không có bệnh, chỉ có điều Bát Giới ngộ tính chữa đủ, tự nhận đó là bệnh.
Tại hồi 81: Chùa Trấn Hải, Ngộ Không biết quái; Rừng Hắc Tùng, đồ đệ tìm thầy
Lần này là Đường Tăng gặp nạn. Hôm ấy Đường Tăng cảm thấy đầu nhức mắt hoa, mình mẩy đau nhừ. Ngộ Không hỏi thăm. Đường Tăng đáp: “Quãng nửa đêm ta dậy đi giải, không đội mũ chắc là bị cảm gió”. Đường Tăng khi đó “ngồi dậy không được”, như vậy có thể thấy ‘bệnh’ không nhẹ.
Đường Tăng liên tiếp bị ‘bệnh’ ba ngày, tình trạng không thuyên giảm, mà còn có chiều hướng ngày càng nặng. Bản thân Đường Tăng cảm giác như sắp chết, thậm chí còn sai Ngộ Không chuẩn bị giấy mực để viết ‘di thư’. Khi ấy Đường Tăng thật sự xem mình là đang mắc bệnh. Với thử thách này, Đường Tăng cũng không ngộ ra đây cũng là quan nạn mà cho rằng nó là bệnh của người thường.
Bát Giới thấy bệnh tình của sư phụ có vẻ không ổn liền đòi phân chia hành lý: “Chúng ta nên sớm bàn bạc, trước bán con ngựa sau bán hành lý rồi mua lấy cỗ áo quan chôn cất sư phụ, sau cùng ai nấy chia tay”.
Chỉ có Ngộ Không thần thông quảng đại, biết được căn nguyên Đường Tăng bị bệnh. Ngộ Không nói: “Chú ngốc lại nói bậy rồi! Chú không bіết sư phụ là đồ đệ thứ hai của Phật Như Lai, tên gọi Kim Thiền tử, chỉ vì khinh mạn Phật pháp, nên mới mắc phải hoạn nạn lớn này đấy”.

Bát Giới nói: “Sư huynh ơi, sư phụ đã khinh mạn Phật pháp, bị đày xuống phương Đông, chìm trong biển thị phi, đắm trong trường khẩu thiệt, đầu thai thành thân người, phát nguyện sang phương Tây bái Phật cầu kinh, gặp yêu tinh bị trói, gặp ma quái bị treo, chịu biết bao cực khổ đã đủ lắm rồi, tại sao còn bắt người mắc bệnh nữa?”.
Ngộ Không nói: “Chú đâu có hiểu được! Vì sư phụ không nghe Phật giảng pháp, ngồi ngủ gật, ngã nhào người, chân giẫm phải một hạt gạo, nên xuống hạ giới phải bị ốm mất ba ngày”.
Sang đến ngày thứ ba, Đường Tăng liền cảm thấy khát nước, uống ngụm nước mát, ‘bệnh’ tình liền khỏi một nửa. Đường Tăng bê bát nước lên miệng, vừa mới hít vào một hơi thì tưởng chừng như mỗi giọt nước mà một giọt cam lộ, nước vào bệnh ra. Đến khi thời hạn ba ngày vừa hết, thời gian tiêu nghiệp cũng vừa xong, mọi việc đúng như lời Ngộ Không nói, không cần dùng thuốc, một bát nước cũng đủ cho ‘bệnh’ tình của Đường Tăng khỏi.
Từ ba câu chuyện trên chúng ta có thể thấy: Hoá ra người tu luyện vốn dĩ không có bệnh. Một người khi đã bước chân vào con đường tu luyện chân chính thì từ một số phương diện nào đó đã vượt khỏi người thường rồi. Và ở đây, ‘bệnh’ là một trong số đó.
Con người khi sinh ra tại thế gian này đều phải đối diện vấn đề sinh lão bệnh tử, còn người tu luyện mục tiêu chính là siêu thoát khỏi sinh tử luân hồi, vượt khỏi giới hạn sinh lão bệnh tử chế định trên con người. Tuy khi mới bước vào con đường tu luyện không thể một bước thăng thiên, giải quyết vấn đề sống chết, nhưng có thể rất nhanh chóng giải quyết được vấn đề già và bệnh.
Một người sau khi bước lên con đường tu luyện chân chính sẽ không còn mắc ‘bệnh’ nữa, đối với công pháp tính mệnh song tu chân chính cũng sẽ giải quyết luôn vấn đề lão hoá của người ta, nghĩa là có thể đạt đến mức độ “trường xuân bất lão”. Cùng với thời gian, người tu luyện đề cao tầng thứ càng cao thì cơ thể càng trở lên trẻ lại, cải lão hoàn đồng. So với người cùng tuổi thì hiển nhiên trẻ hơn rất nhiều, khi đến một mức độ nào đó sẽ cố định lại mãi mãi trạng thái ấy, sẽ không già đi nữa, đạt được trạng thái mà con người thế nhân luôn hằng mong ước đó là thanh xuân trường tồn.
Đương nhiên điều mà chúng ta nói đến ở đây không phải là khí công thông thường, khí công luyện tới luyện lui cũng chỉ là hết bệnh khỏe người, còn điều chúng ta đang nhắc đến là khí công tu luyện chân chính. Mặc dù người tu luyện chân chính không còn mắc bệnh nhưng trong quá trình tu luyện sẽ phải đối diện với một loại ma nạn, nhìn bề ngoài thì giống hệt như người thường mắc bệnh. Ở đây người tu luyện gọi là “Nghiệp bệnh”. Thông qua loại chịu khổ này, người ta sẽ hoàn trả những nợ nghiệp trước đây mình gây ra.
Năm xưa Phật Tổ giảng Pháp, Đường Tăng chỉ vì vô ý trong lúc ngủ gật, giẫm phải một hạt gạo mà phải chịu đại nạn ba ngày. Có thể thấy, một người bình thường trong đời đã tạo ra nợ nghiệp lớn đến nhường nào. Chẳng thế mà Phật gia từng giảng rằng: “Con người sống là có tội”. Nếu như không bước trên con đường tu luyện thì mãi mãi chẳng thể hoàn trả nợ nghiệp. Vì nợ nghiệp tích tụ ngày càng nhiều, có thể ví rằng cao như núi vậy, nên nếu phải trả hết số nợ nghiệp nhiều đến thế thì thực sự không phải chết đi sống lại biết bao nhiêu lần.
Chúng ta thử nghĩ, một hạt gạo đã đủ khiến cho Đường Tăng chịu nghiệp sống không bằng chết ba ngày thì một đời chúng ta ăn uống tiêu dùng hoang phí biết bao nhiêu? Vậy nên chỉ có con đường tu luyện mới có thể trả được nợ nghiệp mà chúng ta đã đời đời kiếp kiếp gây ra. Nói là trả nhưng thực chất ở đây phần nhiều là do sư phụ của pháp môn đó gánh đỡ cho, bản thân đệ tử chỉ chịu một phần rất nhỏ mà thôi. Có như vậy người tu luyện mới có thể tu thành chính quả.
Cũng giống như Đức chúa Giê-su từng phải chịu nạn bị đóng đinh trên cây thập giá để chịu tội thay cho đệ tử của mình. Nhờ ân đức đó mà các đệ tử của Ngài mới thoát khỏi nợ nghiệp. Nếu như Giêsu không chịu thống khổ thay cho đệ của mình thì chưa biết chừng những đệ tử sau này của ông có còn tồn tại được hay không nữa? Có thể đã sớm bị tiêu huỷ rồi…

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây Du Ký: Giải mã bí mật thân thế thầy trò Đường Tăng


Mở đầu Tây Du Ký kể về sự xuất thế của Tôn Ngộ Không – vốn là một con khỉ sinh ra từ tảng đá tiên trên núi Hoa Quả Sơn.
Khi ấy, Hoa Quả Sơn chỉ có một tảng đá tiên duy nhất cao đến ba trượng sáu thước năm tấc, xung quanh rộng hai trượng bốn thước. Chiều cao ba trượng sáu thước năm tấc, hợp với vòng trời ba trăm sáu mươi lăm độ. Xung quanh hai trượng bốn thước, hợp với chính lịch hai mươi bốn khí. Trên có chín khiếu tám lỗ hợp với cửu cung bát quái. Bốn bề không có cây cối rủ bóng. Hai bên phải trái chỉ rặt cỏ chi cỏ lan quấn quýt lấy nhau. Có lẽ từ khi tảng đá mới sinh ra đã bám thụ khí thiêng của trời đất, tinh hoa của mặt trời, mặt trăng đã lâu, nên mới linh thông thế. Bên trong tảng đá chứa đựng một bào thai tiên.
Đây là nguyên lai xuất thế của Tôn Ngộ Không mà trong sách đã kể, nhưng vẫn còn rất nhiều nghi vấn: Tảng đá được gọi là “đá tiên”, vậy ai là người đặt nó ở đấy, hay là từ khi Hoa Quả Sơn mới hình thành, nó đã tồn tại ở đó rồi? Hoặc giả nó cũng giống như tảng đá trong “Hồng Lâu Mộng”, là do Nữ Oa Nương Nương luyện đá vá trời còn sót lại? Xem ra lai lịch của Tôn Ngộ Không cũng chẳng phải tầm thường, ắt hẳn là có điều thâm sâu huyền bí, bởi ngay cả Ngọc Đế vốn là bậc Thần Tiên thấu tỏ càn khôn, nhưng lại không biết được lai lịch xuất thế của nó vậy. Nếu không, nếu chỉ với xuất thân tầm thường, làm sao Ngộ Không có thể tu thành Phật quả?

Lại bàn về tên gọi, họ “Tôn” (孙) gồm chữ “Tiểu” (小) và “Tử” (子) ghép thành, có nghĩa là hài nhi. Đạo gia giảng “Phản bổn quy chân”, Lão Tử giảng “Phục quy ư anh hài”, con người thông qua tu luyện mà quay trở về trạng thái hài nhi thuần khiết, không tà niệm, không mang bất cứ tạp niệm hậu thiên nào.
Chữ “Ngộ” (悟) trong Tôn Ngộ Không chính là nói về sự ngộ Đạo trong khi tu luyện. Chữ “Ngộ” (悟) ở đây lại là sự kết hợp của hai chữ “Ngô” (吾) nghĩa là tôi, là tự thân mình, và chữ “Tâm” (心) ý chỉ tâm tính bản thân. Ở đây ám chỉ rằng: Muốn ngộ được Phật Pháp thì chỉ có thể dựa vào cái tâm của bản thân mình mà thôi.
Lại nói, chữ “Không” (空) vốn được coi là nền tảng của người tu luyện, Phật gia giảng ‘không’, Đạo gia giảng ‘vô’. Chữ “Không” ở đây cũng là điều cao thâm vi diệu, trần gian hư ảo, tuy thật mà lại hư, tuy hư mà lại thật. Hư là bởi thành bại trong đời tất cả đều tựa khói sương, vui buồn hỉ nộ cũng là thứ sáng còn chiều mất. Dẫu mọi thứ chỉ là ảo ảnh trong đời, nhưng nếu như trong vô minh mà hành ác thì nghiệp chướng vẫn phải đền. Vậy nên chỉ có người chân tu ngộ Đạo, ngộ được cái ‘không’ của trời đất thì mới mong tìm được trí huệ, tìm được con đường để trở về Thiên giới.
Thế nhân chìm đắm giữa hồng trần, bị mê hoặc bởi rất nhiều cám dỗ nơi thế tục. Tuy nhiên sinh mệnh con người từ thuở ban sơ là xuất thân tại các tầng cao nơi thiên giới, nhưng bởi một lý do nào đó mà rơi rớt xuống, từng bước, từng bước, lần lần hạ xuống… cuối cùng rớt tới cõi thường nhân này. Hay nói cách khác, con người đều có nguồn gốc từ vũ trụ, từ nơi cao tầng tốt đẹp. Ngoài một số ít là những bậc Giác Giả vì sứ mệnh mà giáng hạ xuống đây, số còn lại thì đa phần đều là phạm phải điều xấu nên nghiệp lực sinh ra mới bị đày xuống làm người. Cũng tựa như Bát Giới, Sa Tăng, hay Đường Tăng vì phạm tội mà phải đến nhân gian vậy. Muốn trở về quê nhà nơi Thiên thượng thì chỉ có một con đường, đó là “Ngộ”, là tu luyện ngộ Đạo để trở về.
Ba thầy trò Đường Tăng .
Không phải ngẫu nhiên mà cả ba đệ tử của Đường Tăng đều có một chữ “Ngộ”: Ngộ Không, Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh. Qua đó có thể thấy trong tu luyện thì ngộ tính là điều vô cùng quan trọng.

Đường Tăng vốn dĩ là đệ tử thứ hai của Phật Tổ Như Lai, tên gọi là Kim Thiền Tử. Chỉ vì ngủ gật không nghe Phật Như Lai giảng thuyết, phạm tội khinh mạn Phật Pháp mà bị phạt đến Đông Thổ, trải qua 10 đời tu luyện nhưng vẫn không thành. Cuối cùng mới có được cơ duyên, được vua Đường uỷ thác đi Tây phương thỉnh kinh, công thành viên mãn, được phong làm Chiên Đàn Công Đức Phật. Đường Tam Tạng là tên do hoàng đế ban cho, bởi đi lấy kinh nên lấy hiệu là ‘Tam Tạng’. Từ tên của Đường Tăng có thể biết: Tây Du chính là một tác phẩm chuyển tải thông điệp của người tu luyện, có liên quan rất mật thiết với vị hoàng đế nhà Đường – Lý Thế Dân.
Chữ “Tam tạng” ở đây, có người lý giải đó là Kinh – Luật – Luận, nhưng đối với nhiều người tu luyện thì đó chính là “Pháp – Luân – Kinh”. Đường Tăng quyết chí đi Tây phương thỉnh kinh đã từng nói với hoà thượng chùa Pháp Vân rằng: “Chuyến đi này, nhất định phải đến Tây Thiên gặp Phật cầu kinh để hồi chuyển pháp luân, nguyện thánh chủ hoàng đồ vĩnh cố”. Ở đây lại nhắc đến tên gọi Kim Thiền Tử trong tiền kiếp của Đường Tăng, quá trình tu luyện của Kim Thiền Tử cũng tựa Kim Thiền thoát xác, thoát bỏ thân phàm mà tu thành chính quả.
Tiếp đến là lai lịch của Trư Ngộ Năng, cũng không kém phần thâm sâu bí hiểm. Tại hồi thứ 19, Bát Giới giới thiệu lai lịch của mình: Từ nhỏ đã ham ăn lười làm, cũng chẳng hề tu luyện, nhưng đột nhiên một ngày gặp được Tiên nhân, được thu làm đệ tử truyền thụ pháp môn Cửu Chuyển Đại Hoàn Đơn. Thông qua tu luyện mà đạt được cảnh giới Tam Hoa Tụ Đỉnh, Ngũ Khí Triều Nguyên, công thành viên mãn bay về thiên cung, được Ngọc Đế phong làm Thiên Bồng Nguyên Soái. Bát Giới đã sớm đắc Đạo thành Tiên, đồng thời còn có chức vị trên thiên cung. Nhưng chỉ vì không đạt được chính quả, tâm phàm chưa bỏ nên sau khi uống rượu đã trêu ghẹo Hằng Nga mà bị đày xuống hạ giới, phải mang thân hình xấu xí. Sau này Bát Giới may mắn được Bồ Tát khuyến thiện phò tá Đường Tăng, được phong làm Tịnh Đàn sứ giả.

Sa Ngộ Tĩnh sinh thời có thế gia là con nhà võ, đương thời cũng là một nam tử hán anh hùng, chu du tứ hải mong tìm kiếm được minh sư học Đạo, cuối cùng may mắn gặp được Chân Nhân, học được pháp môn tu luyện. Sau khi tu thành, được Ngọc Hoàng phong làm Quyển Liêm Đại tướng. Tiếc thay sau này lỡ tay làm vỡ chiếc ly ngọc mà bị giáng xuống hạ giới sống ở đáy sông Lưu Sa, cuối cùng cũng lại được Bồ Tát khuyến thiện quy y cửa Phật, bảo vệ Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh, công thành viên mãn làm Kim Thân La Hán.
Bạch Long Mã vốn là con của Long Vương Tây Hải, do phạm tội đốt điện Minh Châu nên bị coi là nghịch tử, sau được Bồ Tát cứu độ, biến thành Bạch Mã, phò tá Đường Tăng sang Tây Trúc, được phong làm Bát Bộ Thiên Long.

Thầy trò Đường Tăng, ngoài Ngộ Không ra thì cả bốn người còn lại đều xuất thân từ Thần Tiên trên tiên giới, điều ấy hoàn toàn đúng với bốn câu thơ của tác giả Minh Tịnh:
“Sinh mệnh vốn là tiên thiên thượng
Thành bại trong đời mây khói bay
Thị phi vốn là ân oán trước
Đắc Pháp tỉnh mộng về cố hương”…

Con người sinh ra trong cõi hồng trần vốn là để hoàn trả nợ nghiệp và tìm kiếm cho mình cơ hội đắc Pháp, trở về nơi cố hương Thiên thượng. Tây Du Ký chính là tác phẩm điểm hoá cho con người thế nhân đừng quên đi mất bản chất tiên thiên của mình.
Vũ Minh
Theo Chánh Kiến


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Yêu quái giả dạng Phật Tổ: Lời tiên tri trong Tây Du Ký phải chăng đang thành hiện thực?


Yêu quái giả dạng Phật Tổ: Lời tiên tri trong Tây Du Ký phải chăng đang thành hiện thực?


Những người này tuy cạo đi tóc râu, khoác áo cà sa, nhưng huỷ phá giới cấm, hành xử không theo Pháp, là tỳ kheo giả. Nhìn lại một số ngôi chùa ngày nay, phải chăng có thể bắt gặp hình bóng của “Hoàng Mi Lão Quái”?
Trong Tây Du Ký, có đoạn thầy trò Đường Tăng đi qua chùa Tiểu Lôi Âm, bị Hoàng Mi Lão Quái giả trang làm Phật Tổ đánh lừa. Yêu quái này biến hoá rất giỏi, phong cảnh bên ngoài cũng tiêu diêu thoát tục tựa Linh Sơn, yêu quái ngồi trên bảo đài trang nghiêm như Phật, bầy tiểu yêu phía dưới cải trang thành các vị La Hán, Bồ Tát… chẳng khác tí nào. Đường Tăng vội vàng sụp lạy, không nghe Ngộ Không khuyên can, kết quả đẩy cả mấy thầy trò vào kiếp nạn. Ngày xưa xem đến đoạn này tức ơi là tức, trách Đường Tăng thật quá ngu muội và bướng bỉnh. Hại Ngộ Không phải bôn ba năm lần bảy lượt cầu cứu Thiên Thần trợ giúp, đánh nhau mệt nhoài, khóc thương rơi lệ, cuối cùng may nhờ Phật Di Lặc hiện thân cứu độ mới xong.
Bẵng đi nhiều năm, mấy hôm nay lại thấy mạng xã hội rộ lên bài hát “Độ ta không độ nàng”, phiên bản lời Việt cũng dùng nhiều từ ngữ nhà Phật, nhưng nội dung thì phóng túng, giết người trả thù tình, tạo hình nhà sư trong clip y hệt mấy “hot boy” trong game online. Lại nhớ năm ngoái Hội trưởng Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc kiêm Trụ trì chùa Long Tuyền Bắc Kinh, Thích Học Thành dính vào bê bối xâm hại tình dục nhiều ni cô, phải từ chức. Rồi thì trước đó là Phương trượng chùa Thiếu Lâm, Thích Vĩnh Tín cũng bị tố cáo có hành vi dâm loạn và có con riêng. Nhìn mấy vị “pháp sư” trong chiếc áo cà sa vàng đất, bất chợt trong đầu vẳng lên âm thanh: “Coi chừng yêu quái nó lừa đó…!”
Không phải chỉ có mình tôi nghĩ thế đâu nhé. Trong bản tuyên bố gửi Đài CNN của Mỹ, sư nữ Thích Hiền Giai nói: “Hình tượng thông tuệ bác học của trụ trì (Thích Học Thành) hoàn toàn sụp đổ trong tôi; chỉ còn lại nỗi khiếp sợ lớn. Ông ta là một con quỷ mặc áo tăng”.
Hòa thượng Thích Học Thành từ chức Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc vì cáo buộc cưỡng ép nhiều ni cô quan hệ tình dục.
Thời xưa xem Tây Du Ký chỉ là xem náo nhiệt, thấy Tôn Ngộ Không trừ yêu diệt quái thì mê tít. Đến tập “Vào nhầm Tiểu Lôi Âm” cũng phải tấm tắc vì con yêu quái này cao tay quá! Giả mạo làm Phật Tổ, lại còn thủ sẵn rất nhiều bảo bối lợi hại. Một là cái “Lang nha bổng” (Gậy răng sói), tên thì là “răng sói” mà miêu tả thì lại là “ngắn, mềm”, khiến người ta thắc mắc. Hai là cái túi vải trắng cũ có thể hút hết mọi người vào trong, còn gọi là “Túi nhân chủng”. Túi này khiến cho “Ai nấy xương nhũn gân tê, thịt da lõm xuống”. Liên kết hai bảo bối này lại với nhau mới phát hiện ra… Ôi, té ra là cái tâm sắc dục!
Khỏi phải phân tích nhiều, chắc mọi người đã hiểu.
Còn một bảo bối nữa của yêu quái Hoàng Mi là chiếc não bạt vàng có thể biến hoá to nhỏ tuỳ ý. Tôn Ngộ Không bị yêu quái tung não bạt vàng ra, chụp kín người, bên trong “tối om om, nóng nực đến nỗi mồ hôi vã ra như tắm, xô phải đẩy trái, không sao thoát ra được, vội vàng cầm gậy sắt đánh loạn xạ, nhưng cũng chẳng động đậy một ly”.
Đọc lại chi tiết chuyện “sư” Thích Học Thành kia, thấy có đoạn tháng 4 năm 2015, khi Thích Học Thành trúng cử Hội trưởng Phật giáo toàn quốc, một pháp sư của nhà chùa đã quyên góp khẩn cấp 12 triệu tệ, nói là để đúc tượng Phật cho Tam Huệ Đường, nhưng sau đó đã thay đổi, không rõ số tiền này được dùng vào việc gì. Ngoài ra, tháng 3 năm 2018, một phân viện của chùa Long Tuyền là chùa Phổ Tế Vĩnh Xuân ở Tuyền Châu, Phúc Kiến đã chuyển 10 triệu tệ quyên góp được vào tài khoản cá nhân của Thích Học Thành. Xem ra, “chiếc não bạt vàng” này đúng là làm bằng vàng, muốn to bao nhiêu liền to bấy nhiêu, cơ bản là không thể đựng đầy nổi.
Tâm tham tiền tài này có thể huỷ hoại người tu hành, ai không bỏ nó đi thì sẽ giả tu, rốt cuộc tụng kinh gõ mõ cả đời vẫn chưa thoát khỏi bóng tối vô minh.
Trong “Đại Thừa Niết Bàn Kinh”, Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán rằng sau khi Ngài nhập niết bàn, ma quỷ sẽ chuyển sinh vào làm tăng ni và nam nữ cư sĩ Phật giáo để phá hoại Pháp. Những người này tuy cạo đi tóc râu, khoác áo cà sa, nhưng huỷ phá giới cấm, hành xử không theo Pháp, là tỳ kheo giả. Nhìn lại một số ngôi chùa ngày nay, phải chăng có thể bắt gặp hình bóng của “Hoàng Mi Lão Quái”?
Người ta thường nói “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Một số người đang khoác áo cà sa ấy chưa hẳn đã đang tu hành, mà có khi có những người không khoác áo tu hành lại đang tu dưỡng nội tâm, trở nên ngày càng Chân Thiện Nhẫn hơn. Lưu Bá Ôn, tác giả của dự ngôn nổi tiếng “Thiêu Bính Ca” đời nhà Minh từng tiên tri rằng Phật Di Lặc sẽ xuất sinh trong gian nhà cỏ như một thường dân, không mặc trang phục của người xuất gia, nhưng sẽ đi khắp bốn phương truyền giảng Phật Pháp. Cuối tập phim Tây Du Ký ấy, thầy trò Đường Tăng may mắn gặp được Phật Di Lặc, còn gọi là Đông Lai Phật Tổ (vị Phật Tổ đến từ phương Đông) nên mới thoát nạn, phải chăng cũng là có thiên cơ trong đó?
Đoàn Phạm

