Ẩn ý Truyện Tây Du

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
*Tôn Ngộ Không bị Trấn Nguyên Tử phạt tội đâu chỉ vì đánh đổ cây nhân sâm


Trong Tây Du Ký, hầu hết các ma nạn trên đường đều là do yêu ma quỷ quái hoành hành. Thế nhưng, có một vị Đại Tiên lại ra sức làm khó dễ thầy trò Đường Tăng, chỉ vì một cây xanh mà bắt trói bốn thầy trò đến hai lần, kiên quyết mãi không chịu tha thứ.
Vị Đại Tiên ấy chính là Trấn Nguyên Tử, đạo chủ của Ngũ Trang quán trên núi Vạn Thọ, đồng thời là Tiên nhân đứng đầu trong các Địa Tiên.
Một vị Thần Tiên vĩ đại như thế, cớ sao lại gây khó dễ cho người khác đến vậy? Bất ngờ hơn là, ông đang trong cơn thịnh nộ lại quay ngoắt 180 độ, cùng Tôn Ngộ Không kết bái huynh đệ, rốt cuộc vị Đại Tiên này còn ý gì nữa đây?
Vạn Thọ Sơn phúc địa, Ngũ Trang Quán động thiên
Phải nói rằng, kể từ lúc bước chân ra khỏi lãnh thổ Đại Đường, suốt chặng hành trình Tam Tạng luôn gặp phải đám yêu ma quỷ quái, gần như ngày nào cũng sống trong tâm trạng phập phồng lo sợ, đến mức kinh hồn bạt vía. Đầu tiên là gặp con khỉ tính tình nóng nảy, may được Quan Âm Bồ Tát ban cho chiếc vòng kim cô và bài chú “Khẩn Cô Nhi”, nếu không cả ngày sẽ phải chóng mặt vì con khỉ hiếu động ấy, lúc thì lên trời, khi thì xuống đất, động tý là lấy gậy kim cô giao đấu, thật khiến người ta lo lắng. Tiếp đó lại gặp một con heo tài phép, thoắt ẩn thoắt hiện, dám cả gan chiếm giữ con gái nhà lành, thì quả là một phen hú vía.
Trên đường còn gặp phải con rồng chặn đường, còn có yêu quái sông Sa Hà sát khí đằng đằng, lại thêm Hắc Hùng tinh và các loại yêu ma quỷ quái… Nói tóm lại là từ sau khi Tam Tạng bước chân ra khỏi Đại Đường, người chẳng gặp được mấy, mà mỗi ngày đều là yêu quái nọ nối tiếp yêu quái kia. Chỉ cần nhìn thấy núi cao rừng rậm, là trong lòng Đường Tăng lại run như cầy sấy, chân cũng mềm nhũn ra từ lúc nào không hay.
May thay trong đám “yêu quái” đáng sợ ấy, Đường Tăng đã thu nhận được ba đồ đệ thần thông quảng đại, thật cũng chẳng mong cầu gì hơn.
Một ngày trên đường, bốn thầy trò thấy chắn ngang trước mặt là một ngọn núi cao.
Một ngày trên đường, bốn thầy trò thấy chắn ngang trước mặt là một ngọn núi cao. Giác quan thứ sáu mách bảo Đường Tăng rằng, bầu không khí nơi đây thật tường hòa ấm áp.
“Hạc trắng vờn ngọn trắc,
Vượn đen đu cành la…
Thấp thoáng muôn đỉnh núi,
Hào quang rọi nguy nga…
Phượng hoàng, chim tụ tập,
Kỳ lân, thú vào ra”.
Cảnh sắc sơn thuỷ hữu tình, chim muông vạn vật, thật khiến người ta không còn có cảm giác căng thẳng lo sợ nữa.
Tôn Ngộ Không nói với Đường Tăng rằng, một nơi như thế nhất định không có yêu quái. Tục ngữ có câu: “Người phúc ở đất phúc, đất phúc người phúc ở”, ngọn núi này hẳn là nơi Thánh tăng đạo sĩ đang ẩn mình.
Tam Tạng ngồi trên lưng ngựa, nhìn ngắm cảnh sắc đẹp đẽ tường hòa, thích thú nói: “Các đồ đệ ơi, ta từ ngày sang phương Tây, trải qua nhiều núi non hiểm trở, nhưng chưa thấy đâu đẹp như ngọn núi này. Thật là nơi vô cùng ưu nhã! Hay là sắp tới chùa Lôi Âm chăng? Nếu vậy, chúng ta mau mau sửa soạn quần áo ngay ngắn yết kiến đức Thế Tôn”.
Ngộ Không nói: “Sư phụ đi từ trẻ cho tới già, già rồi lại trẻ, một nghìn lần như vậy vẫn còn khó. Chỉ mong sư phụ thành tâm kiên tính, tâm tâm niệm niệm, suy nghĩ giác ngộ, là tới ngay Linh Sơn đó”.
Thật không dễ dàng gì thả lỏng tâm tình, nhìn ngắm cảnh sắc núi non đẹp đẽ nơi này. Đi tiếp về trước, nhìn thấy một tòa đạo quán nguy nga, bốn thầy trò đi ngang qua bước vào đạo quán hóa duyên.
Hai tiểu đạo đồng bước ra đón tiếp, nói rằng sư phụ họ đã ra ngoài, nhưng trước khi đi căn dặn rằng sẽ có bạn cũ đến thăm, phải đón tiếp tử tế.
Hai tiểu đạo đồng bước ra đón tiếp 4 thầy trò đường tăng vào Đao quán.

Rất nhiều người từng đọc Tây Du Ký đều cho rằng bốn thầy trò Đường Tăng thật ra là một người. Tôn Ngộ Không là đại biểu cho tâm của người tu hành, vậy nên trong Tây Du Ký, trong đề mục của rất nhiều chương tiết đều xuất hiện từ “tâm viên” (lòng vượn), cũng chính là Tôn Ngộ Không.
Nếu tinh tế một chút, sẽ phát hiện câu đối ngoài cửa đá Hoa Quả sơn nơi ở của Tôn Ngộ Không năm xưa với câu đối trên cửa Ngũ Trang quán hôm nay có khí chất tương tự. Cũng chính là nói, hóa duyên gặp nạn nơi Ngũ Trang quán còn là hóa giải một đoạn duyên này.
Gặp nạn quán Ngũ Trang, hoá giải đoạn nhân duyên
Hãy nói thầy trò Đường Tăng đi vào Ngũ Trang quán, hồi thứ 24 miêu tả:
Tam Tạng rời yên xuống ngựa, nhìn thấy một tấm bia dựng bên trái cổng, trên đó có khắc mười chữ lớn:
“Vạn Thọ Sơn phúc địa, Ngũ Trang Quán động thiên”
(Phúc địa núi Vạn Thọ, động trời quán Ngũ Trang).
So sánh với hồi thứ nhất trong “Tây Du Ký”:
Khỉ đá xem xét hồi lâu, đi ra giữa cầu, nhìn ngắm hai bên, chỉ thấy chính giữa có tấm bia đá khắc mười chữ to:
“Hoa Quả Sơn phúc địa, Thủy Liêm Động động thiên”
(Phúc địa núi Hoa Quả, động trời động Thủy Liêm).
Có thể thấy Tôn Ngộ Không yêu thích núi Hoa Quả và vị Trấn Nguyên Đại Tiên yêu thích phúc địa động trời này thật sự có mấy phần khí chất tương đồng.
Lại nói, Đường Tăng trước khi chuyển sinh nguyên là Kim Thiền Tử, đệ tử của Phật Như Lai, trong hội Vu Lan Bồn từng có duyên tương ngộ cùng Trấn Nguyên Đại Tiên. Xưa vì có duyên phận nên hôm nay mới gặp lại nhau chăng?
Thế cho nên, Tôn Ngộ Không tính khí nóng nảy ngang ngược, nay lại gặp Trấn Nguyên Đại Tiên một mực cố chấp. Thói trộm cắp chẳng qua chỉ là bản tính hiếu động của loài khỉ, vốn không phải chuyện gì quá to tát. Vậy mà hôm nay gặp đúng “đối thủ”, vốn là bậc Chân Nhân đạo sĩ, quả đúng là “giao chân” (đánh nhau) mà!
Đừng nói đến quả nhân sâm trân quý ra sao, cho dù chỉ là những chuyện bình thường, thì từ quan điểm “tu Chân” của Đạo gia mà xét, là một thì chính là một, là hai thì chính là hai, điều này quyết không thể hàm hồ được.
Thế mà, hai tiểu đồng khăng khăng nói rằng mất 4 quả nhân sâm, trong khi Tôn Ngộ Không chỉ hái trộm 3 quả. Tiểu đồng tử cho rằng hái trộm chính là phường trộm cướp, nói dối chính là bất chân – đức hạnh tệ hại như vậy, sao xứng làm người tu hành? Nghĩ vậy họ liền tức miệng mắng chửi bốn thầy trò.
Tiểu đồng tử cho rằng hái trộm chính là phường trộm cướp, nói dối chính là bất chân – đức hạnh tệ hại như vậy, sao xứng làm người tu hành? Nghĩ vậy họ liền tức miệng mắng chửi bốn thầy trò.
Còn Tôn Ngộ Không nghĩ, rõ ràng mình chỉ hái có 3 quả, giờ đây lại bị vu oan thành 4 quả. Cho nên, Tôn Ngộ Không không chịu được khuất nhục đã xảy ra trận tranh cãi nảy lửa với hai vị tiểu đồng.
Tôn Ngộ Không không chịu nổi vu oan giá họa liền nổi giận đùng đùng. Tha thứ bản thân ăn trộm thì dễ, nhưng thứ lỗi cho kẻ khác vu oan cho mình, lại là điều không thể chấp nhận. Ngộ Không liền dùng thần thông, đánh bật cả cây lẫn gốc trong sân. Cây nhân sâm nguyên là báu vật, từ khi vũ trụ còn hỗn độn mới chia, trời đất còn mờ mịt chưa phân, đã có thứ cây linh thiêng này, vậy mà bị đánh đến nát nhừ, giúp Ngộ Không hả hê hả dạ trút được cơn giận sục sôi trong lòng.
Không biết phải làm sao, hai tiểu đồng tử thừa lúc bốn thầy trò Đường Tăng dùng cơm đã nhốt bốn người họ trong phòng, chờ sư phụ là Trấn Nguyên Tử về xử trí.
Bị nhốt trong phòng, chút chuyện nhỏ này đương nhiên không làm khó được Ngộ Không thần thông quảng đại. Nhớ năm xưa trong vườn Bàn Đào ở thiên cung, con khỉ cũng từng ăn trộm đào tiên như vậy. Giờ đây xử lý chuyện ăn trộm quả nhâm sâm này cũng là chuyện “xe nhẹ chạy đường quen”, thừa lúc mọi người không chú ý, chi bằng lẳng lặng chuồn đi cho êm chuyện.
Nhân lúc trời tối, Tôn Ngộ Không dùng thần thông mở khóa, dẫn theo sư phụ cùng các sư đệ trốn khỏi quán Ngũ Trang. Vì để tránh hai vị tiểu đồng đuổi theo sau, Ngộ Không bắn con sâu ngủ lên người họ, các tiểu đồng ngủ li bì không dậy được.
Lúc này, Trấn Nguyên Tử trở về, dùng nước lạnh hắt tỉnh học trò rồi hỏi rõ tình hình. Nghe thuật lại chuyện khách quý ăn trộm đồ, lại lẻn đi một cách trắng trợn, người tu hành sao có thể làm ra những chuyện đê hèn này? Nhất định phải tìm họ hỏi rõ nguyên nhân!