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây Du Ký: Thầy trò Đường Tăng thỉnh kinh là đại biểu cho sự tu hành của một người


tdk-700x366.jpg


Đọc kỹ Tây Du Ký, chúng ta sẽ phát hiện quá trình thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, kỳ thực chỉ là sự miêu tả quá trình tu luyện của một người, trong đó 81 nạn trên đường thỉnh kinh cũng như yêu quái gặp phải, tất cả đều là những ma nạn mà một người tu luyện cần phải đối diện. Ở đây có thể thấy rõ một điều: Ngộ được chính đạo là điều không dễ dàng…
Tu luyện chân chính là hình thức tu luyện thể hiện trong cuộc sống xã hội thường ngày. Với một người bình thường thì những ý niệm vui buồn oán giận trong cuộc sống chỉ là những điều nhỏ bé, nhưng đối với người tu luyện thì ngược lại, tất cả đều là những vấn đề cực kỳ quan trọng, là mấu chốt quyết định thành bại của người chân tu.
Người tu luyện chính là thông qua sự tiếp xúc với mọi người, với xã hội mà “ma luyện” chính mình, mà đề cao tâm tính. Trong đó huyền cơ thì lại chỉ có người tu luyện chân chính mới thấu tỏ, vậy nên trong bài này người viết sẽ không lấy việc thỉnh kinh để so sánh, nó sẽ khiến người thế nhân khó mà tiếp thụ. Ở đây chúng tôi chỉ mượn hình ảnh thầy trò Đường Tăng để liễu giải ẩn ý thâm sâu của người tu luyện giữa đời thường.
Vì sao lại nói năm thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh kỳ thực lại là biểu hiện cho quá trình tu hành của một người?
Đường Tăng đại biểu chính niệm của một người tu luyện
Mặc dù trên đường đi thỉnh kinh, ma nạn trùng trùng, nguy hiểm vô số nhưng mỗi lần đối diện với quan nạn, Đường Tăng luôn thể hiện một lòng chính niệm, kiên định cầu được chân kinh, từ đầu đến cuối không hề mê lạc. Đây chính là đại biểu cho sự tín Sư tín Pháp của người tu luyện. Quá trình tu luyện cũng có thể nói là quá trình không ngừng kiên định, thành tín với Phật pháp, với Chân kinh. Cũng chính là để xem trong khi đối diện với khảo nghiệm, với muôn vàn thật giả lẫn lộn, với sự cám dỗ mê hoặc của thế tục muôn màu có thể một lòng kiên định không thay đổi hay không?
Có người tự nhận rằng mình rất tin vào Thần Phật, nhưng khi gặp phải nguy nan họ lại thường kêu lên “Mẹ ơi”. Thay vì nhớ đến Phật, họ sớm đã quên rằng mình là người tín Phật ắt sẽ được Phật bảo hộ chở che. Đây chính là sự thể hiện lòng thành, đức tin của bản thân đã thực sự tín Phật hay chưa? Khi gặp thời khắc mấu chốt, lúc khảo nghiệm lòng thành của họ thì họ lại quên đi mất Phật ở trên cao, họ chỉ nhớ tới mẹ mình.
Lại có người nói mình tinh tấn thực tu nhưng ngược lại lúc nào cũng bận bịu lo toan cho cuộc sống cá nhân, mong sao cuộc sống được tốt hơn, mong sao gặp được bạn đời như ý, thay vì tinh tấn dụng tâm tu luyện họ lại bận tâm tới rất nhiều thứ khác. Cứ như vậy họ luôn phân vân đứng giữa hai con đường: tu luyện và đời thường, mãi không thể từ nội tâm mà buông bỏ những vui buồn thế tục.
Lại cũng có người hiểu rõ sự thần thông quảng đại của Thần Phật, tu luyện chính là không nên sợ hãi mà cần phải chính niệm chính hành, nhưng họ lại sợ cái này sợ cái kia làm cho tự mình trói buộc chân tay không thể bước đi tinh tấn trên con đường thực tu, cứu độ chính mình.
Ảnh chụp màn hình báo Thanh Niên.
Tôn Ngộ Không đại biểu cho siêu năng lực của người tu luyện

Một người chân chính tu luyện, từ khi bước trên con đường tu luyện, thì đã xuất ra rất nhiều công năng, chỉ có điều trong giai đoạn đầu, những công năng này chỉ có tác dụng ước chế tại không gian này mà thôi. Sau này cảnh giới tu luyện cao lên thì những công năng này lại được thay thế bằng Phật Pháp thần thông. Mà Phật Pháp thần thông lại có thể ước chế các không gian lớn nhỏ trong vũ trụ, uy lực vô tỉ không gì sánh được.
Một người bước trên con đường tu luyện chính là bước lên con đường siêu thường, đương nhiên sẽ có những năng lực vượt khỏi người bình thường. Công năng và thần thông của họ chính là sự biểu hiện cho thành tựu tu luyện của mình, là khả năng tự bảo hộ bản thân. Vậy nên người tu luyện trong quá trình tu luyện cần phải học cách vận dụng thần thông, pháp lực của mình. Họ cũng cần phải dũng cảm đối diện với tất cả vấn đề như Tôn Ngộ Không, lên trời xuống biển, thiên đàng địa ngục đều đi qua. Họ có thể vận dụng thần thông, pháp lực của mình để giải quyết những ma nạn tự thân gặp phải trong quá trình tu luyện. Trong quá trình vận dụng công năng của mình thì họ ngày càng biến thành cường mạnh, uy lực vô tỉ.
Trư Ngộ Năng đại biểu cho phần thế tục của người tu luyện
Người tu luyện bất luận là có dũng mãnh tinh tấn thế nào thì vẫn là người đang tu, là người thì ắt có nhân tâm, điều thể hiện ra bên ngoài thường là những tâm chấp mê của người đời.
Ví như tại hồi thứ 79:
“Tìm hang bắt quái gặp Thọ Tinh; Giữa điện dạy vua mừng nhận trẻ”, nguyên tác kể rằng:
Quốc vương cười nói:
– Trẫm mắc bệnh đã lâu mà chẳng khỏi. May nhờ quốc trượng ban cho một bài thuốc, các vị đã đủ cả, chỉ còn thiếu một vị thuốc dẫn mà thôi. Nay mời trưởng lão vào, xin ngài vị thuốc dẫn ấy. Nếu bệnh trẫm khỏi, trẫm sẽ lập miếu thờ trưởng lão, bốn mùa cúng tế, mãi mãi là hương hỏa truyền quốc của trẫm.
Đường Tăng giả nói:
– Tôi là người xuất gia, trần trụi vác thân người tới đây, không biết quốc trượng cần vị thuốc dẫn nào? Bệ hạ hỏi xem.
Hôn quân nói:
– Muốn cần đến bộ tim gan của trưởng lão.
Đường Tăng giả nói:
– Chẳng giấu gì bệ hạ, tim tôi có mấy loại, không biết bệ hạ cần loại màu gì?
– Hòa thượng kia, ta cần tới quả tim đen của nhà ngươi.
Đường Tăng giả nói:
– Đã như vậy, mau mang dao lại đây mổ bụng tôi ra, nếu có tim đen, xin tuân lệnh dâng lên.
Hôn quân mừng quá cảm ơn rối rít, sai ngay quan Đương giá mang tới mọt con dao tai trâu ngắn, đưa cho Đường Tăng giả.
Đường Tăng giả cầm dao trong tay, cởi luôn quần áo, ưỡn ngực tay trái xoa bụng, tay phải cầm dao xoẹt một tiếng, rạch đứt đôi da bụng, rồi từ ổ bụng một đống tim tuồn tuột chảy ra, làm cho quan văn tái mặt, tướng võ hoảng hồn. Quốc trượng đứng trong điện thấy vậy nói:
– Hòa thượng này sao lắm tim thế!
Đường Tăng giả cầm số tim máu chảy ròng ròng, bới từng quả cho các quan xem, thấy toàn là những quả tim đỏ, tim trắng, tim vàng, tim tham lam, tim danh lợi, tim đố kỵ, tim mưu mẹo, tim hiếu thắng, tim hãnh tiến, tim khinh mạn, tim sát hại, tim độc ác, tim sợ sệt, tim tà vọng, tim vô danh, tim mờ ám… toàn là các loại tim xấu xa, chẳng thấy có một quả tim đen nào. Hôn quân sợ quá như dại như ngây, chẳng nói nên lời, run rẩy lắp bắp nói:
– Hãy cất đi! Hãy cất đi!

Kỳ thực những tim này đều là tâm người thường, đều là những tâm người tu luyện cần bỏ, chỉ khi nào trừ sạch những tâm này mới có thể công thành viên mãn. Đương nhiên người thường vẫn là người thường, người thường là dựa vào lý tưởng, vào truy cầu mà sống. Có người truy cầu cả đời vẫn không được thứ gì, có người trong mệnh đã có, vốn dĩ không cần nỗ lực cũng có được những điều mình muốn nhưng họ lại tự làm khó chính mình, tranh tranh đấu đấu cả đời cơ cực. Người thường chính là vậy, người tu luyện thì lại cần nhảy ra ngoài cái lý của người thường, cần phải dựa theo chân lý của Phật pháp mà chỉ đạo bản thân.
Sa Ngộ Tĩnh đại biểu cho phía chính thường của người tu luyện
Xuyên suốt Tây Du, chúng ta luôn thấy một hình ảnh Sa Tăng cần cù chịu khó, vất vả không nản, khó khăn không lùi, điềm đạm, chân thành, trung thực, không bao giờ bị cám dỗ bởi những điều trần tục nơi nhân thế. Bởi vậy mới nói Sa Ngộ Tĩnh chính là đại biểu cho phía chính thường của người tu luyện: Người tu luyện chính là bảo trì tâm thái thanh tỉnh, không có vọng niệm ham muốn những điều thế tục, một lòng lấy Pháp làm thầy, không ngừng tinh tấn tu luyện, trước sau như một. Có như vậy thì khi đối diện với ma nạn khảo nghiệm mới thể hiện được sự thanh tỉnh của người chân tu.
Bạch Long Mã đại biểu cho sự nhẫn nại và dũng mãnh của người tu luyện
Bạch Long Mã mang vác hành lý và cõng Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, có thể nói đó là công lao không hề nhỏ. Người tu hành cần có tinh thần này: một mực tiến về phía trước bất luận khó khăn ra sao cũng vượt qua, trèo đèo lội suối, lên thác xuống ghềnh đều không quay đầu chùn bước. Chuyện qua đi đã là dĩ vãng, bất luận làm tốt hay không, việc buồn hay vui đều không bận tâm đến nữa, chỉ chuyên tâm một lòng đối đãi với những việc trước mắt. Người tu hành chính là bước trên con đường xả bỏ, không còn vấn vương chuyện cũ đã qua. Nguyên nhân bởi người chân tu hiểu rằng nhanh chóng tu luyện đến viên mãn mới là đích cuối của người tu.
Giống như Đường Tăng, vạn khó không từ, một lòng thành tâm hướng Phật.
Giống như Ngộ Không, rèn giũa và vận dụng thần thông, pháp lực của bản thân để đối kháng yêu ma can nhiễu.
Giống như Bát giới, cần luôn giới bỏ những tâm người thường.
Giống như Sa Tăng, thanh tỉnh thực tu.
Giống như Bạch Long Mã, tinh thần dũng mãnh luôn luôn kiên nhẫn tiến về phía trước.
Đây chính là đại biểu cho một người tu luyện chân chính giữa đời thường vậy.
Quả đúng là:
Tu luyện như chống thuyền vượt thác
Đừng buông lơi, sóng sẽ cuốn thụt lùi
Nào tinh tấn phăng chèo vươn tới trước
Nơi cuối nguồn Thệ ước, Cố hương mong…
(Vô danh cư sỹ).

(sư tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Đường Tăng hiền lành bắt đầu mắng chửi, đánh đập Trư Bát Giới từ bao giờ?


Cắt đứt tơ duyên trong biển dục,
Phá tung khóa ngọc sổ lồng bay.

Bạn đọc yêu mến Tây du ký* hẳn không thể nào quên được nỗi oan ức của Tôn Ngộ Không trong ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, trách Đường Tăng mắt thịt mê mờ thì ít, trách Bát Giới xúc xiểm ly gián thì nhiều. Trên hành trình thỉnh kinh, Đường Tăng đã bao lần chiều chuộng, bênh che Bát Giới, không nghe lời Ngộ Không khiến mình rơi vào vòng nguy hiểm. Ấy thế mà bỗng một ngày, ông thay đổi thái độ hoàn toàn, tưởng như không còn là vị sư phụ từ bi hiền lành xưa kia nữa. Từ bao giờ Đường Tăng bắt đầu mắng chửi, đánh đập Trư Bát Giới, và điều đó có ngụ ý gì?
Bát Giới bị mắng là “súc sinh ăn cám”
Khi thầy trò Đường Tăng đến phủ Kim Bình, là quận ngoài nước Thiên Trúc, các nhà sư chùa Từ Vân mời đoàn thỉnh kinh nán lại vài ngày ngắm hội đèn lồng Tết Nguyên Tiêu. Tam Tạng vui vẻ thưởng lãm phong cảnh, lại nghe nói có chư Phật giáng lâm thu đèn vàng, bèn vội vàng chạy lên giữa cầu rạp người xuống lạy. Chẳng ngờ, chúng là yêu quái giả trang đức Phật, hàng năm bắt dân chúng cống nạp dầu đèn. Yêu quái biến thành ngọn gió, cuốn Đường Tăng đi mất. Nhờ sự chỉ điểm của bốn vị Tứ Trực Công Tào và sự trợ giúp của bốn vị sao Tứ Mộc Cầm Tinh, Tôn Hành Giả mới thu phục được ba yêu quái tê giác, giải cứu sư phụ. Nhờ vậy, dân chúng phủ Kim Bình, huyện Mận Thiên hàng năm được thoát nạn nộp cống, cảm tạ thầy trò Đường Tăng khôn xiết.

Tây du ký, hồi 92 “Ba sư đại chiến núi Thanh Long, Bốn sao vây bắt quái tê giác” viết:
“Rồi hai trăm bốn mươi hộ lớn phải góp tiền mua dầu trước kia, nhà thì biếu, nhà thì mời không thể kể hết. Bát Giới rất thèm được hưởng thụ, bèn mang những thứ quý giá thu nhặt được ở trong động, mỗi loại đều bỏ vào túi áo để làm quà thưởng cho những nhà nào có làm tiệc chay mời thầy trò. Dùng dằng đến một tháng vẫn chưa lên đường được. Tam Tạng nói:
– Ngộ Không này, số vật quý còn lại đem tặng cả cho các nhà sư chùa Từ Vân làm lễ tạ. Rồi đừng cho số hộ lớn đó biết, sáng mai lúc tờ mờ đất chúng ta lên đường, nếu không cứ mải vui thế này, lỡ mất việc lấy kinh, Phật Tổ biết lại trị tội, tai ách rắc rối thì thật lôi thôi lắm.
Hành Giả làm các việc y như lời sư phụ dặn.
Sáng hôm sau, khoảng canh năm, Hành Giả gọi Bát Giới dậy chuẩn bị ngựa. Chú ngốc hôm qua uống nhiều rượu quá, mơ mơ màng màng nói:

– Còn sớm thế này chuẩn bị ngựa làm gì vội.
Hành Giả quát lên:
– Sư phụ bảo dậy lên đường!
Chú ngốc xoa mặt lầu bầu:
– Đúng là sư phụ nhà mình chẳng ra thế nào! Hai trăm bốn mươi hộ lớn đều mời, mới chén được khoảng hơn ba chục bữa, thế mà đã bắt lão Trư phải chịu đói là cớ sao?

Tam Tạng nghe vậy quát mắng:
– Đồ súc sinh ăn cám kia! Chớ có nói lôi thôi nữa! Dậy mau đi! Còn lầu bầu nữa ta sẽ bảo Ngộ Không rút gậy đánh cho một trận bây giờ!
Chú ngốc nghe nói đến đánh, luống cuống chân tay nói:
– Sư phụ dạo này thay đổi rồi. Mọi khi thì thương con, yêu con, thấy con ngốc nghếch thì che chở cho con. Anh con định đánh thì can ngăn khuyên giải, hôm nay làm sao sư phụ lại nổi giận muốn đánh con như thế?
Hành Giả nói:

– Sư phụ trách chú nói lèm nhèm, lỡ mất độ đường thì sao. Chú dậy mau lên, thu xếp hành lý, chuẩn bị ngựa thì tôi tha đánh cho.
Chú ngốc sợ đòn, chồm dậy mặc quần áo, gọi Sa Tăng:
– Dậy mau, không đánh cho bây giờ!”
Chao ôi, vị sư phụ hiền lành của Bát Giới ngày nào bỗng trở nên nóng nảy, hung hăng kỳ lạ! Ở đây, Đường Tăng chỉ là nổi giận doạ đánh Bát Giới, còn trong ma nạn tiếp theo, ông thực sự cầm roi, tự mình đánh “đồ đệ cưng”.
Đường Tăng đánh Bát Giới
Chuyện là mấy thầy trò đến kinh đô nước Thiên Trúc, muốn vào chầu vua đổi điệp văn, đúng lúc công chúa con vua mở hội gieo cầu kén rể. Công chúa này vốn là Thỏ Ngọc trên cung Quảng biến hoá thành, còn công chúa thật đang giả điên chịu nạn trong chùa Bố Kim. Thỏ Ngọc cố tình ném quả cầu trúng đầu Tam Tạng. Đường Tăng nài nỉ van xin nhưng quốc vương giận dữ dọa chém đầu nếu còn từ chối, nên Tam Tạng đành miễn cưỡng tương kế tựu kế, nhân dịp này điều tra lai lịch của công chúa giả.

Tây du ký, hồi 94 “Bốn sư dự tiệc vườn ngự uyển, Một quái mơ mộng tình ái vui” có đoạn:
“Bọn Hành Giả dự tiệc trong đình Lưu Xuân cũng thả sức ăn uống. Mỗi người uống vài chén rượu, thấy chuếnh choáng hơi men định đi tìm Tam Tạng, nhưng đã nhìn thấy Tam Tạng và quốc vương cùng ngồi trong một tòa lầu các. Bát Giới tính ngốc nổi lên, ứng khẩu nói:
– Vui vẻ quá! Thú vị quá! Ngày hôm nay ăn uống thật no say, rồi phải đánh một giấc cho đã đời!
Sa Tăng cười nói:
– Anh hai chẳng biết quái gì, chén no phồng bụng ngủ nghê làm sao được!
Bát Giới nói:
– Chú thì biết cóc khô gì! Tục ngữ có câu: “Ăn no chớ có vươn vai, mỡ màng trong bụng tiêu đời nhà ma” đấy thôi!
Đường Tăng chia tay quốc vương bước vào trong đình, mắng Bát Giới:
– Đồ khốn kiếp kia, thật ngày càng thô lỗ! Đây là chỗ nào mà cứ bô bô nói nhảm, nhỡ ra làm quốc vương giận dữ có phải nguy hại tới tính mạng không?
Bát Giới nói:
– Không sao! Không sao! Chúng ta đã là thông gia với họ, lẽ nào họ lại giở mặt với mình? Thường có câu: “Thông gia ai lại đánh nhau, láng giềng ai lại nói câu phũ phàng”. Mọi người cứ vui đùa đi, sợ quái gì họ?
Tam Tạng quát:
– Lôi con lợn lại đây đánh cho hai mươi roi!
Hành Giả túm lấy Bát Giới lôi lại, Tam Tạng vung roi đánh liền. Chú ngốc kêu toáng lên:
– Ngài phò mã ơi, ngài tha tội cho, tha tội cho!
Viên quan hầu đứng bên cạnh khuyên can mãi, Tam Tạng mới thôi. Chú ngốc lồm cồm bò dậy, lầu bà lầu bầu:
– Quý nhân thế đấy! Phò mã thế đấy! Hôn nhân chưa thành mà đã giở phép vua ra rồi!
Hành Giả bịt lấy mồm Bát Giới nói:
– Chớ nói lăng nhăng! Chớ nói lăng nhăng! Mau đi ngủ đi!
Cả bọn ngủ trong đình Lưu Xuân một đêm nữa, sáng hôm sau lại tiệc tùng ăn uống như hôm trước”.