Trấn Nguyên Tử cưỡi mây lành đuổi theo, đằng vân một cái đi được một vạn dặm, trong khi thầy trò bốn người đi cả một ngày một đêm vẫn chưa được một trăm dặm, Trấn Nguyên Tử lại phải đi vòng lại chín nghìn dặm, đáp mây xuống.
Trấn Nguyên Tử muốn thử lòng thầy trò, bèn giả vờ mình chưa hề về đến đạo quán, hỏi bốn người họ có đi ngang qua đạo quán hay không? Ngộ Không lại bắt đầu nói dối, rằng chúng tôi không đi ngang qua đạo quán của ngài.
Trấn Nguyên Tử muốn thử lòng thầy trò, bèn giả vờ mình chưa hề về đến đạo quán, hỏi bốn người họ có đi ngang qua đạo quán hay không?.
Trấn Nguyên Tử liền nổi giận, làm chuyện sai trái rồi, đã không thừa nhận lại còn nói dối nữa! Ngài vẫy tay một cái liền nhốt cả bốn thầy trò vào túi áo, đưa về đạo quán.
Trói bốn thầy trò, Trấn Nguyên Tử trách mắng Đường Tăng không biết dạy đồ đệ, lại vung mạnh cây roi muốn đánh đòn.
Tuy ăn trộm nói dối là thói quen của loài khỉ, nhưng nếu không tránh được thì cũng không thể làm liên lụy tới sư phụ mình, không thể để sư phụ vì mình mà bị đòn roi. Tôn Ngộ Không nói chuyện này là bản thân tự quyết tự làm, hoàn toàn không liên quan đến sư phụ. Thấy con khỉ biết coi trọng nghĩa khí, Trấn Nguyên Tử liền cho phép y chịu đòn roi thay cho Đường Tăng.
Đánh Ngộ Không xong thì sắc trời cũng tối, Trấn Nguyên Tử cùng các đệ tử về phòng nghỉ ngơi. Ngộ Không lại dùng thần thông, biến bốn cây cọc gỗ hóa thành hình tượng của bốn người, đưa sư phụ và hai sư đệ bỏ trốn trong đêm.
Ngày hôm sau, Trấn Nguyên Đại Tiên lại rượt đuổi theo. Ba huynh đệ Ngộ Không, người dùng gậy, người dùng cào, người dùng xẻng cùng xông lên, dùng hết bản lĩnh bình sinh, nhưng vẫn bị Trấn Nguyên Đại Tiên nhốt trong túi áo, đem về Ngũ Trang quán.
Trấn Nguyên Đại Tiên quyết định chiên dầu Tôn Ngộ Không, nhưng Ngộ Không lại dùng thần thông đem sư tử đá ngoài cổng biến thành hình dạng của mình, quẳng vào trong vạc dầu, khiến cho cái vạc bị đập thủng.
Trấn Nguyên Tử thấy không bắt được Tôn Ngộ Không, lại đổi sang một vạc dầu khác, ra lệnh luộc Đường Tăng.
Ngộ Không thấy sư phụ sắp bị luộc, vội vàng cầu xin Trấn Nguyên Đại Tiên, nói bản thân mình đã sai, hứa sẽ đi bù đắp, chỉ xin đừng làm khó Đường Tăng nữa.
Ngộ Không đi khắp tam đảo mười châu, cuối cùng được Quan Âm Bồ Tát giúp cứu sống cây nhân sâm. Theo lời giao ước, Trấn Nguyên Đại Tiên đã kết bái huynh đệ cùng với Tôn Ngộ Không. Thầy trò bốn người lại tiếp tục lên đường.
Trấn Nguyên Đại Tiên chỉ vì một cái cây mà làm lớn chuyện đến như vậy, rốt cuộc là do đâu?
Trong Tây Du Ký truyện sáng tác bởi Dương Chí Hòa đời nhà Minh có một đoạn như sau:
“Tam Tạng nghe nói, nước mắt tuôn trào. Hành Giả nói khẽ: ‘Đừng sợ, để con giải quyết cho’. Nhổ bốn cọng lông, biến thành hình dạng bốn người, còn chân thân của thầy trò họ lại một mạch bỏ đi. Đi một ngày, Hành Giả sợ đánh bị thương cái thân giả của mình, liền thu sợi lông về.
Vị Đại Tiên thấy bốn người biến mất không còn tung tích đâu nữa, liền than rằng: “Con khỉ này từng đại náo thiên cung, quả thật bản lĩnh không tầm thường. Ta không thể dung túng cho nó, tránh ngày sau gây thành họa lớn, trước mắt vẫn là đuổi theo, bắt nó về hỏi tội”. Liền cưỡi mây đuổi theo, lại lấy áo cà sa bắt gọn bốn người, mang về trong quán. Dặn đồ đệ lại lấy chiếc áo tơ tằm trói chặt bốn người lại, không sót kẽ hở nào, đốt một vạc dầu, muốn nấu chết bốn người”.
Thì ra vị Trấn Nguyên Đại Tiên này không phải cố ý tìm cớ, mà là dùng tâm thái người qua đường giúp bốn thầy trò hiểu được đạo lý.
Trấn Nguyên Tử muốn mục đích là để 4 thầy trò hiểu rõ đạo lý thì mới tới Tây Thiên gặp Phật tổ được.
Tôn Ngộ Không từng đại náo thiên cung, như vậy trên thân đã mang theo thói xấu. Giờ muốn đến Tây Thiên, mang theo những thói xấu này sao có thể đến Linh Sơn được? Vậy nên Trấn Nguyên Tử đã dứt khoát không bỏ qua lỗi lầm, mục đích là để Tôn Ngộ Không hiểu rõ đạo lý ấy. Đồng thời, cũng là để Đường Tăng hiểu rằng, dẫn dắt tốt đồ đệ là trách nhiệm của bản thân, nếu đồ đệ làm chuyện xấu thì bản thân sư phụ cũng phải chịu trừng phạt.
Đường Tăng thấy Tôn Ngộ Không gây họa rồi lại bỏ trốn, không những không quản giáo học trò mà còn bỏ trốn theo. Thân làm sư phụ, sao có thể hành xử như vậy được? Nếu không trải qua bài học ở Ngũ Trang quán lần này, thì danh hiệu sau này của Thánh tăng Đại Đường hẳn cũng sẽ không cách nào vang dội như vậy nữa.
Theo Soundofhope
Vũ Dương biên dịch