Bát Giới bị sư phụ mắng nhiếc, đánh đập khi mấy thầy trò chỉ còn một đoạn đường ngắn ngủi là tới được Linh Sơn. Câu chuyện này là minh chứng cho sự thay đổi tâm tính vượt bậc của Đường Tam Tạng. Trư Bát Giới mang hình hài con lợn, tính tình lười biếng, háu ăn, ham ngủ, háo sắc, thích hưởng thụ, tượng trưng cho cái tình và dục vọng của người tu luyện. Thuở đầu tu luyện, Đường Tăng nuông chiều Bát Giới, nghe lời Bát Giới chứ không nghe Ngộ Không, ấy là ẩn dụ cho việc người tu luyện thuở ban đầu cái tình còn nặng, bị dục vọng khống chế mà mê mờ bản tính. Nhiều lần Đường Tăng mắc nạn chỉ vì nghe theo Bát Giới, cũng là nói nếu người tu luyện bị cái tình và dục vọng dẫn động thì sẽ chiêu mời khổ nạn.
Trong ma nạn ở phủ Kim Bình, bề mặt thì là Đường Tăng mắt thịt nhầm yêu quái là đức Phật nên mới bị bắt, còn nguyên nhân sâu xa là: “Lười biếng buông tuồng Thiền tính loạn, Tai ương xảy đến đạo tâm mờ”. Ba lão yêu quái lôi Đường Tăng vào tít đáy động, “chẳng thèm hỏi đầu cua tai nheo, sai ngay bọn tiểu yêu lột hết quần áo, lấy nước trong tắm rửa sạch sẽ, định thái nhỏ băm nát, bỏ vào dầu thơm rán chén”. Đường Tăng trải qua một phen kinh hồn bạt vía, mới trở nên nghiêm khắc với bản thân mình, việc ông mắng chửi dọa đánh Bát Giới chính là thể hiện của quyết tâm tu luyện ấy.
Còn trong ma nạn ở nước Thiên Trúc, tuy yêu quái cố tình ném quả cầu thêu trúng đầu Đường Tăng, nhưng rắc rối khởi nguồn từ một niệm của Tam Tạng: “Ta nhớ tới chuyện tiên mẫu ta cũng do ném quả cầu thêu mà tìm được nhân duyên cũ, kết làm vợ chồng, thì thấy hóa ra vùng này cũng có phong tục ấy nhỉ?”. Đoạn thơ mở đầu hồi 93 viết:
“Khởi niệm là liền có ái, Dậy tình ắt sẽ sinh tai”,
có thể thấy rằng ma nạn này chính là do chấp trước vào tình của Đường Tăng chiêu mời đến. Trong lúc nước sôi lửa bỏng, suýt chút nữa không giữ nổi bản thân, bao nhiêu công quả tan tành, Đường Tăng mới sốt sắng nhận ra nhân vật háu ăn, ham ngủ, háo sắc, nặng tình, thô lỗ bên cạnh mình – Trư Bát Giới – chính là nguồn cơn của tai hoạ. Đường Tăng “vung roi đánh liền”, thể hiện ý chí mạnh mẽ khắc chế dục vọng của người tu luyện.
Hai câu chuyện trên đều có một điểm chung, chính là Đường Tăng vấp ngã rồi mới ngộ đạo. Trong cảnh hiểm nguy sống chết, người tu luyện hiểu ra rằng không thể nuông chiều chấp trước và dục vọng. Tôn Hành Giả nói: “Sư phụ trách chú nói lèm nhèm, lỡ mất độ đường thì sao”, phải chăng ngụ ý là cái tâm an dật, tâm sắc dục… đã kìm hãm người tu luyện tinh tấn, lãng phí biết bao ngày tháng? Ban đầu, Đường Tăng dự định chỉ khoảng ba năm là lấy được chân kinh, mang về Trung Thổ, nhưng cuối cùng mất tới 14 năm. Sau khi Tam Tạng nghiêm khắc với Bát Giới, thầy trò chỉ phải qua một nạn nữa là tới được Linh Sơn, bái kiến Phật Tổ. Đủ thấy, thời khắc người tu luyện có thể nghiêm khắc yêu cầu bản thân mình, quyết tâm buông bỏ chấp trước, chính là cách viên mãn rất gần vậy.
Nên mới có thơ rằng:
Đại đan chẳng tiết phải lo gìn,
Hoạn nạn khó thành giận ác duyên.
Đạo ở Thánh truyền tu tại ngã,
Thiện do người tích phú do thiên.
Lục căn buông sổng nhiều tham dục,
Nhất tịnh khai thông thấy bản nguyên.
Vô ái vô tư thanh tịnh đến,
Ấy là giải thoát được siêu nhiên.


*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Bí ẩn Tây Du Ký: Đạo lý ngũ hành trong hình tượng năm thầy trò Đường Tăng


Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là: thủy, kim, mộc, thổ, hỏa.
Tây Du Ký kể về hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh của năm thầy trò Đường Tăng (bao gồm cả Bạch Long mã), cũng là một hành trình tu luyện. Từ lâu, chúng ta đã biết năm nhân vật thực ra chỉ là cùng một người. Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người. Đường Tăng thu phục được Ngộ Không, Bạch Long mã, Bát Giới và Sa Tăng, nghĩa là “thân, tâm, tình, tính, ý” – đoàn thể hoàn mỹ nhất này đã hợp thành, kiên định tu luyện.
Ở hồi cuối cùng của tác phẩm, khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” thì có thơ rằng:

“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch,
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn”.

“Một thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa bốn tướng” là thuật ngữ trong tu luyện. Trong tu luyện của Đạo gia cổ xưa, thường lấy huyền vũ, chu tước, thanh long, bạch hổ để lần lượt chỉ thận, tim, gan, phổi. Trong ngũ hành, chúng lần lượt thuộc thủy, hỏa, mộc, kim. Tương sinh trong ngũ hành, đó là mộc sinh hỏa, kim sinh thủy. Trong sách “Tính Mệnh Khuê Chỉ” nói rằng long mộc sinh hỏa, thuộc về tâm. Hổ kim sinh thủy, cùng một hệ với thân thể. Tâm không động, thì nguyên khí tụ lại; thân không động, thì tinh khí tụ lại. Tinh ngưng khí tụ, tức là chỉ kim mộc thủy hỏa trộn lẫn với nhau trong thổ (đất). “Hợp hòa tứ tướng” hàm ý điều này.
Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ, hỏa. Trong Tây Du Ký, tác giả thường dùng từ “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉ Trư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có một hàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công” cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên “mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc và thủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất do thổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”.
Trong Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới thường xuyên tranh đấu, đố kỵ, châm chọc không dứt, đó chính là âm dương giao phối trong quá trình tu luyện. Trong đó Sa Hòa Thượng đóng vai trò điều hòa. Mãi đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến trạng thái điều hòa một cách hài hòa nhất trí. Trong hồi thứ 22, khi Bồ Tát ban cho quả hồ lô để thu phục Sa Ngộ Tĩnh còn có mấy câu thơ sau:
“Ngũ hành phối hợp, hợp thiên chân,
Nhận rõ chủ nhân trước đã từng
Cơ bản luyện thành, nên diệu dụng,
Biện minh tà chính thấy nguyên nhân.
Kim về tính vẫn là đồng loại,
Mộc chạy mong tình cũng chẳng xong,
Hai xứ công thành, thành tịch mịch,
Điều hòa nước lửa, bụi trần không”.

Ngũ hành mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ đối ứng với ngũ tạng là gan, tim, tỳ (lá lách), phổi, thận. Vì thế Tây Du Ký mô tả nơi ở của các nhân vật cũng rất có hàm ý. Trư Bát Giới làm mộc mẫu, cũng là chỉ về thủy, ở vị trí thận tạng. Trong Tây Du Ký có mượn lời của Trư Bát Giới để thuyết minh, nói Trư Bát Giới được “Noãn Nhị Thư” kén làm rể. Vị Noãn Nhị Thư này chính là ví như hai quả thận của người ta vậy. Bộ phận tỳ tạng (lá lách) chính là đối ứng của Sa Hòa Thượng (hành thổ). Vì tác dụng của tỳ tạng là vận hóa thủy cốc (chuyển hóa thức ăn), vận chuyển phân bố và vận hành thủy dịch, nên nơi ở Lưu Sa Hà của Sa Hòa Thượng mới là “Lông ngỗng không nổi được, Hoa lau cũng phải chìm”.
Người Trung Quốc cổ đại cho rằng ngũ hành là cơ sở cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vũ trụ, giữa chúng có mối quan hệ tương sinh tương khắc, cân bằng thì an định, mất cân bằng thì hỗn loạn. Ở một tầng hàm nghĩa nào đó, hành trình thỉnh kinh Phật của năm thầy trò Đường Tăng cũng là hành trình tu luyện đạt đến trạng thái hài hoà, hợp nhất của ngũ hành. Đó là cảnh giới tĩnh lặng, từ bi và sáng suốt.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thực hư chuyện tôn giả A Nan, Ca Diếp đòi Đường Tăng ‘hối lộ’ cái bát vàng

Tám mươi mốt nạn tai ương trọn,
Dựng cơ huyền, chí hướng sắt son.
Ma lui là bởi lòng bền,
Muốn thành chính pháp phải nên tu trì.
Chớ bảo lấy kinh kia là dễ,
Công thánh tăng chịu khổ xiết bao.
Xưa nay hòa hợp tuyệt sao!
Một ly sai biệt kết nào nổi đan!

Trải qua mười bốn mùa nóng lạnh, ăn gió nằm sương, vượt qua trùng trùng gian hiểm, cuối cùng thầy trò Đường Tăng đã đặt chân đến Linh Sơn thánh địa. Những tưởng từ đây có thể ung dung rước chân kinh về phương Đông, ngờ đâu bị A Nan, Ca Diếp “vòi tiền hối lộ”. Chi tiết này là một trong những tình tiết bất ngờ và gây thắc mắc nhất trong Tây du ký, mỗi người một cách hiểu khác nhau. Ở đây, người viết xin dùng cái tâm kính ngưỡng Phật Pháp của người tu luyện để cẩn thận lý giải và cảm ngộ, hi vọng có thể phủi lớp bụi mờ, làm sáng lên lời vàng ý ngọc của bộ danh tác.
Tây du ký, hồi 98 viết:

“A Nan, Ca Diếp dẫn Đường Tăng xem khắp tên các bộ kinh một lượt, đoạn nói với Đường Tăng:
– Thánh Tăng từ phương Đông tới đây, chắc có chút lễ vật gì biếu chúng tôi chăng? Mau đưa ra đây, chúng tôi mới trao kinh cho.
Tam Tạng nghe xong nói:
– Đệ tử là Huyền Trang, vượt đường sá xa xôi, chẳng chuẩn bị được quà cáp gì cả.
Hai vị tôn giả cười nói:

– Hà! Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất!
Hành Giả thấy bọn họ giở giọng xoay xở, không chịu trao kinh, thì nổi nóng nói:
– Sư phụ ạ, chúng ta đi thưa với Như Lai, bắt họ phải tận tay mang kinh tới cho chúng ta.
A Nan nói:
– Đừng làm ầm ĩ lên! Đây là nơi nào mà nhà ngươi dám càn rỡ điêu toa? Vào đây mà nhận kinh”.

Câu chuyện A Nan, Ca Diếp đòi lễ vật rồi mới trao kinh này được tái hiện trong phim truyền hình, điện ảnh với vẻ mặt gian xảo của hai vị tôn giả, khiến khán giả hiện đại xem phim cảm giác y như đây là một vụ “đòi ăn của đút” thứ thiệt. Nhưng nếu chúng ta suy xét một chút, thì sẽ thấy chuyện này thật vô lý. A Nan, Ca Diếp là ai? Là hai trong số mười đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca, A Nan là người hầu cận cho Đức Phật, Ca Diếp là vị trưởng lão tu khổ hạnh mẫu mực bậc nhất. Trong lịch sử, tôn giả Ca Diếp đã kế thừa y bát của Đức Phật khi Ngài nhập niết bàn, trở thành người lãnh đạo tăng đoàn. Chúng ta thử nghĩ mà xem, Đức Phật là bậc đại trí đại huệ, có thể chọn những kẻ tham lam ăn của đút hầu cận bên mình và kế thừa y bát chăng?
Thực tế là, tôn giả A Nan và tôn giả Ca Diếp đều chứng đắc quả vị A La Hán, từ lâu đã xả bỏ mọi chấp trước vật dục thế gian. Theo thiển ý của người viết, hai ngài “hỏi lễ vật” là vì nhìn thấy Đường Tăng còn tâm lưu luyến với cái bát vàng và ràng buộc tình cảm huynh đệ với vua Đường (người tặng bát). Nếu Đường Tăng ngộ ra, dâng bát vàng, thì chấp trước cuối cùng này mới quét sạch, tâm mới đạt thanh tịnh hư vô. Tiếc là mấy thầy trò chấp mê bất ngộ, đã nổi giận mắng nhiếc hai tôn giả lại còn kêu la với Phật Tổ. Lời đáp của Phật Tổ mới thật là thú vị:
“Phật Tổ cười nói:
– Nhà ngươi cứ bình tĩnh. Việc hai người vòi lễ các ngươi ta đã biết rồi. Có điều kinh cũng không phải trao cho một cách dễ dàng, không thể lấy không được. Trước kia các Tỳ Kheo thánh tăng xuống núi cũng đem kinh này tụng hết một lượt cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ, giúp cho nhà ấy người sống yên ổn, kẻ chết siêu thoát, thế mà chỉ lấy có ba đấu ba bơ vàng cốm của họ mang về thôi. Ta còn bảo họ bán kinh rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà tiêu. Nhà ngươi tay không đến cầu, nên họ mới trao cho những quyển trắng tinh. Quyển trắng tinh là chân kinh không chữ, cũng là những kinh hay. Các ngươi là chúng sinh ở cõi Đông u mê ngu tối, lẽ ra chỉ nên trao cho những thứ đó thôi”.

Lạ kỳ chưa, Phật Tổ cũng bảo các Tỳ Kheo “bán kinh rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà tiêu”! Nếu như ai đó hiểu lầm tôn giả A Nan và Ca Diếp là ham tiền, thì chẳng lẽ đến đây cũng hiểu lầm Đức Phật nữa hay sao? Ngài ngay từ đầu đã buông bỏ vương vị và mọi vinh hoa phú quý, xuất gia khổ tu, giờ đây há lại cần chút vàng mọn nữa! Vậy thì, vì sao Đức Phật lại nói ba đấu ba bơ vàng cốm đổi lại việc tụng kinh là “rẻ quá”?

Lời của Phật Tổ thâm sâu vô cùng, người viết chỉ xin trình bày cách hiểu về một tầng hàm nghĩa trong đó. Có câu nói rằng: “Thân người khó đắc, Chính Pháp khó tìm”, ai mới xứng đáng được đắc Chính Pháp đây? Những người giàu có bỏ ra cả núi vàng biển bạc cũng chưa xứng, vì Phật Pháp vô cùng trân quý, không thể dùng tiền bạc mà quy đổi được. Vàng bạc cũng chỉ là vật chất trong thế tục, người chết rồi thì một xu cũng chẳng thể mang theo, nếu làm ác thì vẫn phải đọa địa ngục, làm súc sinh… Trong khi đó, đắc được Chính Pháp thì có thể tinh tấn tu luyện, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, hưởng phúc nơi Phật quốc. Kinh Phật có giảng thế giới Cực Lạc đâu đâu cũng là vàng, đất cũng là vàng, cây cũng là vàng… Đem ra so sánh thì ba đấu ba bơ vàng cốm chẳng phải quá rẻ mạt sao?
Người viết ngộ ra rằng chỉ có một trái tim thuần khiết dành cho tu luyện, một trái tim chân chính cầu Đạo, sẵn sàng buông bỏ tất cả danh – lợi – tình, mới xứng đáng đắc được Chính Pháp. Đức Phật chỉ cần bạn dâng lên Ngài “lễ vật” là trái tim thuần tịnh ấy. Dù bạn chỉ còn một chút ràng buộc dính mắc với vật dục thế gian, Phật Tổ cũng không thể nào trao Đại Pháp cho bạn được.
Có một truyện cổ về trái tim dành cho tu luyện như sau. Xưa có người làm nghề đồ tể, một hôm gặp hai người tu hành trên đường sang Tây Thiên gặp Đức Phật. Họ khuyến khích người đồ tể kia cùng đi, nhưng người đồ tể nói: “Tôi nhơ bẩn quá, thật không xứng đáng. Thỉnh cầu hai vị mang trái tim của tôi đến gặp Đức Phật”, nói rồi móc trái tim của mình ra đưa cho hai người kia. Thế rồi hai hành giả mang trái tim người đồ tể theo đến Tây phương. Khi gặp Đức Phật, Ngài trỏ một chiếc vạc lớn đầy nước đang sôi lên sùng sục, hỏi xem họ dám nhảy vào đó chăng. Hai người do dự, bèn nghĩ rằng thử bỏ trái tim của người đồ tể kia vào đó trước xem sao. Thế rồi, họ bỏ trái tim người đồ tể vào vạc nước sôi, kỳ diệu chưa, trái tim đó hóa thành một Kim Phật (ông Phật vàng). Hai người thấy vậy liền vội vã nhảy vào theo. Kết quả, họ hoá thành hai chiếc quẩy rán.
Câu chuyện cho thấy, chỉ một niệm sai biệt cũng mang đến kết quả hoàn toàn khác nhau. Người đồ tể tuy làm nghề hạ tiện, nhưng có một trái tim thuần khiết dành cho Phật Pháp. Anh không màng sinh tử, dâng trái tim của mình lên Phật Tổ. Còn hai hành giả kia, tín tâm chưa đủ, “thấy mới tin, chưa thấy chưa tin”, “ăn cỗ đi trước lội nước theo sau”, cuối cùng cảnh giới chân thật của họ chỉ là hai chiếc quẩy rán. Quay lại chuyện thầy trò Đường Tăng, đã đến Linh Sơn còn khởi tâm nghi ngờ hai tôn giả đức cao vọng trọng, còn lưu luyến cái bát tộ vàng. Vậy nên kết cục mới nhận phải kinh không chữ, phải vất vả thêm một phen mới thỉnh được chân kinh. Tiêu chuẩn viên mãn cho người tu luyện là tuyệt đối không thể hàm hồ.
Tây du ký viết về hành trình thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng, dọc đường nếm mật nằm gai, trừ yêu diệt quái. Người ngoài cuộc xem sự tới lui náo nhiệt, người trong cuộc tỏ đường tu luyện gian nan. Hiện tại tuy gian nan, nhưng tương lai xán lạn huy hoàng. Quả đúng là:
Bất nhị pháp môn rất diệu huyền,
Yêu ma lui sợ – rõ người tiên.
Bản lai diện mục nay mừng thấy,
Một thể nguyên nhân đã vẹn tuyền.


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Kết cục của 3 loại yêu quái lớn trong Tây Du Ký ẩn chứa thông điệp gì?

Có câu cửa miệng rằng: Thái độ thế nào thì sẽ quyết định kết quả như thế ấy. Kết cục khác nhau của các loài yêu quái trong “Tây Du Ký” vừa khéo đã chứng minh rõ cho câu nói này.
Khác biệt lớn nhất của các lộ yêu quái trong Tây Du Ký
Yêu quái trong “Tây Du Ký” đại khái có thể chia làm ba loại lớn như vầy: Một loại là vật cưỡi hay thú cưng của các lộ Thần Tiên, bởi an bài đặc biệt nên xuống hạ giới tạo thành quan nạn cho thầy trò Đường Tăng tu hành hoàn trả nghiệp lực. Một loại khác là có những vị Thần bởi quyến luyến phàm trần nên xuống thế gian, bởi quan hệ nhân duyên cũng đã trở thành một khảo nghiệm trên con đường tu luyện của thầy trò Đường Tăng. Một nhóm khác chính là yêu ma quỷ quái nơi thế gian, chuyên môn làm điều ác hại người.

Trong ba loại hình yêu quái kể trên, hai loại trước thông thường sau khi hoàn thành sứ mệnh, kết thúc nhân duyên thì đều quy vị, nhưng còn loại sau cùng kia thì hầu như toàn bộ đều bị đánh chết cả. Đây không phải chỉ bởi nguồn nguyên lai sinh mệnh của chúng khác biệt, mà còn bởi thái độ khác nhau của họ đối với việc tu luyện này.
Trong “Tây Du Ký”, thầy trò Đường Tăng đi sang đất Phật thỉnh cầu chân kinh, thật ra cũng chính là quá trình tu luyện tìm Đạo cầu Đạo của con người ta, nợ nghiệp của tự thân mỗi người dẫn đến trùng trùng quan nạn trên con đường tu luyện. Những yêu quái “có lai lịch” ngăn trở họ, một mặt xem như giúp họ tiêu trừ nợ nghiệp, một mặt khác cũng là khảo nghiệm cái tâm hướng Phật của họ có kiên định hay không, chứ không có thật sự ngăn trở họ tu luyện. Hơn nữa, không kể loại yêu quái này hành ác như thế nào, một khi nhìn thấy chủ nhân của mình (các lộ Phật, Đạo, Thần) đều hết sức cung kính hiện lại nguyên hình.
Còn những yêu ma quỷ quái thật sự kia thì bản chất lại là tà ác, ngăn trở thầy trò Đường Tăng cầu Chính Pháp phổ độ chúng sinh, không chỉ làm hại chúng sinh, mà còn có tâm bất kính đối với Thần Phật, thế nên kết cục cuối cùng đều bị diệt trừ hoàn toàn.
Hàm ý Tây Du Ký: Tín Phật cầu Chính Pháp là con đường đúng đắn nhất của đời người
Từ xưa đến nay, con người tu luyện cầu Chính Pháp đều được xem là một việc thần thánh, Thần Phật đều sẽ âm thầm giúp đỡ. Còn như ngăn cản con người ta tu luyện tìm cầu Chính Pháp ắt là tà ma, nếu cứ một mực khăng khăng cố chấp làm vậy, cuối cùng sẽ bị tiêu diệt.

Nhưng Phật gia giảng duyên phận, cũng giảng phổ độ chúng sinh, vậy nên Thần Phật đối với những sinh linh còn có thiện niệm (bao gồm cả yêu quái), đều mở cho một lối thoát. Ví như Hồng Hài Nhi, tuy tiểu yêu vương đó cuồng vọng vô tri, nhưng Quan Âm Bồ Tát niệm tình y còn có duyên phận có thể cứu độ được, bèn độ hóa y thành Thiện Tài Đồng Tử, từ đây sống cuộc sống tiêu diêu tự tại nơi cõi Phật.
Tuy Thần Phật đều là lấy từ bi làm gốc, nhưng không phải sinh mệnh nào cũng đều có thể cảm niệm từ bi của Thần, cũng như trân quý duyên phận này. Bò cạp tinh chính là như vậy. Nói đến bò cạp tinh này, thì nó cũng được tính là sinh mệnh có duyên với Thần Phật, có đạo hạnh tu hành cả nghìn năm, còn có duyên đến chùa Lôi Âm nghe Phật Như Lai giảng Pháp. Nếu nó có thể thành tâm hướng Phật, tu bỏ ma tính, hẳn cũng có thể tu thành chính quả. Nhưng nó lại không biết trời cao đất dày, không những không thành kính tu hành, còn lấy oán báo ân đốt Như Lai một cái.
Đúng là nhân nào quả nấy, mặc nó có nghìn năm đạo hạnh và Phật duyên không tệ, bất kính Thần Phật thì không còn tương lai có thể nói nữa. Thế là, nguyên là sinh mệnh với duyên phận có thể được hóa độ, cuối cùng bị Mão Nhật Tinh Quan đoạt đi sinh mệnh. Có bài thơ làm chứng:
Cổ dài mào đỏ lông mơ,
Cựa dài, móng sắc mắt đưa lộn sòng,

Năm đức tỏ rõ oai phong,
Ba canh báo sáng, tiếng đồng xa ngân
Phải đâu tông giống gà trần.
Vốn là tinh tú ân nhân cõi trời.
Ác độc tu luyện công toi,

Hoàn nguyên bản tướng đi đời nhà ma!
Vậy nên, thái độ đối với Thần Phật cũng chính là quyết định tương lai của chúng sinh. Một sinh mệnh nếu cứ một mực cuồng vọng làm điều gian ác, bất kính đối với Thần Phật, thậm chí ngăn trở con người ta tu luyện Chính Pháp, nghịch thiên hành sự, thế thì vô luận nó có bản sự lớn đến đâu, cuối cùng cũng đều khó tránh khỏi Trời phạt, tự nhận lấy ác quả của mình. Cũng như bò cạp tinh trong “Tây Du Ký”, tự cậy mình yêu lực cao siêu, thậm chí ngay đến cả Tôn Ngộ Không, Quan Âm Bồ Tát cũng đều không thể đối kháng trực diện với nó, nhưng cuối cùng cũng khó thoát khỏi cái chết.
Nếu một sinh mệnh có thể ôm giữ thiện niệm đối với Thần Phật và Chính Pháp, đó cũng là trân quý bản thân vậy. Người thông tuệ thường hay biết mượn những câu chuyện xưa mà ngẫm lại mình, như câu người xưa thường hay nói: “Lòng người sinh một niệm, trời đất đều tỏ tường. Thiện ác nếu không báo, càn khôn ắt vị tư”.
Theo secretchina.com

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây Du Ký giúp người tỉnh ngộ, cải tà quy chính gặp hung sẽ hoá cát


Nhà Phật có cách nói là: Cải tà quy chính, đắc đạo thành Phật. Nhưng quan hệ nhân quả không phải ngày một ngày hai mà thành hiện thực, việc bạn có thể thay đổi quan niệm, cách nghĩ là không hề đơn giản.
Như Lai khuyên Ngộ Không đi theo cửa Phật
Trong Tây Du Ký kể rằng, Ngộ Không đại náo thiên đình, muốn đòi giành lấy ngôi cửu ngũ chí tôn của Ngọc Hoàng đại đế. Ngọc Hoàng bèn cho người mời Phật Tổ Như Lai tới trị con hầu tinh.
Tây Du Ký hồi thứ 7 thuật lại rằng:

“Đoạn, Như Lai gọi hai vị tôn giả là A Nan và Ca Diếp cùng đi, rời chùa Lôi Âm, đến thẳng điện Linh Tiêu. Khi tới nơi, mọi người nghe thấy tiếng reo hò vang động của ba mươi sáu lôi thần đang đánh nhau với Đại Thánh. Phật Tổ ra lệnh:
– Các lôi thần hãy dừng tay, mở vòng vây, gọi Đại Thánh ra đây để ta hỏi hắn có những phép gì?
Các tướng liền lui ra. Đại Thánh cũng thu phép, hiện nguyên hình, bước tới trước mặt Phật Tổ, vẻ giận dữ ngông nghênh lớn tiếng quát.
– Nhà ngươi là thiện sĩ phương nào mà dám tới đây ngăn cản việc binh đao, lại còn hỏi ta cái gì?
Như Lai cười nói:

– Ta là Phật A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni tôn giả ở thế giới Tây phương cực lạc. Nghe tin nhà ngươi ngông cuồng nơi hoang dã, mấy lần quấy phá cả thiên cung. Vậy ta hỏi nhà ngươi sinh trưởng ở nơi nào? Tu hành đắc đạo bao giờ mà dám ngang ngược thế?
Đại Thánh đáp:
– Ta đây:
Đất trời dưỡng dục khỉ tiên
Núi Hoa Quả chính là miền quê hương
Động Thủy Liêm ấy nhà riêng
Tìm thầy học đạo lẽ huyền sáng thông
Trường sinh phép ấy nhập lòng
Muôn hình biến hóa thần thông rõ ràng
Chỉ vì chật đất trần gian
Muốn lên thượng giới chiếm làm cơ ngơi
Lẽ đâu ở mãi ngôi trời?
Đế vương hạ giới bao đời đổi thay
Ai mạnh là chủ xưa nay
Anh hùng là tớ nhường ngay cho rồi!
Phật Tổ nghe xong, cười khà khà, nói:

– Nhà ngươi chẳng qua chỉ là con khỉ thành tinh, cớ sao dám dối trá định cướp ngôi chí tôn của Thượng Đế? Thượng Đế tu hành từ nhỏ, trải qua một nghìn bảy trăm năm mươi kiếp. Mỗi kiếp là mười hai vạn chín nghìn sáu trăm năm. Nhà ngươi tính xem. Thượng Đế phải tu hành bao nhiêu năm mới được hưởng cái đạo lớn vô cực ấy? Thế mà nhà ngươi mới từ súc sinh lên làm người, sao dám khoác lác như vậy. Thật không đáng làm cái giống người, thế nào cũng chết non chết yểu! Nhà ngươi hãy sớm quy y đi, đừng có ăn nói lếu láo nữa. Chỉ e gặp tay thủ địch lợi hại hơn, trong khoảnh khắc, tính mạng nhà ngươi tan tành, thì đáng tiếc cho đời nhà ngươi lắm!”.
Vậy là ngay trong giờ phút đầu tiên đối mặt, Phật Tổ Như Lai đã thuyết giáo cho Ngộ Không, khuyên y nên “quy y” để giữ toàn tính mạng. Phật Tổ đại từ đại bi, đối với chúng sinh đều đối xử bình đẳng, nhủ lòng thương xót. Ngộ Không lúc đại náo thiên cung thì đích thị là một con yêu quái nhưng Phật Tổ lại thuyết pháp, khuyên y quay về với điều thiện. Ở đây chứng tỏ hai điểm: một là Phật Tổ đại từ bi, hai là Ngộ Không là một sinh mệnh có lai lịch, không phải hạng yêu quái hại người tầm thường.
Vậy đã không phải là yêu quái tầm thường thì hẳn là y được an bài cho một vai diễn đặc biệt. Ở trong truyện ta đã biết rằng từ sớm Ngộ Không đã được chọn làm người bảo vệ “người lấy kinh” sang Tây Thiên. Nhưng muốn bước trên con đường thần thánh ấy thì y phải gột rửa cái tính khí “yêu quái” của mình đã. Y ngông nghênh, coi trời bằng vung, dám mắc đại tội đại náo thiên cung. Với đại tội ấy, một sinh mệnh bình thường hẳn là đã phải chịu huỷ diệt nghìn lần. Nhưng Phật Tổ đã đến và đích thân giáo hoá y, cuối cùng lại phong kín y dưới Ngũ Hành Sơn, ấy không phải là hại y mà thực ra lại chính là cứu y vậy.
500 năm giam dưới Ngũ Hành Sơn, một sớm gặp sư phụ
Ngộ Không chịu khổ ải 500 năm dưới núi Ngũ Hành, e rằng vẫn là còn quá nhẹ. Tội nghiệp của y quá lớn, thật may là Phật Tổ đã tiêu giảm giúp y rất nhiều, thế nên y mới có thể giữ lại cái mạng của mình. Nói 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn là khổ, thực ra khổ ấy vẫn còn… quá sướng!
Tây Du Ký hồi thứ 14 có chép:

“Lại nói chuyện Lưu Bá Khâm, Đường Tam Tạng đang ngơ ngác sợ hãi, thì lại nghe thấy tiếng gọi:
– Sư phụ đến rồi! Toán người nhà nói:
– Đấy là tiếng gọi của con vượn già trong hộp đá dưới chân núi.
Thái Bảo nói:
– Đúng đấy, đúng đấy! Tam Tạng hỏi:
– Con vượn già nào vậy? Thái Bảo đáp:
– Quả núi này trước tên là núi Ngũ Hành. Từ khi vua Đường chinh tây mở nước, mới đổi tên là núi Lưỡng Giới. Mấy năm trước đây, tôi thường nghe các cụ già kể rằng: Vào thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, trời đè dưới quả núi này một con khỉ thần. Con khỉ ấy không sợ nóng lạnh, không cần ăn uống, có thổ thần canh giữ, bảo nó đói thì ăn hòn sắt, khát thì uống nước rỉ đồng. Từ bấy đến nay, đói rét nó cũng không chết. Chắc tiếng kêu đó là của nó. Trưởng lão đừng sợ, chúng ta xuống chân núi xem sao.
Tam Tạng bằng lòng, dắt ngựa xuống núi. Đi được vài dặm, thấy quả có một con khỉ trong hộp đá, ló đầu vẫy tay rối rít nói:
– Sư phụ ơi, sao bây giờ sư phụ mới tới? May quá! May quá! Sư phụ cứu con ra, con sẽ bảo vệ sư phụ sang Tây Trúc”.
Tôn Ngộ Không được Đường Tăng giải thoát khỏi núi Ngũ Hành, phò tá người đi lấy kinh, trải qua bao khổ nạn cuối cùng đã tu thành chính quả. Vậy mới thấy, chỉ cần tâm hướng thiện, tất cả mọi thứ đều sẽ thay đổi theo. Tây Du Ký không chỉ là một bộ truyện, mà còn thể hiện rõ từ bi vĩ đại của Phật Pháp.
Ghi chú: Nội dung trích từ truyện Tây Du Ký, Hồi 7 – Đại Thánh trốn khỏi lò bát quái, Hầu vương giam dưới núi Ngũ hành và Hồi 14 – Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi.
Quỳnh Chi
Tham khảo Secret China
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây Du Ký: Một thiện niệm hóa giải cơn đại hạn, cứu nạn dân khỏi cái chết cận kề


Người bình thường chúng ta, đối với một suy nghĩ, một ý niệm nào đó thông thường không quá để tâm. Một niệm thiện hay một niệm ác có sức mạnh lớn đến thế nào, mang đến điều gì cho bản thân thì lại càng không ai bận tâm. Nhưng trong Tây Du Ký, chỉ một niệm thiện, Quận hầu quận Phượng Tiên đã hóa giải được đại hạn, cứu giúp dân chúng khỏi cảnh khô hạn, ly hương.
Tây Du Ký, hồi thứ 87: “Quận Phượng Tiên khinh trời bị hạn, Tôn Đại Thánh khuyến thiện làm mưa”, thầy trò Đường Tăng tiến vào quận Phượng Tiên, nước Thiên Trúc, nhìn thấy quan sai đang dán bảng cáo thị. Bốn thầy trò nhìn bảng cáo thị mới biết được rằng quan sai đang tìm kiếm pháp sư cầu mưa cho dân chúng. Đường Tăng nói với ba đồ đệ:
– Ai biết cầu đảo thì cầu một trận mưa ngọt cho họ để cứu muôn dân. Đó là một việc rất thiện đấy. Bằng không thì đi ngay kẻo nhỡ độ đường.
Hành Giả nói:
– Cầu đảo có gì là khó! Lão Tôn đây lật sông dốc biển, đổi vật dời sao, phun mây nhả mù, đuổi trăng gánh núi, lật trời đào giếng hô gió gọi mưa. Những việc ấy chỉ là trò trẻ con, có gì là ghê gớm?
Thế là thầy trò Đường Tăng bèn lưu lại nơi đây, tới của Quận hầu bàn đại sự. Trong truyện kể rằng, Ngộ Không bắt quyết niệm chân ngôn đã mời được lão long vương Đông Hải là Ngao Quảng tới, nhờ cho một trận mưa lành. Nhưng bởi vì không có thánh chỉ của Ngọc Đế, Long Vương không dám tùy tiện cho mưa xuống. Ngộ Không liền tìm tới Thiên cung xin thánh chỉ. Chẳng ngờ lên tới nơi, Hành Giả mới hiểu được nguyên nhân thực sự vì sao quận Phượng Tiên gặp đại hạn lâu như vậy.
Thượng đế nói:
– Ba năm trước đây, vào ngày hai mươi nhăm tháng mười hai, trẫm xuất hành đi du lãm muôn phương, ngao du ba cõi, trẫm thấy tên Thượng Quan ấy đang làm việc bất nhân, quẳng những thứ để thanh khiết cúng Thượng Đế cho chó ăn, miệng lại nói những lời bẩn thỉu, mắc tội mạo phạm. Trẫm lập tức sai làm ba việc ở trong điện Phi Hương. Các ngươi hãy dẫn Tôn Ngộ Không vào xem, nếu thấy ba việc đó đổ hỏng cả thì sẽ xuống chiếu cho phép làm mưa. Bằng không thì đừng có nói cho rườm lời.
Chính là bởi vì vợ của Quận Hầu quận Phượng Tiên dùng lời ác ngôn tranh cãi với chồng. Hai vợ chồng họ sau một hồi tranh cãi đã nhất thời giận dữ đẩy ngã bàn thờ, bài vị, đập vỡ bát hương. Vợ ông không ngừng dùng lời lẽ xú uế, bẩn thỉu mạo phạm Thượng đế và cuối cùng đã gọi chó đến ăn mâm cỗ cúng tế Thần linh bị xô đổ xuống đất. Hai vợ chồng họ quả thực đã phạm tội với Thượng Thiên. Vậy ba việc mà Ngọc Hoàng lập ra là gì?
Trong truyện kể rằng, khi bốn Thiên sư dẫn Hành Giả vào trong điện Phi Hương xem xét, thấy có một tòa núi gạo cao chừng mười trượng, một tòa núi bột cao chừng hai mươi trượng. Bên tòa núi cao có một con gà nhỏ bằng nắm tay đang thủng thẳng mổ gạo ăn. Bên tòa núi bột có một con chó sư tử lông vàng đang thong thả liếm bột. Bên trái kê một chiếc giá sắt, trên giá treo một chiếc khóa vàng dài chừng một thước ba bốn phân. Cần khóa to bằng ngón tay, bên dưới đặt một chiếc đèn đang thắp sáng, ngọn lửa cháy tới cần khóa.
Các Thiên sư giải thích với Hành Giả rằng:
– Người ấy xúc phạm Thượng Thiên, Thượng Đế bèn nghĩ ra ba việc này. Chừng nào con gà mổ hết gạo, con chó liếm hết bột, ngọn đèn đốt đứt cần khóa, lúc ấy mới làm mưa.
Tôn Ngộ Không nghe xong sợ hãi tái mặt, không dám thưa chuyện, đành xấu hổ bước ra ngoài điện. Tôn Ngộ Không trước đây từng vì “đại náo thiên cung” mà phạm tội bất kính với trời, cuối cùng bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt ở dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm. Hơn ai hết, Hành Giả hiểu rõ rằng không có tội nào lớn hơn tội bất kính với Thượng Thiên. Chính vì hiểu được điều đó nên Ngộ Không cũng chẳng dám đi bái kiến Ngọc Đế. Nhưng nếu không cầu được mưa thì dân chúng quận Phượng Tiên phải chịu cảnh khổ cực mà chết dần. Phải làm sao đây?
Lúc bấy giờ, bốn Thiên sư cười cũng nhắn nhủ lại với Hành Giả một điều quan trọng, có thể giúp Quận hầu quận Phượng Tiên “đoái công chuộc tội”:
– Đại Thánh đừng buồn. Việc này chỉ có làm việc thiện mới giải được thôi. Một ý nghĩ thiện, kinh động cả Thượng Thiên, núi gạo núi bột khi ấy sẽ sụp đổ, cần khóa cũng sẽ đứt. Đại Thánh cứ về khuyên hắn theo thiện, thì phúc quả tự khắc sẽ đến.
Ngộ Không trở về hạ giới liền nói nguyên nhân cho Quận hầu và khuyên nhủ rằng:
– Ngài đã hồi tâm hướng thiện thì hãy niệm Phật tụng kinh ngay đi, có gì ta sẽ giúp cho. Còn nếu cứ giữ thói cũ chẳng chịu sửa đổi, thì ta chẳng thể cứu nổi, và chẳng bao lâu nữa, chính ngài cũng bị trừng phạt, tính mạng khó toàn.
Quận hầu vốn là người tốt, lập tức lĩnh ngộ ra ngay, cúi đầu lạy thề nguyện quy y. Ngay hôm ấy cho mời hết tăng đạo trong vùng, dựng một đạo tràng, mọi người thảo bức sớ tâu với tam thiên. Quận hầu dẫn mọi người tới thắp hương lễ bái, tạ ơn trời đất nhận hết lỗi lầm. Tam Tạng cũng tụng kinh giúp họ. Mặt khác, lại phi báo cho dân chúng khắp thành, bất kể già trẻ gái trai đều phải thắp hương niệm Phật. Từ lúc ấy, tiếng thiện vang khắp nơi.
Thiện niệm ấy một khi khởi lên thì đã kinh động đến tận Thượng Đế. Chỉ trong chớp mắt núi gạo, núi bột bỗng nhiên sụp đổ, xích khoá cũng tự đứt rời. Ngọc Đế thấy Quận hầu thành tâm sửa đổi tâm tính nên lập tức truyền chỉ cho các chính Thần ban mưa cho dân chúng nơi đây.

Tích truyện nổi tiếng này của Tây Du Ký có lẽ đã được nhiều người biết đến. Nhưng ý nghĩa thâm sâu của nó thì lại không mấy người tỏ tường. Câu chuyện cho ta thấy rằng, mỗi một khổ nạn, tai hoạ mà người ta phải chịu đều không hề ngẫu nhiên, đều là có nguyên nhân sâu xa cả. Khi đạo đức bại hoại, chuẩn mực tâm tính của con người đi xuống, làm sao mà Trời cao có thể nhắm mắt làm ngơ đây? Mọi khổ ải trong đời người đều là do tự mình chuốc lấy. Cái lý nhân quả báo ứng cũng cùng là một ý như thế này.
Tuy nhiên, là con người xuống đến thế gian này ai mà không gây tội nghiệp đây? Ở trong cõi mê, người ta thậm chí không thể tự ý thức được rằng mình đang tạo ra tội lỗi. Nhưng Trời cao có đức hiếu sinh, Thần Phật cũng luôn mở một lối quay về cho con người. Khi con người thực sự có thể xuất ra thiện niệm thì sức mạnh ấy là to lớn vô cùng, có thể đánh động đến cả Thần linh.
Thần Phật luôn từ bi và luôn cho con người thật nhiều cơ hội để tự cải biến nhân tâm của mình. Mọi khổ nạn trong đời, chỉ có thể dùng thiện niệm, lòng từ bi để hoá giải. Vậy nên người xưa mới có câu: “Phật tính nhất xuất chấn động thập phương thế giới” (Phật tính một khi xuất ra thì chấn động mười phương thế giới).
Tiểu Lý – Mai Trà
Tham khảo: Secret China
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tôn Ngộ Không đánh đổ cây Nhân sâm, vì sao chỉ nước Cam Lồ của Bồ Tát mới cứu được?

Trong Tây Du Ký, cố sự ‘hái trộm nhân sâm quả’ tốn khá nhiều giấy mực trong toàn bộ tiểu thuyết, được tác giả dành đến ba hồi (từ hồi thứ 24 đến hồi thứ 26) để miêu tả. Phải nói rằng Ngô Thừa Ân đã gửi gắm rất nhiều ẩn ý thâm sâu đằng sau câu chuyện này.
Và trong cố sự ‘hái trộm nhân sâm quả’ ấy, Tôn Ngộ Không đã phải vất vả đi khắp núi bể non cao, gặp biết bao vị đại tiên để hỏi cách cứu sống cây nhân sâm. Nhưng chỉ đến khi diện kiến đức Quan Âm Bồ Tát thì mới tìm được câu trả lời.
Vậy ẩn ý của tác giả đằng sau chi tiết này là gì? Bài viết dưới đây mong muốn đóng góp một số lý giải xung quanh vấn đề này, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.