(sưu tầm)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tôn Ngộ Không rốt cuộc là người thế nào trước khi đại náo Thiên Cung?

Trong “Tây Du Ký”, ở những hồi đầu tiên, Tôn Ngộ Không hiện lên như một kẻ bất trị, đại náo long cung thủy tề, phá hội Bàn Đào, quậy phá thiên giới, thực không coi ai ra gì. Nhưng trước khi có được bản lĩnh chọc trời khuấy nước ấy, con khỉ đá Mỹ Hầu Vương thực sự là một kẻ khát khao tìm Đạo, có một trái tim hồn hậu và kiên cường.
Ngay cả sau khi đã quy y Phật gia, theo Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh, Tôn Ngộ Không cũng vẫn là con khỉ bản tính cao ngạo, nóng nảy, không chịu nổi dù chỉ một chút chèn ép, dù chỉ một chút xem thường của kẻ khác.
Còn nhớ hồi ấy, Ngộ Không lên Thiên Đình, được Ngọc Đế phong cho chức Bật Mã Ôn, sau khi biết được chức quan chỉ là chăn ngựa thì y lập tức đùng đùng tức giận bỏ đi. Vương Mẫu Nương Nương mở hội Bàn Đào, không hề mời y. Y liền quậy phá một phen tưng bừng đến long trời lở đất.
Nhưng liệu có phải Tôn Ngộ Không sinh ra bản tính đã cao ngạo như vậy rồi không?
Tôn Ngộ Không rời khỏi Hoa Quả sơn, vượt qua biển cả mênh mông tìm Tiên học Đạo, đã từng ở Nam Thiệm Bộ Châu, cũng chính là vùng đất đông thổ Đại Đường, lưu lại ở đó tám, chín năm. Trong nguyên tác “Tây Du Ký” viết rằng:
“Hầu vương tìm học đạo tiên, không biết ở đâu cả. Ở Nam Thiệm Bộ Châu, sục sạo thành lớn, thấm thoắt đã tám, chín năm”.
Suốt mấy năm lưu lạc đó, Tôn Ngộ Không chỉ là một con khỉ bình thường, không chút pháp lực, ở Nam Thiệm Bộ Châu tám, chín năm, lẽ nào lại dám huênh hoang? Nếu là Ngộ Không của những năm sau này, ví như người khác trông thấy y, quát lớn một tiếng: “A, cái con khỉ hoang này!” chắc chắn y sẽ lập tức lao đến đánh nhau ngay.
Nhưng người Nam Thiệm Bộ Châu vốn không phải ai ai cũng là thiện nam tín nữ. Chưa kể có rất nhiều vị Thần lớn trấn giữ ở đây, chỉ riêng những tên ác bá cũng đã không đếm xuể. Nếu như Tôn Ngộ Không thật sự dám ngông cuồng như vậy, đừng nói tám, chín năm, e rằng chưa đến một năm thì đã bị người ta bắt đưa vào trong… sở thú!
Trên thực tế, thời Tôn hầu tử ở Nam Thiệm Bộ Châu bản tính đã sẵn hiền lành, không ai nghĩ được con khỉ đá đó ngày sau sẽ đại náo thiên cung, chọc trời khuấy nước, gây bao phiền nhiễu.
Tôn Ngộ Không chu du khắp bốn biển tìm Tiên cầu Đạo, cuối cùng cũng đến được nơi cần đến. Khỉ đá tìm được đến núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh, bái kiến Bồ Đề Tổ Sư làm thầy. Tổ sư Bồ Đề là ai, lai lịch như thế nào mà khiến Ngộ Không bái làm sư?. Ngay trong ngày đầu tương ngộ, Ngộ Không đã lấy được ấn tượng của Tổ Sư. Trong truyện “Tây Du Ký” miêu tả rất hay về đoạn này.
Hầu vương vừa nhìn thấy đã cúi người lạy liên tiếp và nói:
– Thưa sư phụ, thưa sư phụ, đệ tử con lòng thành chầu lễ.
Tổ sư nói:
– Nhà ngươi là người ở đâu, mau nói rõ quê quán họ tên rồi hãy lạy.
Hầu vương thưa:
– Đệ tử là người động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu.
Tổ sư quát mắng ra lệnh:
– Tống cổ nó ra! Tên này là hạng dối trá quanh co, còn tu hành thành đạo quả sao được!
Hầu vương sợ hãi dập đầu thưa:
– Đệ tử nói thật mà, đâu dám nói dối.
Tổ sư nói:
– Ngươi nói thực thà, mà lại nói Đông Thắng Thần Châu à? Từ nơi ấy đến đây cách hai lần biển lớn, một tòa Nam Thiệm Bộ Châu, làm sao mà tới được?
Hầu vương cúi đầu thưa:
– Đệ tử lênh đênh vượt biển, lang thang trên bộ mười mấy năm trời, mới đến được đây.
Tổ sư nói:
– Ừ, đi mãi dần dà cũng đến nơi. Thế tính ngươi là gì?
Hầu vương đáp:
– Con không có tính. Người ta mắng con, con cũng không giận, đánh con, con cũng không tức, chỉ lạy họ mà thôi, cả đời con không có tính.
Tổ sư nói:
– Không phải là tính tình. Thế cha mẹ nhà ngươi vốn họ gì?
Hầu vương đáp:
– Con cũng không có bố mẹ.
Tổ sư nói:
– Không có bố mẹ thì đẻ ra ở lỗ nẻ chắc?
Hầu vương thưa:
– Con tuy không phải đẻ ra ở lỗ nẻ, nhưng lại từ trong tấm đá sinh ra. Con chỉ nhớ rằng trên núi Hoa Quả có một tảng đá tiên, năm ấy tảng đá vỡ ra và sinh ra con.
Tổ sư nghe nói, trong dạ mừng thầm, nói:
– Như thế là trời đất sinh thành ra ngươi. Nhà ngươi hãy đứng dậy, đi lại ta xem”.
Đoạn này nói lên nhiều điều. Thứ nhất, Tổ Sư hỏi tên tuổi, Ngộ Không lại hiểu sai, tưởng nói về tính tình, tính cách. Nhưng chính điều đó lại vô tình hé lộ khá nhiều về con người của y. Ở Nam Thiệm Bộ Châu, sau khi vượt qua muôn trùng biển lớn, Ngộ Không tìm được đến chốn văn minh, chịu nhiều thiệt thòi, uất ức, bị đánh bị mắng nhưng lại không chút để tâm, chỉ lạy đáp lễ. Rõ ràng, ngay từ ban đầu, con khỉ đá ấy đã có tâm tính rất tốt, tính khí hiền lành, thực đúng là giữ được cả mười phần bản tính tiên thiên, thuần thiện ban đầu.
Thứ hai, để tìm đến chỗ của Tổ Sư, Ngộ Không đã phải vượt qua “hai lần biển lớn, một tòa Nam Thiệm Bộ Châu”, đường đi xa xôi cách trở đến nỗi chính Tổ Sư cũng không thể nghĩ rằng hắn có thể đi xa đến vậy cầu Tiên học Đạo. Ở đây nói lên rằng ngộ tính của loài khỉ đá thực sự rất cao, không tiếc thời gian (8, 9 năm), công sức, không quản ngại xa xôi mà tìm Đạo trường sinh màu nhiệm.
Thứ ba, khi Tổ Sư hỏi đến cha mẹ, Ngộ Không nói rằng mình thác sinh từ một tảng đá thiêng. Đây chính là căn cơ do trời đất tạo thành vậy. Tổ Sư nghe thấy trong bụng cũng mừng thầm, sắp có được một đồ đệ do trời đất sinh thành. Như thế, Ngộ Không đã có đủ những điều kiện cần thiết nhất để trở thành một người tu Đạo: tâm tính tốt, có căn cơ và có ngộ tính.

Lão Tử giảng trong Đạo Đức Kinh: “Kẻ sĩ bậc thượng nghe Đạo thì chăm chú làm theo. Kẻ sĩ bậc trung nghe Đạo thì điều còn điều mất. Kẻ hạ sĩ nghe Đạo thì cười lớn, không cười thì sao tỏ rõ đó là Đạo được?” (Thượng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi. Trung sĩ văn Đạo, nhược tồn nhược vong. Hạ sĩ văn Đạo đại tiếu chi, bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo).
Cứ xét những biểu hiện ấy thì Tôn Ngộ Không quả thực là bậc “thượng sĩ” nghe Đạo vậy. Trong truyện cũng mô tả chi tiết này:
Tôn Ngộ Không ngồi nghe giảng, sướng quá đến nỗi xoa tai vuốt má, mặt mày hớn hở, khoa tay múa chân.
Bỗng bị tổ sư trông thấy, gọi lên bảo:
– Ngươi ngồi trong lớp, tại sao lại điên cuồng nhảy nhót, không nghe ta giảng?
Ngộ Không thưa:
– Con thành tâm nghe giảng, đến những chỗ sư phụ giảng nhiệm mầu quá, lòng vui mừng khôn xiết, không nhịn được, nên có những điệu bộ như vậy, mong sư phụ tha tội.
Có câu “Sáng nghe Đạo, chiều có thể chết được” (triêu văn Đạo, tịch khả tử). Đó chẳng phải là kẻ sĩ bậc thượng là gì?
Ở một đoạn khác, Ngộ Không tiếp tục chứng minh mình là một đồ đệ có căn cơ, xứng đáng trở thành đệ tử chân truyền. Vốn Tổ Sư muốn truyền Đạo cho Ngộ Không nhưng y năm lần, bảy lượt cự tuyệt hết các gia phái, đạo thuật. Điều đó khiến Tổ Sư nổi giận…
Tổ sư nghe đoạn, hừ một tiếng, từ trên đài cao nhảy xuống, tay cầm gậy giới xích, chỉ vào Ngộ Không nói:
– Loài khỉ già kia, đạo này không học, đạo kia không học, còn đòi học cái gì?
Rồi đi đến gõ đầu Ngộ Không ba cái, quay lưng giơ tay đi thẳng vào trong, đóng cửa giữa lại, bỏ mọi người ở ngoài. Cả lớp nghe giảng, ai cũng sợ hãi, đều oán Ngộ Không rằng:
– Đồ con khỉ, hỗn láo vô tích sự, sư phụ truyền đạo cho, tại sao không học, lại dám cãi sư phụ. Phen này làm phật ý sư phụ, biết bao giờ sư phụ mới lại ra?
Lúc ấy cả bọn đều oán ghét và khinh bỉ Ngộ Không. Nhưng Ngộ Không chẳng tức giận, chỉ vui cười. Nguyên do Ngộ Không vốn đã ngầm hiểu ý của sư phụ, nên không tranh cãi với chúng bạn, chỉ lặng thinh không nói. Tổ sư đánh ba cái, có nghĩa là bảo phải để ý đến canh ba, chắp tay sau lưng, đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, rồi đi vào lối cửa sau, ở chỗ kín ấy sư phụ sẽ truyền đạo cho.
Đêm hôm Ngộ Không được Tổ Sư chân truyền được miêu tả bằng những dòng tuyệt bút.
Khi trời vừa hoàng hôn, Ngộ Không đã cùng các bạn vào phòng ngủ, giả vờ nhắm mắt, nín hơi định thần chờ đợi. Trong núi lại không có trống canh, không biết giờ giấc, chỉ tự mình điều hòa hơi thở ra vào qua lỗ mũi mà ước tính. Khoảng giờ tý, Ngộ Không rón rén trở dậy, mặc quần áo, sẽ mở trộm cửa trước, giấu mọi người đi ra ngoài, ngẩng đầu quan sát. Chính là lúc:
Trăng sáng sương trong vắt
Tám cõi sạch bụi trần
Cây cao chim rừng ngủ
Ngọn suối nước rì rầm
Đom đóm bay thấp thoáng
Cánh nhạn vẽ bầu không
Canh ba giờ đã điểm
Hỏi đạo, ôi thỏa lòng!
Thực là cái vui của kẻ đã tìm được chính Đạo tu hành vậy! Đến khi thấy Ngộ Không lẻn vào cửa sau xin truyền Đạo, chính Tổ Sư cũng vô cùng bất ngờ. Tổ Sư nghĩ thầm: “Thằng oắt con này quả là do trời đất sinh thành. Nếu không, làm sao đoán nổi ngầm ý của ta”. Đoạn bèn truyền hết khẩu quyết cho Ngộ Không, dạy cách thực hành đạo sống lâu màu nhiệm.
***
Tôn Ngộ Không vốn dĩ tính khí tốt như vậy, có thể nhẫn nhịn tốt như vậy, tại sao về sau lại trở thành một kẻ cao ngạo, không sợ trời không sợ đất?
Lý do là ở chỗ tính khí của Ngộ Không là thuận theo tài năng của bản thân mà biến đổi. Trước khi học Đạo cầu Tiên, Ngộ Không chỉ là một con khỉ đá, hình dung xấu xí, không hiểu phép tắc, khi ấy muốn cao ngạo liệu có được? Còn sau khi đã được Tổ Sư truyền cho 72 phép biến hóa, đã là thần thông quảng đại, có tài năng lại có thừa chí khí, lẽ nào có chuyện bị đánh mà không đáp trả, bị mắng mà không mắng trả sao?
Cho nên cũng có người nói, Ngộ Không tu Đạo rồi tính khí lại còn kém hơn lúc chưa tu là vì thế! “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần”, quả đúng như vậy. Ngộ Không có 72 phép biến hóa, xuống Địa phủ xóa tên sổ sinh tử, lên thiên cung quấy nhiễu hội Bàn Đào, lại còn tự xưng “Tề Thiên Đại Thánh”, muốn thay cả Ngọc Hoàng cai quản tam giới, sự ngông cuồng đúng là đã lên đỉnh điểm.
Đúng lúc ấy thì Phật Tổ Như Lai xuất hiện, dùng một bàn tay mà thu hàng Ngộ Không, ép chặt 500 năm dưới núi Ngũ Hành, coi như cấp cho một dịp tu luyện tâm tính lại từ đầu, uốn nắn lại con người. Người đọc truyện đến hồi này đều tiếc nuối cho con khỉ đá không còn tháng ngày tiêu dao tự tại, chọc trời khuấy nước, nghiêng sông lật bể nữa. Nhưng đối với riêng Ngộ Không thì đó lại là một điều may vậy. Đó cũng coi như là cơ hội để y “phản bổn quy chân”, trở lại con người tu Đạo đúng nghĩa, khiêm nhường, khoan dung, hành thiện tích đức…