Nhân sâm là linh căn của trời đất…
Trước hết, chúng ta hãy cùng nhìn lại bối cảnh của câu chuyện:
Khi đến đất Tây Ngưu Hạ Châu, trước mặt bốn thầy trò Đường Tăng hiện ra núi Vạn Thọ, trên núi có Ngũ Trang đạo quán, là nơi cư ngụ của Trấn Nguyên đại tiên.
Nơi đây có một cây tiên quý, sinh ra từ khi càn khôn còn hỗn độn, trời đất còn mờ mịt chưa phân. Khắp tứ đại bộ châu trong thiên hạ thì chỉ có Ngũ Trang quán ở Tây Ngưu hạ châu là sản sinh ra cây ấy, có tên là “Vạn Thọ thảo hoàn đơn”, cũng gọi là “Nhân sâm quả”.
Vậy cây nhân sâm này quý hiếm như thế nào? Kể rằng:
“Giống cây này ba nghìn năm mới nở hoa, ba nghìn năm mới kết quả, lại ba nghìn năm nữa mới chín. Tính ra phải một vạn (10.000) năm mới được ăn. Và trong một vạn năm ấy chỉ kết được ba mươi quả. Hình dáng quả này tựa như trẻ mới sinh chưa đầy ba ngày, tứ chi hoàn toàn, ngũ quan đủ cả”.
Lại nói:
“Người nào có phúc được ngửi quả ấy một lần, sẽ sống được ba trăm sáu mươi tuổi; ăn một quả, sống mãi bốn vạn bảy nghìn (47.000) năm”.
Tôn Ngộ Không non cao tìm thuốc

Khi bốn thầy trò bước vào Ngũ Trang quán, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Tử đã vâng lời dặn dò, mang hai trái nhân sâm tới mời Đường Tăng. Nhưng vì loại quả này trông tựa đứa trẻ mới sinh nên Đường Tăng nhất mực khước từ.
Hai tiểu đồng không còn cách nào khác đành quay về phòng và chia nhau mỗi người một quả. Bí mật này chẳng may lọt vào tai Trư Bát Giới, động tới bản tính háu ăn của “lão Trư”.
Bát Giới bèn xúi giục Ngộ Không hái trộm nhân sâm cho biết mùi biết vị. Sau khi phát hiện, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Tử đã buông lời nhục mạ cả bốn thầy trò, từ đó mà dẫn đến sự việc đáng tiếc: Tôn Ngộ Không đại náo Ngũ Trang quán, đạp đổ cây nhân sâm.
Bởi vì nhân sâm là tinh túy của đất trời, là linh thụ sinh ra từ khai thiên tịch địa, cho nên khi đạp đổ cây, Ngộ Không đã phải vất vả đi khắp bốn phương trời để tìm thuốc giúp cây sống lại.
Lần thứ nhất, Tôn Ngộ Không đến Bồng Lai tiên cảnh, gặp ba vị tiên ông là Thọ tinh, Phúc tinh, và Lộc tinh. Ba vị nói rằng, họ tuy là thần tiên nhưng về thứ bậc thì vẫn còn kém xa:
“Trấn Nguyên tiên là tổ địa tiên, còn chúng tôi là tôn phái thần tiên (…) Nếu như đánh giết những con muông chạy chim bay, giống có vây có vỏ thì chỉ dùng viên đan lúa mạch của chúng tôi cũng có thể cứu sống được. Còn như cây Nhân sâm ấy là giống cây tiên, chữa thế nào được? Không có thuốc, không có thuốc đâu!”.
Điều đó nói nên nguồn gốc cao quý của Trấn Nguyên đại tiên và cây Nhân sâm là thứ linh thiêng của đất trời, so về tầng thứ thì còn cao hơn cả Thọ tinh, Phúc tinh, và Lộc tinh.
Lần thứ hai, Tôn Ngộ Không đến gặp Đế Quân, nhưng chỉ nhận được câu trả lời:
“Tôi có một viên ‘cửu chuyển Thái Ất linh đơn’, nhưng chỉ chữa được bệnh người, chứ không chữa được cây. Cây là linh tính thổ mộc, được trời nhuần thấm. Nếu là cây thường thì còn chữa được, chứ Vạn Thọ sơn là đất phúc của Trời, Ngũ Trang quán là động trời của Hạ Châu. Cây Nhân sâm là cây thiêng từ thiên địa mới khai tịch, chữa thế nào được? Không có phương!”.
Cứ như thế, cho đến lần thứ ba, Ngộ Không đến Doanh Châu hải đảo gặp cửu tiên cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu.
Như vậy, muốn cứu cây Nhân sâm thì phải tìm được thứ thần dược vượt trên cả tầng thứ của các bậc thần tiên.
Nước Cam Lồ, Bồ Tát cứu cây
Tôn Ngộ Không đi tìm thuốc cứu cây Nhân sâm. (Ảnh minh họa: youtube)
Cuối cùng, Ngộ Không đến núi Phổ Đà cầu cứu Quan Âm Bồ Tát. Vừa nghe Ngộ Không kể rõ sự tình, Bồ Tát đã quở trách:
“Ngươi là con khỉ không biết hay dở! (…) Trấn Nguyên Tử là tổ sư các địa tiên, ta cũng phải nhượng bộ ba phần, sao ngươi dám đánh đổ cây của người?”

Có một điều đặc biệt là Quan Âm Bồ Tát nói rằng, so với Trấn Nguyên tiên thì Bồ Tát “cũng phải nhượng bộ ba phần” [1]. Nếu đúng như lời nói, thì phải chăng Bồ Tát sẽ không thể cứu sống cây Nhân sâm?
Thế nhưng Ngài lại quả quyết với Ngộ Không rằng: “Nước Cam Lồ trong tịnh bình của ta chữa được cây tiên”. Và quả thực, khi đứng trước cây nhân sâm đất bật rễ trơ, cành khô lá rụng, Bồ Tát đã dùng cành dương liễu và nước Cam Lồ để hồi sinh cây Nhân sâm, khiến cành lá lại xanh tươi, hai mươi ba quả lại được phục hồi nguyên trạng.
Có thơ rằng:
“Đinh non Vạn Thọ động thiên nhiên
Gần vạn năm trường chín quả tiên
Rễ đứt cây thần, cành lá héo
Nước thiêng Cam Lộ, quả hoa nguyên.”
Như vậy, Ngộ Không đi khắp mọi nẻo phương trời, đã tìm đến các bậc đạo tiên nơi núi cao biển cả, nhưng chỉ duy nhất nước Cam Lồ của Quan Âm Bồ Tát mới có thể hồi sinh cây thần. Vậy điều gì giúp nước Cam Lồ làm nên kỳ tích ấy?
Dòng nước Cam Lồ
Trước hết, hãy nhắc lại lời Bồ Tát nói với Tôn Ngộ Không: “Trấn Nguyên Tử là tổ sư các địa tiên, ta cũng phải nhượng bộ ba phần…”[1]. Có phải ý nói rằng tầng thứ của Quan Âm Bồ Tát là thấp hơn Trấn Nguyên tổ địa tiên hay không?
Sự thực thì không phải vậy. Quan Âm Bồ Tát thuộc về Phật giới, còn Trấn Nguyên Tử là Tiên giới, là bậc Chân Nhân thuộc về Đạo gia. Phật và Đạo là hai trường phái tu luyện, là hai thể hệ hoàn toàn khác nhau, vậy nên ở đây không so tài cao thấp. Câu nói của Bồ Tát chỉ là lời trách mắng Ngộ Không khi dám mạo phạm đến Trấn Nguyên đại tiên.
Nhưng có một điểm, Đạo gia chú trọng thanh tu, tu luyện trong tĩnh, và thường là tu đơn độc, hướng đến giải thoát tự thân. Còn Phật gia chú trọng tu Thiện, vì tu Thiện nên họ có thể xuất tâm từ bi, không chỉ cứu độ bản thân mà còn phát tâm Bồ Đề phổ độ chúng sinh.
Ở đây cũng cần nhấn mạnh rằng, trong “Tây Phương Tam Thánh” thì Quan Âm Bồ Tát là hiện thân cho lòng Từ Bi của chư Phật [2]. Bởi vậy, nước Cam Lồ của Bồ Tát là sinh xuất từ tâm từ bi, nên hiển nhiên sẽ khác với “viên đan lúa mạch” của ba vị tiên chốn Bồng Lai, cũng khác với “cửu chuyển Thái Ất linh đơn” của Đế Quân – vốn là linh dược của những người tu Đạo.
Nói về nguồn gốc của nước Cam Lồ, có một truyền thuyết kể rằng: Khi Bồ Tát vẫn đang tu luyện giữa thế gian, Ngài đã phải trải qua biết bao nhiêu ma nạn, đã nếm đủ mọi cái khổ trong những cái khổ của người đời.
Một ngày, Phật Tổ hiển linh trao cho Ngài chiếc bình Bạch Ngọc Dương Chi, dặn rằng con cần tu tới khi trong bình nở hoa, gọi là Cam Lộ Dương Chi, lúc đó mới thực sự thành chánh quả, phép thuật vô biên.
Chúng ta biết rằng nước Cam Lồ ấy phải được đựng trong bình ngọc thanh tịnh và phải dùng cành dương liễu thì mới có khả năng rưới mát chúng sinh. Nghĩa là, ở đây phải có sự kết hợp của ba yếu tố:
Nước Cam Lồ (甘露): là thứ nước thánh tinh khiết, rất trong, mát, và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được – tượng trưng cho lòng từ bi, nghĩa là “Thiện”.
Cành dương liễu (楊柳): là loại cây vừa mềm vừa dẻo, có thể tùy duyên mà không chịu khuất phục, có thể thuận theo ngoại cảnh mà không bị cảnh chi phối. Cành dương liễu mềm dẻo mà lại kiên cường, tượng trưng cho đức nhẫn nhục và chịu đựng, nghĩa là “Nhẫn”.
Bình tịnh thủy (净瓶): là bình ngọc hoàn toàn thanh tịnh chỉ có ở nơi Phật giới, và phải đạt đến độ thánh khiết như bình ngọc thì mới có thể được dùng để đựng nước Cam Lồ. Khi cứu cây Nhân sâm, Bồ Tát cũng nói rằng: “Nước này những vật thuộc ngũ hành không được phạm vào, mà phải lấy bầu ngọc múc nước (…)”. Như vậy, bình tịnh thủy là tượng trưng của “Chân”.
Ví như có Thiện tâm, có mong muốn phổ độ chúng sinh nhưng lại không thể nhẫn nhục, không thể chịu khổ thì làm sao cứu độ được con người? Cũng ví như có đức Nhẫn cự đại, có ý chí kiên cường nhưng bản thân không phát tâm từ bi thì làm sao bước ra độ nhân được? Và ví như đã đầy đủ cả Thiện, cả Nhẫn, nhưng lại không mang tâm thuần tịnh, tâm ý không đủ thuần khiết thì việc cứu người có làm mà chẳng nên công cán gì…
Vậy mới nói, thứ “linh dược” thần thánh nhất là thứ linh dược sinh xuất ra khi hội tụ đầy đủ cả Chân, Thiện và Nhẫn. Chỉ có thiện tâm lớn lao và lòng từ bi cự đại, được gìn giữ trong đức tính chân thật, kinh qua đức nhẫn nhịn trong quá trình tu luyện gian nan, thì mới có thể làm nên những kỳ tích thần kỳ.

Chú thích:
[1] Trong nguyên tác “Tây Du Ký” của Ngô Thừa Ân, cụm từ này là “我也讓他三分”, nghĩa là “ta cũng phải nhượng bộ ông ấy ba phần”.
[2] “Tây Phương Tam Thánh” bao gồm Phật A Di Đà, Đại Thế Chí Bồ Tát, và Quan Âm Bồ Tát, trong đó Bồ Tát Đại Thế Chí tượng trưng cho Trí Huệ, còn Bồ Tát Quan Âm tượng trưng cho Từ Bi của Đức Phật. Trong tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh” thì Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 1): Vì sao Tôn Ngộ Không quyết rời Hoa Quả Sơn lên đường vân du tìm Đạo?

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài viết này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả góp ý, thảo luận.
Trong cả trường thiên 100 hồi của Tây Du Ký, phần hấp dẫn độc giả nhất chính là bảy hồi đầu – kể về sự ra đời của Tôn Ngộ Không và cuộc đại náo thiên cung. Đáng chú ý là câu chuyện Tôn Ngộ Không thác sinh từ tảng đá trên Hoa Quả Sơn. Đằng sau câu chuyện này là những ngụ ý sâu xa…
Tôn Ngộ Không thác sinh từ tảng đá
Mở đầu Tây Du Ký là bài thơ rằng:
Thuở hoang sơ đất trời chưa tỏ.
Chốn mênh mông nào có bóng người.
Từ khi Bàn Cổ ra đời.
Đục trong phân biệt, khác thời hỗn mang.
Che chở khắp nhờ ơn trời đất.
Phát minh ra muôn vật tốt thay.
Muốn hay tạo hóa công dày,
“Tây du” truyện ấy đọc ngay đi nào.

Hầu hết chúng ta đều tập trung vào hai câu thơ cuối cùng mà cho rằng tác giả đang hứa hẹn, rằng có rất nhiều thiên cơ được gửi gắm trong tác phẩm này. Điều này không sai, nhưng dường như chúng ta đang quên mất đây thực chất là lời giới thiệu về khởi nguồn của vũ trụ. Thật vậy, ngay từ đầu Tây Du Ký đã đưa chúng ta đến một không gian cao xa và rộng lớn vô tỉ: Đó chính là câu chuyện của vũ trụ, là pháp lý của vũ trụ rộng lớn, chứ không phải chỉ là thần thoại về một con khỉ đá chốn nhân gian. Tất cả những gì được bàn đến sau này, từ chuyện Tôn Ngộ Không tầm sư học đạo, cho đến lúc phò giá Đường Tăng sang Tây Thiên, kỳ thực, chỉ là mượn hành trình thỉnh kinh để bàn luận về các pháp lý tu hành, cũng là các nguyên lý bên ngoài cõi thế gian.
Thật vậy, ngay từ đầu Tây Du Ký đã đưa chúng ta đến một không gian cao xa và rộng lớn vô tỉ.

Theo đó, đoạn mô tả ngay bên dưới bài thơ đã giảng giải về khởi nguồn của vũ trụ. Vì phần này khá dài, ở đây chỉ lược trích một đoạn nhỏ. Bắt đầu từ vũ trụ hỗn nguyên tới khi thành hình:
“Đến đây, trời bắt đầu có rễ. Lại trải qua năm nghìn bốn trăm năm, đúng vào hội Tý, những thứ nhẹ trong bay lên, có mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Mặt trời, mặt trăng tinh tú gọi là tứ tượng. Cho nên nói rằng: Trời mở ở Tý. (…) Lại trải qua bốn nghìn năm trăm năm, đúng vào hội Sửu, những thứ nặng đục ngưng xuống. Có nước, có lửa, có núi, có đá, có đất. Nước, lửa, núi, đá, đất gọi là ngũ hành. Cho nên nói rằng: Đất mở ở Sửu. (…) Đến đây trời, đất sáng sủa, âm dương giao hòa, Lại trải qua năm nghìn bốn trăm năm, đúng vào hội Dần, sinh người, sinh thú, sinh chim, gọi là tam tài, gồm Thiên, Địa, Nhân định vị. Cho nên nói rằng: Người sinh ra ở Dần”.[1]
Kết thúc bằng kết cấu của vũ trụ – gồm có tứ đại bộ châu: (1) Đông Thắng Thần Châu, (2) Tây Ngưu Hạ Châu, (3) Nam Thiệm Bộ Châu, (4) Bắc Câu Lư Châu. Kết cấu và tên gọi các đại bộ châu này cũng giống với những gì được giảng trong tôn giáo, chỗ này hiển nhiên không phải là một sự trùng hợp vô tình.
Tiếp đó, Tây Du Ký chuyển sang kể về tảng đá tiên trên Hoa Quả Sơn, từ đó sinh ra một con khỉ đá.
“Có lẽ từ khi sinh ra, tảng đá cảm thụ linh hoa của trời đất, của mặt trời, mặt trăng nên mới linh thông được. Trong tấm đá lại có một tiên thai. Một hôm tấm đá nứt đôi, sinh ra một trứng đá, to bằng quả cầu lớn, gặp gió hoá ra con khỉ đá, đủ mặt, mũi, chân, tay. Con khỉ đá liền học cào, học chạy, vái lạy bốn phương, hai mắt có hào quang sáng rực lên tận trời, làm kinh động đến Ngọc Hoàng Thượng Đế lúc ấy đang ngự ở điện Linh Tiêu cùng các vị tiên”.

Thạch hầu có lai lịch không hề tầm thường, cũng tức là được Thiên Địa hoá dục mà thành, sinh ra đã mang sẵn tinh hoa của đất trời.

Ngô Thừa Ân đang say sưa mô tả về vũ trụ, về “con người sinh ra ở Dần”, vì sao lại chuyển sang kể về sự ra đời của Tôn Ngộ Không? Bề mặt thì như đang chuyển chủ đề, kỳ thực ở đây ẩn chứa một Pháp lý được giảng trong Đạo gia: Từ khi trời đất mới phân chia, vũ trụ mới thành hình, thì con người cũng là một lạp tử trong vũ trụ, cùng với vũ trụ mà xuất sinh. Bản mệnh chân chính của con người chính là sinh ra trong không gian vũ trụ, cũng tức là tinh hoa của vũ trụ kết thành.
Lại nói, thạch hầu mới sinh ra đã có hào quang sáng rực tới trời xanh, nhưng chỉ cần rửa mắt bằng nước của thế gian này thì hào quang sẽ biến mất. Điều ấy nói nên rằng, con người sinh ra ai ai cũng có thiên tính, ai ai cũng mang theo đặc tính vũ trụ là thuần thiện, thuần nhẫn, thuần chân. Nhưng hễ bước chân vào xã hội, trải qua năm tháng ngụp lặn giữa dòng đời, cái thuần khiết ban sơ sẽ bị che lấp bởi “ganh ghét”, “đua chen”, “giả dối”, “phỉnh lừa”, “giận dữ”, “xấu xa”… Chính những thói hư tật xấu nơi thế tục đã ngăn cản cặp mắt của con người, không cho chúng ta nhìn thấy được thiên giới. Cũng tức là, con người đã bị nhuộm đen trong dòng chảy lớn của xã hội người thường, vĩnh viễn không thể trở về thiên quốc chân chính của mình.
Thấu hiểu lẽ Bồ Đề, vân du đi tìm Đạo
Trong Tây Du Ký, mỗi khi chứng kiến cái vô thường của kiếp người và cái phù du của kiếp nhân sinh, thì Tôn Ngộ Không lại xuất tâm tu luyện. Khi còn làm Hầu vương ở Hoa Quả Sơn, Tôn Ngộ Không vì thấu hiểu quy luật sinh-tử mà quyết tâm “đi khắp góc biển chân trời, tìm cho được ba đấng ấy (Phật, tiên, thần thánh), học lấy phép sống mãi không già”. Một lần khác là sau khi náo loạn Thiên cung, bị đè dưới núi Ngũ Hành, dầm sương dãi nắng, 500 năm tuế nguyệt phong ba, Ngộ Không cuối cùng đã quy chính thân tâm, phò tá Đường Tăng sang Tây Thiên thỉnh kinh. Đó cũng chính là điều mà cả Phật gia và Đạo gia vẫn giảng xưa nay: Khi con người rơi rớt đến cõi mê này, lầm lạc trong xã hội người thường thì con đường duy nhất để quay trở về chính là tu luyện.
Khi còn làm Hầu vương ở Hoa Quả Sơn, Tôn Ngộ Không vì thấu hiểu quy luật sinh-tử, thấu hiểu lẽ trời rằng phải tu luyện thì mới có thể quay trở về bản tính lương Thiện và về với Thiên Quốc của mình.
Bình thường, bất cứ ai sống một cuộc sống thoải mái cũng không nghĩ đến tu luyện. Con người mê đắm trong những thú vui hưởng lạc của thế gian trần tục: Này thì giàu sang phú quý, này thì quyền lực công danh, này thì tình yêu lãng mạn, này thì gia đình ấm êm… Trên đời này có bao nhiêu cái phúc, hưởng còn chưa hết, dại gì mà nhọc thân đi tu làm chi? Ấy là người thường nghĩ như vậy. Cho nên Phật gia mới cho rằng xã hội nhân loại là “cõi mê”, khiến người ta say đắm trong mộng ảo mà quên mất bản nguyện chân chính của mình là tu luyện trở về thiên quốc.
Tuy nhiên, thạch hầu lại có một căn cơ rất tốt. Dẫu làm vương của bầy khỉ trên Hoa Quả Sơn, “sung sướng ở nơi phúc địa non tiên, thần châu cổ động, không chịu kỳ lân cai trị, không chịu phượng hoàng quản lý, lại chẳng bị vua chúa nhân gian câu thúc, tự do tự tại, thực là vô cùng hạnh phúc”, nó lại tự biết sinh mệnh vô thường mà quyết tâm cầu đạo – Điều này càng tỏ rõ ngộ tính rất cao. Câu nói của một con vượn trong bầy: “Đại vương biết lo xa như thế, vậy là Đạo tâm đã khai phát rồi đấy!” chính là ám chỉ điều này.
Câu chuyện Hầu vương tầm sư học Đạo cũng là điều đáng để bàn luận. Trong truyện kể rằng, Mỹ hầu vương từ Đông Thắng Thần Châu, đi qua Nam Thiệm Bộ Châu, cuối cùng tìm được Tu Bồ Đề Tổ Sư ở Tây Ngưu Hạ Châu. Con đường xa xôi thế này dù sao cũng là quá trình một người cầu Đạo trải qua. Nói Bồ Đề Tổ Sư ở Tây Ngưu Hạ Châu, vậy rốt cuộc đó là chốn nào? Như trên đã nói, tứ đại bộ châu nằm trong kết cấu của vũ trụ, vậy có phải Ngộ Không đang vòng quanh “vũ trụ” để tìm thầy hay không?
Tôn Ngộ Không vượt đường xa xôi gian trở cũng là quá trình một người cầu Đạo phải trải qua.