Phi Long – Văn Nhược

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tôn Ngộ Không bị tổ sư Bồ Đề đuổi khỏi đạo quán, ẩn ý thực sự ít người thấu hiểu


Tôn Ngộ Không học được 72 phép biến hóa từ Bồ Đề tổ sư nhưng rốt cuộc vẫn bị đuổi khỏi núi Linh Đài Phương Thốn thiêng liêng. Là do Ngộ Không vô năng, bất trị hay tổ sư quá nghiêm khắc? Xin được mạn phép dành vài lời bàn luận cùng bạn đọc dưới đây.
Lại nói đến vị tổ sư Bồ Đề dạy Tôn Ngộ Không 72 phép biến hóa có lai lịch ra sao thì không phải ai cũng biết, tại sao tổ sư Bồ Đề lại chọn và truyền phép cho Ngộ Không?
Tu luyện dựa vào ngộ tính
Đầu tiên, nói một chút về căn cơ và ngộ tính của Tôn Ngộ Không. Sau khi vượt qua mênh mông biển lớn, sông dài, lang bạt tám, chín năm trời ở Nam Thiệm Bộ Châu, cuối cùng Hầu vương cũng tìm được đến đạo quán của tổ sư Bồ Đề. Ở đây, Hầu vương được đặt tên, dạy cho các việc giảng kinh làm đạo, nói năng lễ phép đến quét sân cuốc vườn, tỉa lá vun hoa, gánh nước kiếm củi. Sáu, bảy năm trôi qua như vậy, một hôm được nghe tổ sư giảng Đạo, Ngộ Không mới đột nhiên đại ngộ.
Tây Du Ký, hồi thứ 2, “Thấu lẽ Bồ Đề là diệu lý, bỏ ma về gốc ấy nguyên thần” kể rằng: “Tôn Ngộ Không nghe giảng sướng quá đến nỗi xoa tai vuốt má, mặt mày hớn hở, khoa tay múa chân. Bỗng bị tổ sư trông thấy, gọi lên bảo:
– Ngươi ngồi trong lớp, tại sao lại điên cuồng nhảy nhót, không nghe ta giảng?
Ngộ Không thưa:
– Con thành tâm nghe giảng, đến những chỗ sư phụ giảng nhiệm màu quá, lòng vui mừng khôn xiết, không nhịn được, nên có những điệu bộ như vậy, mong sư phụ tha tội”.

Nếu không có căn cơ tốt, không ngộ đạo sâu thì làm sao Ngộ Không có thể thấy được chỗ nhiệm màu của Đạo như vậy? Đó chính là niềm hoan hỉ, vui sướng của sinh mệnh một khi đắc Đạo, một khi tìm thấy nghĩa lý chân chính của cuộc đời. Điều này dễ khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh Lỗ Trí Thâm trong Thủy Hử, nửa đời xông pha chiến trận, giết người vô số nhưng cuối cùng một đêm nghe được tiếng sóng triều trên sông Tiền Đường đập vào vách đá mà đột nhiên đốn ngộ, tọa hóa viên mãn.
Ngộ Không cũng như vậy, khi được nghe Đại Đạo nhiệm màu, hẳn cũng mới sực tỉnh ra, biết mình là ai, sẽ đi về đâu. Lại cũng giống như Khổng Tử nói: “Triêu văn Đạo, tịch khả tử” (Sáng nghe Đạo, chiều chết cũng cam lòng). Đến khi tổ sư hỏi muốn học môn nào, phép nào, Ngộ Không trả lời rất thật thà: “Chỉ mong sư phụ dạy dỗ, miễn có vị đạo là đệ tử xin học“. Nhưng đến khi tổ sư lần lượt kể ra mấy đạo thuật như các môn chữ “Thuật”, chữ “Lưu”, chữ “Tĩnh”, chữ “Động”… thì Ngộ Không lại lắc đầu quầy quậy, cứ nhất nhất đòi học bằng được phép sống lâu màu nhiệm, trường sinh.
Sau khi vượt qua mênh mông biển lớn, sông dài cuối cùng Hầu vương cũng tìm được đến đạo quán của tổ sư Bồ Đề.
Các chúng bạn đều cho rằng Ngộ Không quả là không biết trời cao đất dày, được tổ sư truyền Đạo cho mà còn cứng đầu cãi bướng, có phúc mà không biết hưởng. Nhưng ngẫm kĩ ra, các loại đạo thuật kia chẳng qua chỉ là “bàng môn”, tiểu đạo, Ngộ Không là một con khỉ có linh khí đương nhiên không muốn chỉ học các thứ tiểu thuật ấy. Nào là kéo cung đạp nỏ, xoa rốn lấy hơi, luyện đan chế thuốc, trai giới ngồi thiền, tập ngủ tập đứng… đều chỉ loanh quanh tiểu đạo thế gian, căn bản không đáp ứng được mục đích tu hành của Ngộ Không.
Hầu vương muốn luyện thành phép trường sinh bất lão không phải là tham sống sợ chết gì. Tu luyện phép trường sinh ấy thực ra chính là thoát khỏi sự khống chế của Ngũ hành, cao hơn nữa chính là vượt ra ngoài Tam giới, không chịu vòng luân hồi, sinh tử. Mà ra ngoài Tam giới thì chẳng phải là đạt đến quả vị của La Hán, của Phật, của Chân Nhân rồi sao? Như thế thì mấy thứ thuật loại nhỏ nhoi kia nào có đáng bận tâm gì?
Tổ sư Bồ Đề hẳn là cũng sớm biết được căn cơ của Hầu vương không tầm thường nên cũng đã cố ý đưa ra mấy thứ thuật loại tiểu đạo kia để thử lòng. Khi Ngộ Không từ chối không học, tổ sư cũng tỏ vẻ giận dữ vô cùng. Tây Du Ký kể rằng:
“Tổ sư nghe đoạn, hừ một tiếng, từ trên đài cao nhảy xuống, tay cầm gậy giới xích, chỉ vào Ngộ Không nói:
– Loài khỉ già kia, đạo này không học, đạo kia không học, còn đòi học cái gì?
Rồi đi đến gõ đầu Ngộ Không ba cái, quay lưng giơ tay đi thẳng vào trong, đóng cửa giữa lại, bỏ mọi người ở ngoài”.

Bề ngoài thì là giận dữ nhưng trong lòng tổ sư sớm đã chọn Ngộ Không là đệ tử chân truyền. Việc ông cho Ngộ Không mấy gậy “bổng hát” chính là điểm hóa mà trừ Hầu vương ra thì chẳng một ai có thể hiểu. Bởi vì: “Lúc ấy cả bọn đều oán ghét và khinh bỉ Ngộ Không. Nhưng Ngộ Không chẳng tức giận, chỉ vui cười. Nguyên do Ngộ Không vốn đã ngầm hiểu ý của sư phụ, nên không tranh cãi với chúng bạn, chỉ lặng thinh không nói. Tổ sư đánh ba cái, có nghĩa là bảo phải để ý đến canh ba, chắp tay sau lưng, đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, rồi đi vào lối cửa sau, ở chỗ kín ấy sư phụ sẽ truyền đạo cho”.
Trong lòng tổ sư sớm đã chọn Ngộ Không là đệ tử chân truyền.

Điều này một lần nữa nói lên ngộ tính bất phàm của Tôn Ngộ Không. Ấy là bởi nguồn gốc không hề tầm thường của Hầu vương, khi mới sinh ra đã thu thập được linh khí của đất trời. Vừa có tâm cầu Đạo, vừa có ngộ tính cao, chẳng có gì lạ khi Ngộ Không trở thành đệ tử chân truyền của tổ sư Bồ Đề. Đêm hôm ấy có lẽ là đêm dài nhất trong đời Hầu vương.
Truyện kể rằng, Ngộ Không đợi đến giờ Tý mới rón rén trở dậy, tìm đến phòng riêng của sư phụ để hỏi Đạo. Tổ sư biết y có căn cơ, lại có ngộ tính bèn ghé tai truyền cho khẩu quyết. Ngộ Không vốn linh thông, nhớ hết khẩu quyết, mỗi ngày ngầm điều hòa hơi thở, luyện tập theo. Qua 3 năm nữa, khi đã đả khai được kinh mạch, thông pháp tính, hiểu căn nguyên, Ngộ Không tiếp tục được tổ sư truyền cho 72 phép biến hóa Địa sát, dạy cách cưỡi “Cân đẩu vân” bay xa được mười vạn tám nghìn dặm.
Nhưng cũng từ đây, chuyện rắc rối mới bắt đầu xảy đến. Từ khi luyện thành 72 phép biến hóa và “Cân đẩu vân”, Ngộ Không tiêu dao tự tại, rong chơi ngày tháng, vui thú vô cùng. Nhưng “nhàn cư vi bất thiện”, một lần ngồi tán gẫu với đám bạn học, khi được hỏi đã luyện thành những phép nào, Ngộ Không dương dương tự đắc: “Chẳng giấu gì anh em, một là sư phụ truyền thụ, hai là tôi đêm ngày chịu khó tập luyện, nên những phép đó đã nắm được cả“.
Chúng bạn đều tỏ ra cảm phục, muốn Ngộ Không trình diễn một chút. Được khen ngợi, tinh thần phấn chấn, Ngộ Không liền hưng phấn: “Các anh thử ra đề mục, muốn tôi biến ra cái gì“. Mọi người yêu cầu biến ra cây tùng, Ngộ Không lắc mình một cái liền biến ngay ra được.
Chúng bạn thấy thế reo hò, nhảy nhót, khen ngợi mãi, chẳng ngờ kinh động đến tổ sư. Sư phụ bèn chống gậy ra cửa, mắng: “Các ngươi la hét ầm ĩ, không ra thể thống người tu hành. Người tu hành mở miệng ra thì thần khí tán, lưỡi động thì thị phi sinh. Làm sao mà các ngươi cười đùa ở đây?“. Sau khi biết rõ sự tình, tổ sư quát đuổi những khác đi và gọi Ngộ Không tới quở phạt:
“Ngộ Không, lại đây! Ta hỏi ngươi sử dụng tinh thần thế nào? Biến thế nào ra cây tùng? Công phu ấy có thể đùa cợt trước mặt mọi người sao? Giả sử ngươi thấy người khác có, ắt phải cầu người ta. Người khác thấy ngươi có, ắt phải cầu ngươi. Nếu ngươi sợ tai vạ, ắt phải truyền cho người ta. Nếu không truyền sẽ bị hại, tính mệnh nhà ngươi khó mà giữ nổi”. Cuối cùng tổ sư bèn đuổi Ngộ Không đi.