Đạo gia giảng rằng, “thân thể người là một tiểu vũ trụ”. Vậy thì, Ngộ Không đang tìm thầy ở vũ trụ bên ngoài hay là ở vũ trụ bên trong thân thể của chính mình? Trong truyện viết là, Tổ sư ngụ ở núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh. “Linh đài” là cách gọi của đạo Lão về chữ Tâm; còn “Tà Nguyệt Tam Tinh” (trăng khuyết và ba vì sao), chẳng phải chính là ba nét chấm và một nét móc nằm ngang của chữ “Tâm” (心) đó sao?
Câu nói này rất phù hợp với cách nói của Phật gia là: “Phật tại tâm trung”, ý là nói phải hướng nội mà tu, hướng vào trong tâm của mình mà tu, thì mới tu thành Phật được. Tu Phật là tu ở tâm, Ngộ Không phải đi khắp bốn biển cùng non, trải qua bao mưa gió, cuối cùng hướng vào tâm mình mới ngộ được chân Pháp chân Đạo.
Vậy sư phụ Bồ Đề Tổ Sư của Tôn Ngộ không là ai? Ông lẽ nào lại có thể ở trong tim của Hầu vương? Kỳ thực, “Bồ đề” là dịch âm từ tiếng Phạn, viết là Bodhi, nghĩa là “tỉnh thức”, “giác ngộ”. Trong kinh Kim Cương cũng nhắc đến “tâm Bồ Đề” với nghĩa chỉ bản tính tiên thiên thuần khiết của con người, cho nên quá trình Ngộ Không đi tìm vị Tổ Sư này chẳng phải chính là quá trình tu tâm, quá trình tìm về bản tính chân thật của mình hay sao?
Loạt bài “Cảm ngộ Tây Du” kỳ 1 xin khép lại tại đây.
Thanh Phong – Hồng Liên

Chú thích:
[1] Theo bản dịch Tây Du Ký của dịch giả Như Sơn, Mai Xuân Hải, và Phương Oanh, NXB Văn Học Hà Nội. Trong một số bản dịch tiếng Việt khác, đáng tiếc là phần này đã bị lược bỏ.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 2): Ngụ ý thâm sâu đằng sau tên của 3 đồ đệ Đường Tăng

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trong Tây Du Ký, có những chi tiết lặp đi lặp lại, ẩn chứa rất nhiều huyền cơ nhưng lại không được nhiều người liễu giải. Đó chính là pháp hiệu của ba đồ đệ Đường Tăng.
Và hãy cùng nhìn lại tên gọi của ba đồ đệ, ta sẽ thấy có rất nhiều điều thú vị bên trong: Tên gọi của Ngộ Không là do Bồ Đề Tổ Sư đặt, trong khi Bát Giới và Sa Tăng là do Bồ Tát đặt tên, vì sao cùng mang một chữ “Ngộ”? Điều này có phải ngẫu nhiên chăng? Ý nghĩa của ba tên gọi ấy là gì? Và cuối cùng, huyền cơ nào ẩn chứa đằng sau những pháp hiệu ấy?
Trước hết, hãy bắt đầu bằng “Ngộ”
Chỉ một chữ “Ngộ” ấy thôi, nhưng quả thực hàm nghĩa lại vô cùng sâu sắc. Dẫu là Phật gia hay Đạo gia, thì đều dựa vào ngộ mà tu lên, dựa vào ngộ mà minh bạch Pháp lý, và cũng dựa vào ngộ mới có thể thăng hoa. Có những bậc cao tăng hay đạo sĩ, dẫu đi hết cả một đời tu luyện, thậm chí là nhiều đời, thì cũng chưa thể thấu triệt đến tận cùng của cái “Ngộ” ấy.
Chữ 悟(ngộ)được cấu thành bởi hai phần là chữ 忄(tâm) và chữ 吾 (ngô). Chữ 忄(tâm) biểu thị cho trái tim và chữ 吾/wú/ (ngô) là bản ngã. Do đó 悟 (ngộ) có nghĩa là tận trong tim của một người hiểu được bản ngã chân chính và bản chất của sự vật trong cái nhìn bao quát.

Vì sao chữ “Ngộ” ấy lại quan trọng đến thế? Bởi vì con người sống trong mê, hết thảy mọi thứ ở cõi thế gian đều là huyễn hoặc, là mộng ảo, nhưng lại làm người ta mê đắm. Địa vị dẫu cao sang, công danh dẫu hiển hách, ái tình dẫu mặn nồng, thì đến lúc trăm tuổi lâm chung, hết thảy đều vụt tan như mây khói, người ta chẳng mang theo được thứ gì bên mình. Vật chất ấy, tiền tài ấy, danh lợi ấy, ai cũng biết đó là phù du, nhưng vẫn cứ vì nó mà một đời tranh đấu. Sống giữa cõi mê người ta rất dễ lầm lạc trong đó, vậy nên chỉ bằng cách trong mê mà ngộ, trong mê mà tu, mới có thể phân biệt chính – tà, nhìn ra chính lý, giữ được chính kiến, cuối cùng là thành tựu chính mình. Chẳng phải Thái tử Tất Đạt Đa cũng từng từ bỏ vương vị chốn hoàng cung mà tìm ra con đường đắc đạo, cuối cùng trở thành Phật Như Lai đó sao? Ấy cũng là nhờ vào “Ngộ” vậy…
Tây Du Ký là tác phẩm của người tu hành và cũng viết về tu hành, vậy nên mới nhấn mạnh vào “Ngộ”. Pháp lý dẫu bày ngay trước mắt, Thiên cơ dẫu đã được giảng ra, nhưng nếu không ngộ thì vẫn không thể đề cao lên được. Trên bước đường tu luyện, có rất nhiều điều là không thể trông chờ sư phụ đến dắt tay chỉ điểm, mà là phải tự ngộ mới có thể đề cao chính mình.
Vậy thì trong pháp hiệu của ba đồ đệ, chữ “Ngộ” ấy có thể hiểu là: Người tu cần phải ngộ về “Năng”, về “Tĩnh”, và về “Không”, cũng chính là ba cảnh giới của một người tu luyện.
Vậy, như thế nào là “Năng”, như thế nào là “Tĩnh”, và như thế nào là “Không”?
1. Trư Ngộ Năng
Hãy nói về pháp hiệu của Bát Giới, là Trư Ngộ Năng. Chữ “Trư” nghĩa là lợn, tượng trưng cho dục vọng của người tu luyện; Còn chữ “Năng” (能) ở đây nghĩa là tài năng, bản lĩnh, và khả năng. Vậy, vì sao Bát Giới cần phải ngộ về ‘khả năng’ của mình?
Kỳ thực, Bát Giới vốn là bậc thần tiên, khả năng tuyệt đỉnh, từng giữ chức Thiên Bồng Nguyên Soái chỉ huy 8 vạn thủy binh trên Thiên Hà. Lại nữa, trong 108 phép thiên cang địa sát của Đạo gia thì Ngộ Không đã từng học 72 phép địa sát, còn Bát Giới lại tinh thông 36 phép thiên cang, có thể nói là vô cùng lẫm liệt oai phong.
Thế nhưng trong ba sư đồ thì Bát Giới dường như lại là người “kém cỏi” nhất, không chỉ mang hình hài “nửa lợn, nửa người”, mà còn hội tụ đầy đủ nhân tâm và những thứ dục vọng của người thường, như lười biếng, tham ăn, háo sắc, lại hay ghen tị và thích đặt điều nói xấu huynh trưởng đồng môn. Vậy nên Đường Tăng mới đặt ra cái tên “Bát Giới”, ý tứ là cần phải thực hiện được tám điều giới luật của nhà Phật thì mới có thể tu thành.
Cũng chính vì không giữ đạo hạnh, buông thả nhân tâm, nên Bát Giới khó có thể phát huy các thần thông vốn có của mình, lại thường hay thoái lui trong các cuộc trừ yêu diệt quái. Đến cuối bước đường tu luyện, cũng chính những nhân tâm dục vọng ấy đã khiến Bát Giới không thể thành Phật, chỉ có thể đắc được một chút ít phước báo mà thôi.
Trư Bát Giới hội tụ đầy đủ nhân tâm và những thứ dục vọng của người thường, như lười biếng, tham ăn, háo sắc, lại hay ghen tị ,nên không thể tu thành Phật mà chỉ đắc được phúc báo.
Trong nguyên tác kể rằng:
Như Lai nói: “(…) Tuy tính ương vẫn còn, sắc tình chưa hết, nhưng dọc đường gánh hành lý có công, gia phong nhà ngươi chức chính quả là Tịnh Đàn Sứ Giả”.
Bát Giới miệng lầu bầu: “Mọi người đều thành Phật, tại sao chỉ mỗi mình con là Tịnh Đàn Sứ Giả?”
Như Lai lại nói: “Tại nhà ngươi ăn khỏe tính lười, dạ dày to lắm. Mà khắp bốn đại bộ châu trong thiên hạ, những nơi ngưỡng mộ đạo ta rất nhiều, phàm các việc Phật, ta giao cho nhà ngươi làm tịnh đàn, cũng là một chức phẩm có được ăn uống, sao lại không tốt?”

Như vậy, từ pháp hiệu “Trư Ngộ Năng” có thể thấy rằng: Nếu người tu luyện vẫn còn ôm giữ các loại dục vọng và tính xấu của người thường, thì lại càng cần phải ngộ về “Năng”. Bởi dẫu họ tài năng đến đâu, bản lĩnh đến nhường nào, nhưng nếu không giữ gìn giới luật, không tu chính nhân tâm, thì sẽ không thể phát huy khả năng vốn có của mình.
2. Sa Ngộ Tĩnh
Sa Ngộ Tĩnh, còn gọi là Sa Tăng, vì trấn giữ sông Lưu Sa nên lấy tên họ là “Sa”, nghĩa là cát. Thế còn “Tĩnh”? Chúng ta vẫn quen gọi là “Tĩnh”, kỳ thực trong nguyên tác là chữ “Tịnh” (淨), nghĩa là trong sạch, thuần khiết, thanh tịnh, là một cảnh giới mà người tu hành cần đạt được. Vậy vì sao Sa Tăng cần ngộ đến chữ “Tịnh” này?
Trước khi được Bồ Tát thu phục, Sa Tăng là một yêu quái trên sông Lưu Sa, đã từng sát sinh hại mệnh, nghiệp lực chất chồng như núi.
Trong nguyên tác kể rằng:
Trông thấy Quan Âm, yêu quái sụp lạy rồi nói: “(…)Tôi đói khát không chịu nổi, chẳng biết làm thế nào, nên cứ khoảng hai ba ngày phải nhảy ra ngoài làn nước, bắt người đi đường ăn thịt. Không ngờ hôm nay vô ý gặp được Bồ tát đại từ đại bi.
Bồ tát nói: “Nhà ngươi từ thiên đình bị đày xuống đây mà còn mắc tội giết người, thì thật tội càng thêm nặng. Nay ta vâng lệnh Phật Tổ, sang phương Đông tìm người lấy kinh, sao nhà ngươi không gia nhập pháp môn của ta, quy y thiện quả, theo người lấy kinh làm đồ đệ, sang phương Tây lễ Phật cầu kinh? (…)”
(…) Bồ tát bèn xoa đầu yêu quái làm lễ thụ giới, lấy chữ Sa làm họ, ban cho một pháp danh là Sa Ngộ Tĩnh. Lúc ấy, yêu quái đã được vào hàng sa môn rồi, bèn tiễn đưa Bồ tát qua sông, và tu tâm sửa tính, không giết hại người nữa, một lòng đợi người đi lấy kinh.

“Tĩnh”, kỳ thực trong nguyên tác là chữ “Tịnh” (淨), nghĩa là trong sạch, thuần khiết, thanh tịnh, là một cảnh giới mà người tu hành cần đạt được.

Bất cứ người tu luyện nào cũng không thể “một tấc thành Thánh, một bước thành Tiên”, ai ai cũng bắt đầu từ người thường mà tu lên. Là người thường, thân mang đầy nghiệp lực, tâm đầy những ưu phiền, nên mới cần phải tẩy tịnh, làm trong sạch chính mình.
Tên gọi của Sa Tăng gợi liên tưởng đến một câu nói trong giới tu luyện: “Đại lãng đào sa”, ý tứ là tu luyện cũng giống như ‘sóng lớn cuốn cát đi’, trong suốt quá trình cần không ngừng loại trừ đi những thứ bất hảo để làm thanh tịnh cả tâm lẫn thân, cuối cùng đạt đến trạng thái kiền tịnh, thuần khiết, cao quý như vàng ròng. Đến cuối con đường thỉnh kinh, Sa Tăng đã được Phật Như Lai phong làm “Kim Thân La Hán” (La Hán Mình Vàng), cũng có thể hiểu chính là ý tứ này.
3. Tôn Ngộ Không
Khi đặt tên cho Ngộ Không, Bồ Đề Tổ Sư đã xuất phát từ chữ “Tôn” trong “Hồ Tôn” (猢猻), nghĩa là khỉ. Bởi Ngộ Không vốn là thạch hầu sinh ra từ đá tiên, tính cách cũng giống như loài khỉ, thích tự do bay nhảy và luôn náo động không ngừng.
Vậy còn “Không” thì sao? Phật gia thường giảng “Không”, còn Đạo gia giảng “Vô”. Dẫu là môn nào phái nào, thì đều coi “Không” là cảnh giới cao nhất để đạt đến viên mãn, đắc đạo. Nếu như “Tịnh” đã là một tầng thứ rất cao trong tu luyện – người tu có thể “tịnh” là đã có thể chế ước tất cả các tâm chấp trước, các loại dục vọng của người thường, không để bản thân bị dẫn động bởi nhân tâm, cũng chính là đã thoát ra khỏi sự trói buộc của tâm người thường – thì “Không” chính là hoàn toàn không có chấp trước, hoàn toàn không có nhân tâm. Chỉ khi đạt đến trạng thái “Không” này, người tu luyện mới có thể thực sự trở về với chân ngã và bản nguyên cao quý của chính mình.
Như vậy, Tôn Ngộ Không đã đạt tới tầng thứ rất cao, và yêu cầu đối với tu luyện cũng là tối cao: Đó là cần phải ngộ đến cảnh giới của tính “Không”.
“Không” chính là hoàn toàn không có chấp trước, hoàn toàn không có nhân tâm. Chỉ khi đạt đến trạng thái “Không” này, người tu luyện mới có thể thực sự trở về với chân ngã và bản nguyên cao quý của chính mình.
Điều này có ý nghĩa như thế nào?
Chúng ta đều biết rằng Ngộ Không thác sinh từ tảng đá tiên trên Hoa Quả Sơn, “cảm thụ linh hoa của trời đất, của mặt trời, mặt trăng”, được thiên địa hoá dục mà thành. Như vậy, Ngộ Không vừa sinh ra đã mang sẵn tinh hoa của đất trời. Căn cơ phi phàm là thế, nên ngay từ khi vừa mới bước chân vào tu luyện, Ngộ Không đã có thể hiển lộ tài năng, đạt đến một tầng thứ rất cao, có thể làm náo động thiên cung mà không một vị thần tiên nào thu phục được.
Vậy còn Bát Giới và Sa Tăng?
Trong hồi thứ 94, Bát Giới kể:
“Lão Trư kiếp trước cũng là người, nhưng nhất sinh chỉ ham vui chơi, biếng làm lụng, u mê mờ mịt, loạn tính dâm lòng, chẳng biết trời cao đất dày, khó nhận non xa biển rộng. Đang trong vòng u tối, bỗng gặp vị chân nhân. Nửa câu nói gỡ tung lưới nghiệt; dăm ba lời phá vỡ cửa mê. Khi ấy ta tỉnh ngộ, lập tức theo thầy, cần cù tu luyện công phu hai tám, kính cẩn rèn luyện sau trước ba ba, rồi được viên mãn siêu thăng bay lên thượng giới. Đội ơn dầy của Thượng Đế, ta được phong chức Thiên Bồng nguyên soái, tổng quan thủy binh, tiêu dao Vân Hán. Chỉ vì ở hội Bàn Đào ta uống rượu say, trêu ghẹo Hằng Nga, bị cách quan, đẩy xuống phàm trần, đầu thai nhầm thác sinh cửa lợn, chiếm cứ núi Phúc Lăng, gây nhiều tội ác. May gặp đức Quan Âm chỉ rõ đường lành, quy y cửa Phật, hộ vệ Đường Tăng sang phương Tây bái Phật cầu kinh (…)”
Còn đây là quá trình tu luyện của Sa Tăng:
“Lão Sa vốn cũng là hạng phàm phu, vì sợ luân hồi phải đi tìm đạo, ngao du nơi góc biển, phóng đãng chốn chân trời, thường được y bát tùy thân, luôn luyện tâm thần tự tại. Bởi chứng có lòng thành nên gặp được bạn tiên, âm dương di dưỡng, công phu đủ ba nghìn, hợp hòa đủ bốn tướng, siêu thăng lên thượng giới, lạy đức Ngọc Hoàng, được phong chức Quyển Liêm đại tướng, đứng hầu bên kiệu phượng xe loan, lại được phong hiệu tướng quân. Cũng vì trong hội Bàn Đào ta lỡ tay đánh vỡ chiếc chén bằng ngọc lưu ly, bị Thượng Đế đày xuống sông Lưu Sa, thay hình đổi dạng, gây ác hại người. May gặp đức Bồ Tát viễn du cỡi sông, khuyên ta quy y, đợi phật tử triều Đường sang Tây bái Phật cầu kinh sẽ thành chính quả”.


Như vậy, từ thân thế và con đường thành đạo của từng sư đồ, ta thấy rằng:
– Bát Giới vốn là hạng phàm phu tục tử, biếng lười trụy lạc, loạn tính dâm tòng. Xuất phát điểm như thế, nên Bát Giới trong quá trình tu luyện cũng phải đối mặt với hết thảy mọi nhân tâm và dục vọng. Vì căn cơ kém cỏi nhất, nên yêu cầu dành cho Bát Giới chỉ dừng lại ở “Ngộ Năng” và “Bát Giới”, cũng tức là cần gìn giữ giới luật, tu chính nhân tâm, mới có thể bước vào hàng sa môn.
– Sa Tăng cũng từng là hạng phàm phu, là người trần mắt thịt, nhưng lại có ngộ tính cao hơn Bát Giới. Không cần ai khuyên giải, mà tự ngộ ra cái khổ luân hồi nên quyết chí vân du đi tìm đạo. Mặc dù căn cơ rất bình thường, nhưng ý chí tu luyện lại cao hơn hết thảy, vậy nên yêu cầu dành cho Sa Tăng cũng cao hơn, đó là cần phải ngộ đến “Tịnh”, tiếp tục làm thanh tịnh thân tâm, cuối cùng đắc chính quả thành Kim Thân La Hán.
– Ngộ Không vốn dĩ đã có căn cơ phi phàm, vừa sinh ra đã đạt đến một tầng thứ nhất định, chỉ cần tiến tiếp thêm nữa là có thể viên mãn, đắc đạo. Bởi vậy yêu cầu dành cho Ngộ Không cũng là cao nhất, đó là cần đạt đến cảnh giới của một bậc Giác Giả, tu thành Phật Đà.
Có thể thấy, pháp hiệu của ba sư đồ là tương ứng với căn cơ, cảnh giới, và yêu cầu trong tu luyện, ‘căn cơ cao đến đâu thì yêu cầu đối với tu luyện cũng cao đến đó’. Một điều thú vị là pháp hiệu này cũng báo hiệu trước quả vị sẽ đạt được của từng người, ví dụ Ngộ Năng sẽ được phong làm Sứ Giả, Ngộ Tĩnh sẽ trở thành La Hán, còn Ngộ Không sẽ đắc quả vị Phật.
Pháp hiệu của ba sư đồ là tương ứng với căn cơ, cảnh giới, và yêu cầu trong tu luyện, ‘căn cơ cao đến đâu thì yêu cầu đối với tu luyện cũng cao đến đó’.

Và vẫn còn một điều thú vị khác nữa. Trong suốt 49 năm truyền Pháp, Đức Phật Thích Ca đã giảng ra rất nhiều pháp lý cao thâm. Những lời Phật giảng được tổng hợp trong hàng ngàn cuốn kinh thư. Nhưng dù thiên kinh vạn quyển, thì điều cốt lõi của Phật giáo đều được tóm lược trong ba chữ: Giới – Định – Huệ.
Giới là những giới luật mà người tu cần tuân thủ. Giữ vững Giới thì mới có thể Định; và cũng chỉ thông qua con đường đả toạ, định lực, mới có thể sinh Huệ, và Huệ ấy cũng chính là cảnh giới viên mãn của một bậc Giác Giả, là đích đến cuối cùng của con đường tu luyện.
Như vậy, pháp hiệu của ba đồ đệ cũng tương ứng với ba yêu cầu, ba cảnh giới, cũng là ba bước trong tu luyện Thích giáo: Ngộ Năng bắt đầu từ “Giới”, Ngộ Tĩnh ở tầng thứ của “Định”, và Ngộ Không cần đạt được “Huệ”. Đây là một tầng ý nghĩa, một tầng nội hàm khác trong tên gọi của ba đồ đệ Đường Tăng.
Loạt bài “Cảm ngộ Tây Du” kỳ 2 xin khép lại tại đây, hẹn gặp lại các bạn trong kỳ tiếp theo.
Hồng Liên

Từ Khóa:Cảm ngộ Tây Du Giải mã Tây Du Ký Tây Du Ký Tứ đại danh tác
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 3): Có Ngộ Không thần thông quảng đại, vì sao Đường Tăng vẫn phải đi bộ sang Tây Thiên?

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Chứng kiến hành trình thỉnh kinh 14 năm mưa dập gió vùi, rất nhiều người từng cảm thán:
‘Cả ba đồ đệ của Đường Tăng đều thần thông quảng đại, trong nháy mắt đã có thể đến nơi đất Phật, vì sao không cưỡi mây lướt gió đưa Đường Tăng sang Tây Thiên thỉnh kinh? Hà cớ gì cứ phải long đong lận đận, dầm sương dãi nắng, lội suối trèo đèo, kinh qua đủ mọi trắc trở, thu qua đông đến, cay đắng ngọt bùi, trải qua đủ 81 kiếp nạn làm chi?’.
Quả vậy, Cân Đẩu Vân của Tôn Ngộ Không có thể đi được mười vạn tám nghìn dặm, chỉ trong giây lát là đến Linh Sơn Phật quốc. Có lẽ chẳng cần đến Sa Tăng hay Bát Giới, chỉ một Cân Đẩu Vân ấy đã có thể mang đầy đủ kinh thư về Đông Thổ Đại Đường. 14 năm gió tuyết phong ba đã có thể rút ngắn lại chưa đầy một tích tắc, há chẳng phải quá tốt hay sao? Hầu hết những độc giả yêu thích “Tây Du Ký” đều có chung một thắc mắc này.
Đoạn hội thoại giữa Ngộ Không và Bát Giới, ở sông Lưu Sa.

Nhưng kỳ thực, câu hỏi ấy đã được Ngô Thừa Ân giải đáp ngay trong hồi thứ 22: “Bát Giới đại chiến sông Lưu Sa, Mộc Soa vâng lệnh bắt Ngộ Tĩnh
”. Lúc ấy, thầy trò Đường Tăng đã qua khỏi Hoàng Phong lĩnh thẳng tiến về phía Tây. Thời giờ thấm thoắt, hết hạ sang thu, chỉ thấy ve kêu liễu rủ, sao đại hỏa rời về Tây. Ba thầy trò đang đi thì nhìn thấy con sông mênh mông nước chảy, sóng vỗ nhấp nhô, chính là Lưu Sa Hà nơi thầy trò sẽ thu phục Ngộ Tĩnh. Bởi sông Lưu Sa quá rộng lớn, lại thêm yêu quái (Sa Tăng) cản đường, thầy trò không thể lập tức sang được bờ bên kia. Trong nguyên tác viết:
Hành Giả nói: “Chú hiểu làm sao được! Mỗi một cân đẩu vân của lão Tôn đi được mười vạn tám nghìn dặm. Năm bảy nghìn dặm đối với lão Tôn chỉ có hai cái gật đầu, một cái vặn mình là tới nơi, có gì là khó!”.
Bát Giới nói: “Này anh, nếu dễ như vậy, thì anh cõng quách sư phụ, gật đầu, cúi người vài cái là sang qua, việc gì phải đánh nhau vất vả với yêu quái nữa?”.
Hành Giả nói: “Chú cũng biết cưỡi mây, sao chú không cõng quách sư phụ đi?”.
Bát Giới nói: “Sư phụ thịt xương phàm tục nặng như núi Thái Sơn, tôi cõng làm sao được, phải nhờ cân đẩu vân của anh mới được.
Hành Giả nói:
“Phép cân đẩu vân của tôi cũng từa tựa như phép cưỡi mây vậy, chỉ có điều đi được xa hơn thôi. Chú không cõng được, thì tôi cũng chịu không cõng được. Từ xưa đã có câu nói: “Khiển Thái Sơn khinh như giới tử, huề phàm phu nan thoát hồng trần”[1] (Cắp Thái Sơn nhẹ như hạt cải, dắt người phàm khó thoát bụi hồng), đến như con yêu quái độc ác kia, dẫu có phép thuật cũng chỉ loanh quanh đi trên mặt đất thôi, không thể dắt nó lên trên không mà đi được. Những phép ấy lão Tôn này biết hết, kể cả phép tàng hình độn thổ nữa. Riêng sư phụ thì còn phải trải khắp các nước, chưa thể thoát khỏi bể khổ ngay được, vì vậy một tấc, một bước cũng khó. Chú và tôi chỉ là người đi bảo hộ, giữ gìn tính mạng thầy an toàn, chứ không gánh đỡ khổ não cho thầy được, mà cũng không tự lấy được kinh đâu, dù có đến trước gặp đức Phật, thì Phật cũng chẳng giao kinh cho chú và tôi. Thế mới gọi là: “Nhược tương dong dịch đắc, Tiện tác đẳng nhàn khan”[2] (Nếu có được quá dễ dàng, thì người ta chỉ coi đó là vật xem những lúc rỗi nhàn)”.

Đoạn hội thoại giữa Ngộ Không và Bát Giới, chỉ dăm ba câu nhưng đã trả lời cho câu hỏi chúng ta đang bàn đến: Vì sao Đường Tăng phải khó nhọc sang Tây Thiên thỉnh kinh? Và vì sao con đường ấy là phải trải qua trong ma nạn?
Đó là bởi…
1. Cắp Thái Sơn nhẹ như hạt cải, dắt người phàm khó thoát bụi hồng
Ý tứ của câu nói trên là, Đường Tăng dẫu sao cũng là người đang tu hành, thân xác phàm nặng nề hơn cả núi Thái Sơn, không thể dùng thần thông để quá độ sang Tây Thiên được.
Có một điều đặc biệt là, trong Tây Du Ký, không ít lần Ngô Thừa Ân dùng hình ảnh ngọn núi để nói đến thân xác phàm tục của con người. Một lần là khi Ngộ Không đạo náo thiên cung rồi bị đè dưới Ngũ Hành Sơn suốt 500 năm. Ngũ Hành là chỉ Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, Ngộ Không bị đè dưới Ngũ Hành cũng giống như bị chôn vùi nơi trần thế. Muốn thoát khỏi cõi hồng trần thì chỉ có tu luyện. Do đó chỉ duy nhất Đường Tăng mới có thể cứu Ngộ Không ra khỏi núi Ngũ Hành. Ý nghĩa ở đây không phải là Ngộ Không đã thoát khỏi cõi trần, mà là chủ thân thể đã bắt đầu tu luyện. Cũng vì lý do này, mà Ngũ Hành Sơn về sau được đổi thành Lưỡng Giới Sơn (ngọn núi giữa hai ranh giới) để ám chỉ giới tuyến trước và sau khi tu luyện.
Một lần khác là dùng hình ảnh Hoả Diệm Sơn để nói về trạng thái của người tu hành. Hoả Diệm Sơn là tâm hoả, dùng quạt Ba Tiêu để quạt nước mưa dập tắt lửa Diệm Sơn cũng chính là một lý trong Đạo gia: “Thủy hỏa ký tế”, mượn điều tức để đạt đến “bình tức tâm hỏa” (khiến lửa giận lắng lại). Còn lần này, thân xác phàm được so sánh với núi Thái Sơn, Bát Giới không cõng được, mà ngay cả Cân Đẩu Vân của Tôn Ngộ Không cũng không thể cõng cho được.
Vì sao lại như vậy? Phật gia giảng: Con người là đến trong “nghiệp cuộn lấy nghiệp”, người thường mang trên thân đầy nghiệp lực. Trong tôn giáo và các nền văn hoá cổ xưa cũng cho rằng, ở phương Đông, Nữ Oa dùng bùn dưới sông để nặn thành hình người, còn ở phương Tây thì Chúa Trời dùng đất sét để tạo ra Adam. Con người vẫn tự hào coi bản thân mình là cao quý, nhưng kỳ thực trong con mắt chư Thần thì hết thảy những gì nơi trần thế chỉ giống như bùn đất mà thôi.
Bởi con người quá mê mờ trong cát bụi phồn hoa, đắm mình trong cái hư vinh ảo ảnh ấy mà quên mất đường trở về nhà, nên Phật gia mới giảng về tu luyện, muốn thoát khỏi cõi hồng trần thì chỉ có tu luyện.
Trong kinh sách viết Phật quốc là lưu ly trong suốt, đâu đâu cũng là châu báu bạc vàng, những thiên nhân trong đó là thân kim cương từ hoa sen báu sinh ra, ai ai cũng mang đầy đủ 32 tướng hảo đại nhân, trí huệ vô biên, họ sống trong cõi cực lạc hưởng niềm vui thanh tịnh. Thân người dơ bẩn là thế trong con mắt chư Thần, trong khi Phật quốc và Thiên giới lại thánh khiết nhường ấy, vậy con người sao có thể mang xác phàm mà đến nơi Phật quốc? Nói một cách hình ảnh thì con người sinh ra từ bùn đất, cả cuộc đời lại lăn lộn trong bùn đất, khi chết đi rồi lại hoà tan vào bùn đất. Do đó người ta mới gọi đây là cõi “hồng trần” (紅塵), cũng chính là bụi bặm chốn trần ai.
Bởi con người quá mê mờ trong cát bụi phồn hoa, đắm mình trong cái hư vinh ảo ảnh ấy mà quên mất đường trở về nhà, nên Phật gia mới giảng về tu luyện. Nhưng hễ nói đến tu luyện thì rất nhiều người bèn lắc đầu xua tay, cho đó là điều mê tín. Kỳ thực, tu luyện không phải là bảo bạn hãy vứt bỏ thân quyến, vứt bỏ tiền tài, vào chùa quy y, mà chính là tu TÂM. Nếu bạn vẫn sống trong xã hội, vẫn làm các công việc như một người bình thường, nhưng cái tâm của bạn không bị mê đắm trong đó, không bị các loại lợi ích và cám dỗ dẫn dụ, bạn lại có thể bảo tồn được cái tâm thuần khiết tựa pha lê, thì chẳng phải cũng chính là “tu” sao?
Sống trong cám dỗ mà không bị cuốn vào vòng xoáy của cám dỗ, thì chẳng phải bạn đang thăng hoa, đạt tới cảnh giới của một bậc Thánh giả đó sao? Nhưng bởi vì con người quá chấp mê bất ngộ, nên mới nói rằng người vẫn còn mang nặng tâm phàm tục thì cho dù Thần tiên đến trước mặt cũng không thể cứu độ được. Do đó mới nói: “Cắp Thái Sơn nhẹ như hạt cải, dắt người phàm khó thoát bụi hồng”.
2. Nếu có được quá dễ dàng, chẳng khác vật xem lúc rỗi nhàn
Lại nói, vì con người là kẻ phàm phu tục tử nên mới cần phải tu luyện, và cũng chỉ có tu luyện mới có thể thăng hoa sinh mệnh, trút bỏ những thứ bùn lầy dơ bẩn để đạt đến sự thuần tịnh của thân tâm, sự thánh khiết của tâm hồn. Những Thiên nhân trên thượng giới, cũng vì phạm tội mà rơi rớt xuống trần gian rồi phải tu luyện mới có thể hồi thiên.
Ví dụ như, Đường Tăng vốn là một đệ tử của đức Phật Thích Ca, vì khinh mạn Phật Pháp nên mới phải đầu thai làm người để tu luyện; Bát Giới từng là Thiên Bồng Nguyên Soái trên Thiên Đình, vì trêu ghẹo Hằng Nga, phạm tội trời nên cũng phải xuống trần gian mà tu luyện; Sa Tăng cũng vậy, là Quyển Liêm đại tướng trông coi xe loan ở điện Linh Tiêu, vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly mà bị đày xuống hạ giới, sau đó phải tu luyện mới có thể trở về. Rất nhiều yêu ma quỷ quái trong truyện cũng như vậy, ví dụ như Hoàng Bào Quái vốn là Khuê Mộc Lang, một trong Nhị Thập Bát Tú, đã phạm luật Thiên Đình, vì động tình với ngọc nữ ở điện Phi Hương mà phải hạ trần, nhưng vì không tu luyện nên chỉ có thể làm yêu quái mà thôi.
Đường Tăng phải bước từng bước khó nhọc sang Tây Thiên mà thỉnh kinh, trải qua đủ 81 kiếp nạn thì mới xứng đắc được chân kinh.
Nhưng tu luyện ấy là gì? Chính là phải trải qua ma nạn. Một người phàm thân đầy nghiệp lực, muốn trở thành thần tiên thật gian khó biết bao!!! Xưa nay vẫn cho rằng, cái hiếm thì mới quý, cái khó đạt được thì mới khiến người ta trân trọng suốt đời. Con đường thỉnh kinh của Đường Tăng, chín chín tám mươi mốt kiếp nạn chúng ta đều đã biết, nay không nhắc lại nữa, mà chỉ mượn câu chuyện ví von này để nói về cái khó của tu hành:
Trong Kinh Trung Bộ viết, có người quăng một khúc cây xuống biển, trên khúc cây ấy lại có một cái lỗ. Một ngọn gió từ phương Đông thổi nó dạt về hướng Tây; một ngọn gió từ phương Tây thổi nó dạt về hướng Đông; một ngọn gió từ phía Bắc thổi nó trôi qua phía Nam; một ngọn gió từ phía Nam lại thổi nó trôi qua phía Bắc. Cứ thế, khúc cây lênh đênh trôi dạt trên biển. Trong biển ấy lại có một con rùa mù, 100 năm mới nhô đầu lên mặt nước một lần. Liệu, có khi nào con rùa ấy trồi lên có thể đút đầu vào đúng cái lỗ ấy được không? Xác suất này xảy ra mới thật hy hữu làm sao! Ấy vậy mà, thân người mất rồi, được sinh làm người trở lại còn khó hơn cả việc con rùa mù chui cổ vào lỗ cây ấy.
Hơn 2000 năm trước, chúa Jesus cũng từng nói với các tông đồ rằng, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn cả người giàu vào nước Thiên Chúa. Đó là để nói, tu luyện gian khó nhường nào. Thế nên, trong hơn 7 tỉ người trên thế giới, bao nhiêu người đủ can đảm để bước vào tu hành? Và trong con số ít ỏi ấy, lại có bao nhiêu người có thể thành Đạo? Xưa có câu rằng: Số xuất gia nhiều như lông trâu, nhưng người đắc Đạo lại chỉ như sừng thỏ (“Xuất gia như ngưu mao, đắc đạo như thố giác”).
Con người trong luân hồi lục đạo, được thân người đã chẳng dễ dàng; nếu may mắn đắc được thân người rồi, thì gặp chính Pháp chính Đạo cũng khó lắm thay; đã có cơ duyên tu trong chính Pháp, có thể viên mãn công thành, thì quả thực là một kỳ tích vĩ đại làm chấn động cả mười phương thế giới. Trong Tây Du Ký, Đường Tăng đã phải thốt lên rằng: “Nhân thân nan đắc, Trung thổ nan sinh, chính Pháp nan ngộ; toàn thử tam giả, hạnh mạc đại yên” nghĩa là: Thân người khó được, Trung thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!
Thế nên, Đường Tăng phải bước từng bước khó nhọc sang Tây Thiên mà thỉnh kinh, trải qua đủ 81 kiếp nạn thì mới xứng đắc được chân kinh. Ấy chính là:
Chân kinh ắt có chân nhân lấy, xác mệt tâm lao thả rỗng không
(“Chân kinh tất đắc chân nhân thủ, ý nhượng tâm lao tổng thị hư”[3]).
Hồng Liên
  • Chú thích:
[1] Nguyên tác, hồi thứ 22: 遣泰山輕如芥子,攜凡夫難脫紅塵
[2] Nguyên tác, hồi thứ 22: 若將容易得,便作等閑看
[3] Nguyên tác, hồi thứ 77: 真經必得真人取,意嚷心勞總是虛

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 4): Ai tạo ra gậy Như Ý của Tôn Ngộ Không và binh khí của Trư Bát Giới?

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trong Tây Du Ký, có những bảo vật mà nếu thiếu chúng, thì những yêu ma quỷ quái cũng không thể thiên biến vạn hóa đến như vậy. Thế nhưng, ít ai biết rằng đa số pháp khí ấy đều bắt nguồn từ một nhân vật vốn rất ít khi thể hiện mình…
Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại, bản lĩnh cao cường, trước thì làm loạn địa phủ, sau lại đại náo thiên cung, ngang tàng thách thức cả 10 vạn thiên binh và thần tiên trên thượng giới… nhưng vì sao vẫn phải lao đao trước các yêu quái tầm thường chốn nhân gian?
Phải chăng sau 500 năm giam dưới núi Ngũ Hành, pháp lực của Ngộ Không đã suy giảm? Hay là vì yêu quái trần gian còn siêu phàm hơn cả Đại Thánh? Đương nhiên không phải vậy! Yêu quái ấy, dẫu không thể sánh với Ngộ Không, nhưng lại có trong tay những thứ pháp bảo diệu kỳ.
Những pháp bảo ấy có gì đặc biệt?
Hãy cùng nhìn lại các pháp khí mà ta đã biết. Nếu không kể đến bảo vật của Thần Phật hay Bồ Tát, ví dụ như chén Lưu Ly của Như Lai, chiếc khánh vàng và túi nhân chủng của Đức Di Lặc, bát vàng Đại Thiên Am của Phật Thích Ca, hay cây Tích Trượng Cửu Hoàn mà Phật Tổ ban cho Đường Tăng… thì những thứ còn lại, đa phần đều bắt nguồn từ một nhân vật khá mờ nhạt trong truyện. Mặc dù không mấy khi thể hiện tài năng, nhưng những bảo vật được ông luyện thành lại là thứ pháp khí uy lực và mạnh mẽ nhất, khiến quỷ khóc thần sầu, ngay cả Ngộ Không cũng phải nhiều phen lao đao chống đỡ.
Nhân vật đặc biệt này, không ai khác, chính là Thái Thượng Lão Quân.
Không mấy khi thể hiện tài năng, nhưng những bảo vật của Thái Thượng lão Quân luyện thành lại là thứ pháp khí uy lực và mạnh mẽ nhất, khiến quỷ khóc thần sầu, ngay cả Ngộ Không cũng phải nhiều phen lao đao chống đỡ.
Từ những bảo bối trong tay yêu quái…
Một trong những bảo bối lợi hại nhất là Kim cương trác. Khi Ngộ Không đại náo thiên cung, khắp 10 vạn thiên binh cùng với tứ đại thiên vương cũng không thể bắt được. Đến khi Nhị Lang thần phải đích thân ra tay, cũng bất phân thắng bại. May nhờ có Lão Quân ném chiếc vòng kim cương xuống mới có thể giúp Nhị Lang trói bắt Ngộ Không.
Về sau, khi thầy trò đến núi Kim Đâu, yêu quái Thanh Ngưu cũng dùng chính chiếc vòng này để bắt mất Đường Tăng, cướp gậy Như Ý. Ngộ Không mời thiên binh đến giúp sức, chiếc vòng lại hút binh khí của Na Tra thái tử; mời Hỏa Đức tinh quân, nó cũng cuốn đi cả hỏa cụ; sau đó Như Lai phái 18 vị La Hán tới hỗ trợ, chiếc vòng cũng thu luôn cả Kim Đơn Sa của các vị La Hán.
Vậy hỏi vòng kim cương này từ đâu mà có? Cũng là do Lão Quân luyện thành, vậy nên nó mới có đầy đủ linh khí, biến hoá khôn lường, thuỷ hoả bất xâm, ngũ hành bất hoại.
Một bảo bối khác cũng không kém phần uy lực là chuông Tử Kim. Khi thầy trò tới Chu Tử quốc, biết chuyện hoàng hậu bị bắt cóc, Ngộ Không đã tới núi Kỳ Lân tìm yêu quái. Yêu quái nước này tên là Trại Thái Tuế, mặc dù không phải tài phép cao cường, nhưng lại có trong tay chiếc chuông Tử Kim: Hễ lắc cái thứ nhất, lửa sáng đốt người bốc cao ba trăm trượng; Hễ lắc cái thứ hai, khói đen hun người bốc cao ba trăm trượng; Hễ lắc cái thứ ba, cát vàng mê người cuốn cao ba trăm trượng.
Còn nếu rung chuông liền ba cái, thì trong giây lát, lửa đỏ, khói đen, cát vàng cuồn cuộn tuôn ra, khói lửa bừng bừng, bốc cao ngùn ngụt, khiến bất cứ ai cũng phải hồn bay phách lạc. Vậy mà khói lửa ấy vẫn còn chưa ghê gớm, chỉ có cát vàng mới thực là rất độc, lọt vào mũi ai, là người đó vong mạng.
Chiếc chuông Tử Kim này vốn là vòng nhạc đeo ở cổ con sấu lông vàng của Quan Âm Bồ Tát, nhưng cũng lại là một cực phẩm của Thái Thượng Lão Quân. Thơ rằng:
Thái thanh tiên chủ đạo nguồn sâu,
Bát Quái lò vàng luyện đã lâu
Đúc cái nhạc này là bảo bối,
Lão Quân lưu để mãi về sau.


Không riêng những pháp bảo kể trên, mà bất kể vật dụng nào liên quan đến lò Bát Quái của Lão Quân cũng đều trở thành thần khí. Ví dụ như quốc vương nước Ô Kê bị yêu quái hại chết đã nhiều năm rồi, thân thể chôn vùi dưới giếng bát giác xây bằng ngọc lưu ly, thì chỉ duy nhất viên “Cửu chuyển hoàn hồn linh đơn” luyện từ lò Bát Quái mới cứu sống được. Lại nữa, chiếc hồ lô dùng để đựng linh đơn và bình ngọc đựng nước của Lão Quân, thậm chí chiếc quạt Ba Tiêu (khác với quạt Ba Tiêu của Bà La Sát) dùng để quạt lò, v.v. cũng trở thành pháp khí có uy lực không gì sánh được.
…cho đến pháp khí của Ngộ Không và Bát Giới
Tất cả chúng ta đều biết đến sức mạnh vô song từ hai pháp khí của Ngộ Không và Bát Giới. Ngộ Không có thể chọc trời khuấy nước, làm nên những chuyện kinh thiên động địa, đều là nhờ cây gậy Như Ý này. Mà Bát Giới làm Thiên Bồng Nguyên soái thống lĩnh 8 vạn thủy binh ở Thiên Hà, cũng là nhờ có cây đinh ba bên mình. Nhưng ít ai biết rằng, hai thần khí ấy đều là do Lão Quân luyện thành.
Nói về gậy Như Ý, trong truyện viết rằng Như Ý Kim Cô Bổng vốn là khối thần thiết được Lão Quân chín lần nấu luyện. Tôn Ngộ Không cũng từng khoe rằng:
“Bổng thị cửu chuyển tấn thiết luyện,
Lão Quân thân thủ lư trung đoàn”
(Gậy sắt là thép tinh luyện qua chín lần,
Đích thân Lão Quân luyện trong lò)

Gậy Như Ý ấy, hai đầu bịt vàng, ở giữa là đoạn ô thiết có khắc hàng chữ “Như Ý Kim Cô Bổng, một vạn ba ngàn năm trăm cân”; có thể tùy tâm dài ngắn, biến hóa vi châm, lại có thể đỉnh thiên lập địa, chống trời chống đất, nhập giang hà hồ biển, khi lũ lụt lại có thể bình định về sau. Bởi vậy, lúc thiên hạ hồng thủy phiếm lạm, Đại Vũ đã đem Kim Cô Bổng đi trị thủy, sau đó ném vào Đông Hải, lấy ý Hải Hà vĩnh viễn cố, từ đó có tên gọi là Định Hải thần châm thiết.
Như Ý Kim Cô Bổng của Tôn Ngộ Không vốn là khối thần thiết được Lão Quân chín lần nấu luyện.
Cây đinh ba của Bát Giới cũng có lai lịch phi thường, bởi đây là thứ binh khí do chính tay Thái Thượng Lão Quân dùng thần băng thiết rèn nên, sau lại được Yết Đế năm phương gia trì. Có thơ làm chứng rằng:
Thứ này luyện bởi thép thần,
Công phu mài giũa sáng trưng một mầu.
Lão Quân rèn lấy trước sau,
Huỳnh Hoặc cũng nhận việc dấu cho than.
Ngũ phương Yết đế lo toan,
Lục Đinh, Lục Giáp coi làm tận nơi.
Chín chiếc răng ngọc rèn rồi,
Hai vòng đúc nữa vàng ngời sắc thanh.
Cán vẽ lục điệu ngũ tinh,
Bốn mùa tám tiết đủ hình không sai.
Ngắn dài gồm cả đất trời,
Âm dương, nhật nguyệt rạch ròi hai phương.
Sáu hào thần tướng theo đường,
Tinh tú tám quẻ dọc ngang theo hàng.
Đinh Ba tên gọi rõ ràng,
Dâng lên Thượng Đế giữ cung nhà trời.

Cây đinh ba của Bát Giới cũng có lai lịch phi thường, bởi đây là thứ binh khí do chính tay Thái Thượng Lão Quân dùng thần băng thiết rèn nên, sau lại được Yết Đế năm phương gia trì.
Lò Bát Quái của Thái Thượng Lão Quân
Nếu nói rằng hầu hết những pháp bảo mạnh mẽ nhất đều do Lão Quân nấu luyện, thì vinh dự này đều nhường cả cho chiếc lò Bát Quái huyền thoại của ông. Năm xưa, cũng nhờ có lò Bát Quái ấy mà Ngộ Không mới luyện thành mắt lửa ngươi vàng, mình đồng da sắt. Đây không chỉ là nơi chuyên luyện tiên đơn thánh thuỷ, giúp người trường sinh, mà bất kể thứ gì nấu luyện từ đó cũng đều trở thành pháp bảo!
Điều này có ngụ ý gì?
Khi bàn đến cái huyền cơ diệu lý của Tây Du Ký, có người bật cười cho là nhảm nhí: Rõ là thứ tào lao bốc phét! Cùng lắm cũng chỉ là trí tưởng tượng phóng túng của tác giả mà thôi, sao cứ phải tâng bốc lên thành đạo lý này, đạo lý nọ làm gì?! Người bình thường chỉ thấy chuyện thần thoại, thấy những cảnh trảm yêu bắt quái hấp dẫn ly kỳ; nhưng giới tu luyện lại phát hiện trong mỗi câu chuyện, mỗi hàng chữ, thậm chí mỗi tình tiết đều ẩn chứa Pháp lý cao thâm.
Chúng ta biết rằng, Tây Du Ký là tác phẩm của người tu hành, mà bản thân Ngô Thừa Ân tiên sinh cũng là đại học sĩ am hiểu cả Phật và Đạo. Có những điều là “bí mật trong những bí mật” vốn chỉ lưu truyền trong giới chân tu — ví dụ như “Nguyên anh”, “Chu thiên”, “Cửu chuyển kim đan thuật”… thì đều được Ngô Thừa Ân tiết lộ.
Nhưng vì “Thiên cơ bất khả lộ”, những bí mật ấy không thể đem ra nói rõ ràng, nên mới phải mượn câu chuyện thỉnh kinh để truyền tải. Ai ai cũng có thể đọc Tây Du Ký, nhưng chỉ người tu mới có thể lý giải được đôi phần. Vậy mới nói, thiên cơ chỉ có thể trao cho bậc chân tu là vì thế.
Vậy nên, lò Bát Quái của Lão Quân cũng là một ẩn ý về tu luyện. Lò Bát Quái ấy nằm ở đâu, tại cung Đâu Suất trên tầng trời thứ 33 chăng? Không phải vậy, thực ra nó nằm ngay tại bụng dưới trong thân thể con người, ở vị trí mà Đạo gia gọi là “đan điền”. Nói rằng lò Bát Quái có thể luyện thành bất kể loại pháp bảo nào, thì cũng phù hợp với nhận thức của Đạo gia về đan điền: Đó là nơi có thể xuất sinh hết thảy những thứ công năng, thần thông, và thuật loại của người tu.
Người luyện đan giảng ‘tu luyện nội đan, ý đặt tại đan điền’, người học khí công giảng ‘khí tụ đan điền, đan điền vận khí’, người tu Đạo giảng ‘khí trầm đan điền’, v.v., chung quy lại, thì mọi biến hóa và diễn luyện của người tu đều bắt nguồn từ khối điền này.
Xoay ngược trở lại mà nói, thì giới tu luyện cũng coi đan điền như “lò Bát Quái”. Trong cuốn cổ thư của Đạo gia là “Tính mệnh khuê chỉ”, bức đồ hình “Tẩy tâm thối tàng đồ” ( 洗心退藏圖) minh họa đan điền như chiếc lò Bát Quái trong cơ thể khi tu luyện nội đan.
Đồ hình “Tẩy tâm thối tàng đồ” trong “Tính mệnh khuê chỉ”
Vậy vì sao đan điền lại có được pháp lực lớn nhường ấy? Lẽ dĩ nhiên, đan điền là vị trí then chốt trong tu luyện, cất giữ rất nhiều bí mật huyền cơ mà chỉ những bậc cao nhân đắc Đạo mới thấu tỏ. Vậy nên, bằng chút hiểu biết hạn hẹp của mình, người viết chỉ xin đàm đạo với quý độc giả bằng đôi lời nông cạn…
Chúng ta biết rằng, con người là một thể hoàn chỉnh có đầy đủ cả Âm và Dương. Trong thân thể thì trên dương – dưới âm, trái dương – phải âm, sau dương – trước âm. Như vậy, đan điền nằm chính tại vị trí giao giới giữa âm và dương, cũng là nơi hội tụ và cân bằng âm dương trong cơ thể. Thân thể dù có cả âm và dương, nhưng người bình thường thì âm dương bất cân bằng: Nam thì chủ dương, nữ thì chủ âm; người khỏe mạnh vui vẻ hay bệnh tật u sầu cũng là do âm dương bất tương xứng. Bởi vậy nên trong tu luyện luôn chú trọng tu tính, luyện mệnh, đạt đến âm dương cân bằng.
Nếu không phải người tu luyện thì không thể làm chủ được âm dương. Trong quá khứ, Trương Tam Phong là người sáng lập phái Võ Đang, cũng là ông tổ của Thái Cực quyền và Thái Cực kiếm. Phái Võ Đang của Trương Tam Phong là thanh tu, coi trọng tu luyện nội đan, họ coi đan điền trong thân thể chính là “lư đỉnh” (lò nấu), thông qua tu luyện sẽ khiến cho âm dương cân bằng, “tinh, khí, thần” ngưng tụ lại mà kết thành “thánh thai”, cũng chính là thể kim cương bất hoại. Bởi vậy, bậc chân nhân Trương Tam Phong đã đạt đến trạng thái nóng lạnh không thể xâm hại, nhiều tháng dù không ăn uống vẫn có thể tự tại tiêu diêu.
Có người nói, vì sao Tôn Ngộ Không bị nhốt trong lò Bát Quái mà không bị thiêu đốt? Trong truyện giải thích là Ngộ Không may mắn chui vào cung Tốn, mà Tốn là Gió, nên mới tránh được lửa. Nhưng kỳ thực, đó là bởi lò Bát Quái ấy chính là đan điền; Ngộ Không nhốt trong lò Bát Quái cũng chính là đang tu luyện thân thể mình mà thôi.
Cũng chính nhờ “lò Bát Quái” của cơ thể ấy, mà người tu sẽ luyện thành thể kim cương bất hoại, cũng luyện thành hết thảy những pháp bảo, thần thông sau này…
Hồng Liên

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 5) – Vì sao Đường Tăng nói: ‘Thân người khó được, Trung thổ khó sinh, Chính Pháp khó gặp’?


“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Hồi thứ 64 kể rằng, Đường Tăng cuốn theo làn gió âm lạc vào am Mộc Tiên và gặp gỡ bốn vị lão nhân. Tại đây, Tam Tạng đã cùng họ đàm đạo, thưởng trà, ngâm thơ, trong đó có một câu nói đã trở thành kinh điển, hàm chứa nhiều huyền cơ.
Câu nói ấy là gì? Hãy cùng xem lại đoạn hội thoại giữa Tam Tạng và bốn vị lão nhân:
Bốn ông già đều ngợi khen nói: “Thánh tăng ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã theo Phật giáo, tu hành từ nhỏ nên quả là một bậc thượng tăng đắc đạo chân chính. Chúng tôi may mắn được gặp tôn nhan, thỉnh cầu đại giáo, mong được chỉ bảo cho một hai điều về Thiền pháp, thỏa nỗi ước mong”.
Tam Tạng nghe nói như vậy, điềm nhiên thẳng thắn trả lời các vị lão nhân rằng: “Thiền tức là tĩnh, Pháp tức là qua. Qua với cái tĩnh, không giác ngộ thì không thành. Ngộ tức là rửa lòng, giũ lo, xa trần thoát tục. Than ôi, thân người khó được, Trung thổ khó sinh, Chính Pháp khó gặp. Trọn vẹn cả ba điều ấy thì may mắn nào bằng”.

Nếu theo lời Đường Tam Tạng, thì may mắn lớn nhất của sinh mệnh, then chốt nằm ở ba điều: Đắc được thân người, sinh ở Trung thổ, gặp được Chính Pháp.
Điều thứ nhất và thứ ba, theo cách nhìn của Phật gia thì hoàn toàn có thể lý giải. Nhưng còn điều thứ hai, vì sao là ‘sinh ra ở Trung thổ’? Chắc chắn không thể suy đoán nông cạn rằng, vì đó là quê hương của Đường Tăng nên ông mới “thiên vị” mảnh đất này đến thế?!
Chúng ta biết, Ấn Độ cổ là quê hương của Đức Phật Thích Ca, cả bốn thánh địa linh thiêng của Phật giáo đều nằm ở nơi này, gồm có Bồ Đề Đạo Tràng (nơi Đức Phật giác ngộ), Lâm Tì Ni (nơi Đức Phật đản sanh), vườn Lộc Uyển (nơi Đức Phật lần đầu thuyết Pháp), và Câu Thi Na (nơi Đức Phật nhập niết bàn). Bản thân Đường Tăng cũng phải ròng rã lặn lội sang Tây Thiên mới thỉnh được chân kinh. Vậy cớ gì thác sinh ở Trung thổ, chứ không phải Tây Thiên đất Phật, lại là diễm phúc của đời người?
Nếu như có thể có được thân người, gặp được Chính Pháp, hạ sinh nơi đất lành Chân Phật hạ thế vậy còn gì quý giá hơn.
“Trung Thổ” – miền đất ở phương Đông
Trong lịch sử Phật giáo, Bồ Đề Đạt Ma tổ sư của phái Thiền tông Trung Quốc vốn là cao tăng nước Thiên Trúc. Vì sao ông lại đến Trung Hoa truyền Pháp? Ấy là bởi khẩu dụ của Tổ Bát Nhã Đa La: Vùng Trung Quốc Đông Thổ ấy là một nơi đặc biệt, con hãy truyền Pháp về phương Đông!
Lại nói, trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, Ngài đã căn dặn đại đệ tử Ca Diếp của mình rằng:
“Ta nay đã già yếu và đã ngoài 80 tuổi (…) Đại Ca-diếp hãy khoan nhập Bát-niết-bàn, ông hãy đợi đến khi Đức Di-lặc xuất hiện ở thế gian” — (trích Kinh Di Lặc hạ sanh).
Và quả vậy, đại đệ tử Ca Diếp của Đức Phật Thích Ca đã y theo lời dặn, ông phát nguyện: “Nguyện thân ta không bị hư hoại, sau khi Đức Di Lặc thành Phật, thân cốt này sẽ vẫn tồn tại, từ nhân duyên đó độ hóa chúng sanh”. Nói rồi, ông bước vào trong tảng đá trên đỉnh Kê Túc như bước vào bùn mềm. Tới nay đã qua hơn 2500 năm rồi, ông vẫn ngồi tọa thiền ở đó chờ Phật Di Lặc giáng sinh.
Kê Túc Sơn nằm ở đâu? Tương truyền là ở Vân Nam, Trung Quốc, tức là Trung thổ. Còn Phật Di Lặc cũng là vị Phật đến từ phương Đông, được gọi là “Đông Lai Phật Tổ” – trong Tây Du Ký hồi thứ 66 cũng chỉ rõ điều này.
Vậy nếu Đức Di Lặc sẽ đến nhân gian, thì Phật Pháp mà Ngài truyền giảng có gì khác với Phật giáo của Đức Thích Ca? Trong Di lặc thượng sinh kinh viết rằng: “Ngã quốc thổ thổ, nhữ quốc thổ kim; ngã quốc thổ khổ, nhữ quốc thổ nhạc” [1]. Ý nghĩa là, nếu Thích Ca Mâu Ni độ là chúng sinh, thì quốc thổ của Ngài chính là đất; Còn Phật Di Lặc độ lại chính là các vương của Phật giới, quốc thổ của Ngài chính là vàng. Thích Ca Mâu Ni lấy “vàng” và “đất” để tỷ dụ cho sự quảng đại của Phật Pháp mà Phật Di Lặc truyền trong tương lai.
Không chỉ dự ngôn của Đức Phật Thích Ca, mà hầu hết các lời tiên tri Đông Tây kim cổ đều cùng kể về một thời kỳ đặc thù của nhân loại: Khi Pháp mạt, thế tận, sẽ có một vị Giác Giả hạ thế độ nhân. Người phương Đông gọi Ngài là “Di Lặc vị lai Phật”, người phương Tây gọi Ngài là “Cứu Thế Chủ”, Kinh Thánh – Khải Huyền gọi Ngài là “Vua của các vua, Chúa của các chúa” (King of kings, Lord of lords). Và vị Giác Giả ấy là hy vọng của nhân loại – Ngài đến từ phương Đông.
Thích Ca Phật căn dặn các đệ tử về Di Lặc Phật chuyển sinh.
Vị Thánh giả đến từ phương Đông
Một trong các dự ngôn nổi tiếng nhất là Thiêu Bích Ca của Lưu Bá Ôn đời Minh. Có một đoạn cố sự kể rằng:
Một ngày nọ, khi Chu Nguyên Chương đang ăn bánh nướng, ông vừa đưa bánh lên miệng thì có người tới báo: “Quốc sư Lưu Cơ xin yết kiến”. Vậy là Chu Nguyên Chương đành bỏ cái bánh nướng đang ăn dở vào bát. Vua tôi hành lễ xong xuôi, Chu Nguyên Chương hỏi đùa: “Ông biết có gì trong bát của ta không?”.
Lưu Bá Ôn bấm tay một hồi rồi nói: “Nửa tựa mặt trời nửa mặt trăng, từng bị Kim Long cắn một miếng, là cái bánh nướng!”. Thế là sau đó, Chu Nguyên Chương bèn để Lưu Bá Ôn dự đoán khí số triều Minh. Lưu Bá Ôn khi ấy không thể thoái thác, vậy mới có đoạn vấn đáp nổi tiếng giữa vua-tôi, đó cũng là nguồn gốc của dự ngôn “Thiêu Bính Ca” (bài ca bánh nướng).
Hoàng Đế hỏi: “Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo?”
Bá Ôn đáp: “Có thơ làm chứng rằng:
Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo,
Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng.
Chân Phật không ở trong tự viện,
Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo.”

Hoàng Đế hỏi: “Di Lặc hạ phàm tại nơi đâu?”
Bá Ôn đáp: “Xin nghe thần nói: Lúc Giáo chủ tương lai hạ phàm, ngài không ở tại Tể phủ giống quan viên, không ở tại Hoàng cung làm Thái Tử, cũng không xuất thân nơi miếu lý hoặc đạo quán, mà giáng sinh tại căn nhà cỏ của bách tính hàn vi, rải vàng khắp Yên Nam Triệu Bắc”.
Đoạn hội thoại trên đã hé mở về thân thế tại nhân gian của Phật Di Lặc: Ngài sẽ xuất sinh trong gian nhà cỏ như một thường dân, nhưng sẽ đi khắp bốn phương truyền giảng Phật Pháp.
Nhưng vì sao nói Phật Di Lặc chính là vị Thánh giả xuất sinh từ phương Đông? Trong một dự ngôn khác cũng của Lưu Bá Ôn, quyển 2 của cuốn sách tiên tri Thôi Bi Đồ, viết rằng:
“Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính”.[2]
Là nói, Phật Di Lặc sẽ đến “Kim Kê mục” (mắt con gà vàng) ở Trung Quốc, giáng sinh vào năm Thỏ, lấy họ là Mộc Tử (木子). Kim Kê mục ấy là ở nơi nào? Bất cứ lời tiên tri nào cũng mượn lời ẩn ý để tiết lộ thiên cơ. Mặc dầu vậy, “Thôi Bi Đồ” đã minh xác chỉ ra rằng, đó chính là một vùng đất ở Trung Hoa.
Bản đồ Trung Quốc tựa một con gà lớn, theo dự ngôn của Thôi Bí Đồ, mắt Kim Kê phải chăng nằm ở tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc. (Ảnh: Wikipedia)
Di Lặc xuất thế nào ai hay?
Các nhà tiên tri, các bậc Thánh giả phải chăng đã quá ưu ái khi nói về Trung Hoa? Nếu nhìn vào hiện thực, sẽ thấy Trung Quốc ngày nay không còn là Trung Hoa thuở xưa ấy. Nơi từng là mảnh đất lễ nghi, hội tụ cả Nho – Phật – Đạo, nơi xuất sinh những bậc Thánh tăng, Chân Nhân, Đạo sĩ… nay chỉ còn lại cái hủ hóa của lòng người, cái bại hoại của nhân luân.
Đến Trung Quốc ngày nay, người ta chỉ thấy những kèn cựa đấu đá, những tranh giành quyền lực, những giả dối lừa lọc, những tham ô hủ bại… Giữa mênh mang biển người ấy, làm sao có thể tìm được vị Thánh giả “Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo, Đội mũ lông cừu nặng bốn lạng” đây?
Cách Am Di Lục là cuốn sách tiên tri cổ xưa của Hàn Quốc. Tương truyền, ngài Nam Sư Cổ từng được vị Thần nhân tại núi Kim Cương khẩu thuật mà viết nên cuốn sách này. Trong dự ngôn về Phật Di Lặc, cuốn sách viết rằng:
“A Di Đà Phật nhậm đạo tăng,
Mạt thế cựu nhiễm mất chân Đạo.
Niệm Phật tụng nhiều ngày vô dụng,
Di Lặc xuất thế nào ai hay”

Chân Pháp, chân Đạo đã mất đi rồi, nên con người có tụng niệm Phật hiệu nhiều bao nhiêu thì cũng đều vô dụng. Giữa cái rối ren của thời đại, Đức Di Lặc đã hạ thế rồi, nhưng nào ai hay!
Con người ngày nay xô bồ lễ Phật cầu xin, nhưng có mấy ai biết Di Lặc chân Phật là ai?.
Còn nhớ, khi Lão Tử rời bỏ thế tục, lòng người mê lạc, chỉ có Doãn Hỷ mới nhận ra Bậc Chân Nhân. Khi Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Bà La Môn giáo đã phỉ báng và bịa đặt lời dối trá về Ngài, chỉ có các đệ tử chân tu là vẫn một lòng tín Phật. Khi Chúa Jesus còn trên cõi thế gian, người ta đã mỉa mai rồi đóng đinh Ngài lên cây thập tự. Các bậc Giác Giả hạ thế độ nhân, con người thế gian mấy ai hiểu được?
Những tín đồ Cơ Đốc giáo vẫn đang đợi Chúa Jesus giáng thế, nhưng nếu Ngài đứng trước mặt thì ai có thể nhận ra Ngài? Và nếu như Đức Thích Ca Mâu Ni đến thế gian trong dáng vẻ một con người, liệu có ai sẽ tin rằng Ngài là vị Phật mà họ hằng tôn kính? Bởi vì bất kể Giác Giả nào đến trần gian cũng đều mượn thân xác phàm mà cứu độ thế nhân, cho nên mới giảng về “ngộ”.
Cho nên khi Phật Di Lặc giáng trần, thế nhân nào ai hay?
Hồng Liên
(Bài viết sử dụng các tư liệu từ Chánh Kiến Net)
Chú thích:
  • [1] Nguyên văn: 我国土土,汝国土金;我国土苦,汝国土乐
  • [2] Nguyên văn: 透虚到南阖浮提世界中天中国金鸡目中,奉玉清时年劫尽,龙华会虎兔之年到中天,认木子姓
(sưu tầm)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Users search this thread by keywords

  1. https://diendanphatphap.com/diendan/threads/an-y-truyen-tay-du.38049/
Top