Vậy là Hầu vương coi như kết thúc hơn chục năm lênh đênh bốn bể, tầm Tiên học Đạo của mình.
Chúng bạn yêu cầu biến ra cây tùng, Ngộ Không lắc mình một cái liền biến ra ngay.
Ẩn ý khó lường
Người đọc đến đoạn này không khỏi tiếc ngẩn ngơ cho Ngộ Không, cũng trách tổ sư quá nghiêm khắc, nỡ lòng đuổi đi trò yêu. Hơn thế, tổ sư còn bắt Ngộ Không thề rằng về sau có xảy ra chuyện gì cũng không được nói y là đệ tử của ông. Xem ra, lần này ra đi là đôi đường cách biệt, tình sư đồ cũng chẳng còn. Nhưng tổ sư Bồ Đề là bậc đắc Đạo, vốn thấu lẽ đời, chắc không phải vô duyên vô cớ mà giận dữ, mắng đuổi Ngộ Không.
Trước hết, ông thực sự muốn dạy cho Tôn Ngộ Không một bài học về sự khiêm tốn. Ngộ Không luyện thành 72 phép biến hóa, dương dương tự đắc, ở trước chúng bạn mà khoe mẽ, trổ tài chính là xuất phát từ tâm lý muốn được hiển thị, muốn được người khác phỉnh nịnh, công nhận. Với người tu hành mà nói, đây là một loại tâm lý hết sức không tốt. Một khi nhận được lời khen tụng, người tu hành sẽ bị mê lạc, hiu hiu tự đắc, tự cho mình có khả năng, sẽ rơi rớt trong vòng danh lợi.
Ngộ Không vì bị tâm danh lợi dẫn động mà thi triển thần thông trước mặt chúng bạn, nhìn thì là một việc nhỏ, chỉ là đùa vui nhưng nghiêm khắc mà nói thì chính là khoe khoang bản ngã, cậy mình có tài, sau này ắt là chuốc vạ vào thân. Tổ sư cho rằng, tính mệnh của Ngộ Không “khó mà giữ nổi” cũng là có lý. Bởi cậy vào tài thì tự chuốc lấy sự đố kỵ, ghen ghét của người khác, chuyện về sau thành ra không tốt.
Nhưng đó mới chỉ là nguyên nhân bề mặt. Tổ sư đuổi Ngộ Không không phải vì giận, càng không phải là phạt trách gì. Ông đuổi Ngộ Không đi là bởi đã sớm biết rõ con đường phía trước đầy khúc khuỷu, quanh co mà cũng đầy huy hoàng, tráng lệ của y. Tổ sư đoán trước được rằng: “Chuyến đi này, hẳn gặp điều không hay, nhà ngươi có gây vạ hành hung cũng không được nói là đồ đệ của ta“. Sau này, quả nhiên Ngộ Không đã về núi Hoa Quả Sơn, tụ tập lũ yêu hầu, dựng cờ “Tề Thiên Đại Thánh”, lại lên trời mấy lần phá quấy, ăn trộm đào, uống rượu ngự, trộm linh đơn, phá lò Bát Quái, đại náo Thiên cung, cuối cùng bị giam dưới núi Ngũ Hành.
Có thể nói, con đường ấy dù đầy chông gai nhưng Ngộ Không tất là phải đi, không đi không xong. Đó đã là an bài từ trong số kiếp của y, mệnh Trời khó cưỡng, tổ sư dù đoán được trước song cũng không thể tiết lộ thiên cơ. Ông biết tên đồ đệ này có căn cơ lớn, lại ương bướng bất trị, mai này chắc chắn làm nên chuyện chọc trời khuấy nước, kinh thiên động địa. Nhưng tổ sư cũng biết ngộ tính của Hầu vương không nhỏ, thiện căn ẩn tàng bên trong, có thể tu thành chính quả.
Vậy nên, tổ sư Bồ Đề đuổi Ngộ Không đi chẳng qua chính là tiễn y đi thêm một đoạn đường, đặt y vào cuộc hành trình bất tận phía trước. Ông dạy Ngộ Không 72 phép biến hóa, phép “Cân đẩu vân” cũng là trang bị trước “vốn liếng” cho y trong cuộc vân du bốn biển dài đằng đẵng kia. Hơn nữa, Ngộ Không đã tu luyện thành Thái Ất Tiên, về cơ bản đã hoàn toàn khai ngộ trong môn của tổ sư Bồ Đề, giữ y lại trong núi cũng chẳng ích gì.
Tổ sư Bồ Đề đuổi Ngộ Không đi chẳng qua chính là tiễn y đi thêm một đoạn đường, đặt y vào cuộc hành trình bất tận phía trước.
Ngộ Không là người được chọn để hộ tống Đường Tam Tạng sang Tây Trúc thỉnh kinh, nếu cứ ở mãi trong núi Linh Đài Phương Thốn liệu có được chăng? Đã học thành tài, ắt phải có đất dụng võ. Tổ sư đuổi Ngộ Không, bề ngoài nhìn thì là trách phạt nặng nề, khai trừ khỏi sư môn nhưng thực chất là tạo cho y cơ hội lập thành công đức to lớn và tu luyện thêm một lần nữa trong Phật môn. Về lý mà nói thì tổ sư đuổi Ngộ Không cũng chính là chiếu cố cho y nhất rồi.
Con đường tu luyện của Ngộ Không là rất đặc biệt, đầu tiên là khai ngộ trong Đạo gia sau đó lại tu đến cảnh giới Phật trong Phật môn. Đặc biệt đến thế âu cũng là điều dễ hiểu. Thần Phật đã sớm an bài Ngộ Không là trợ thủ đắc lực phò Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh. Chuyện thỉnh kinh là việc hệ trọng nhất lúc bấy giờ, các Thần đều quản. Ngay cả yêu ma quỷ quái chặn đường cũng chỉ đơn giản là để khảo nghiệm lòng kiên định của 4 thầy trò chứ hoàn toàn không dám phá hoại việc lấy kinh.
Cả người lấy kinh và người phò tá đều có sứ mệnh lớn lao trong trời đất. Không có Đường Tăng thì Ngộ Không có dùng “Cân đẩu vân” bay một mạch đến Linh Sơn cũng chẳng thể lấy được chân kinh. Mà trái lại, không có Ngộ Không trừ ma diệt quái, mở đường băng lối, phò trợ ngày đêm thì Đường Tăng cũng chẳng đi nổi trăm dặm, nói gì đến tận chùa Đại Lôi Âm mà thỉnh Đức Phật? Người ta mê Tây Du Ký cũng chính bởi sự tài tình, khéo léo như duyên Trời sắp đặt như vậy đấy! Bạn có đồng ý không?
Văn Nhược

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Bí ẩn thân thế của Tôn Ngộ Không, rốt cuộc Mỹ Hầu Vương là ai trong lịch sử?


Qua bộ truyện “Tây Du Ký”, cái tên Tôn Ngộ Không đã ăn sâu vào tâm trí người đọc. Tuy nhiên, thân thế, nguồn gốc của Ngộ Không vẫn luôn là điều khiến nhiều người băn khoăn. Có người nói Ngộ Không là người Cam Túc (Trung Quốc), lại có người bảo Ngộ Không là người Ấn Độ.
Cao tăng Đại Đường “Thích Ngộ Không”

Tìm trong sử sách, quả đúng là có một người tên là Ngộ Không. Thích Ngộ Không (731 – 812), tên tục là Xa Phụng Triều, người quận Kinh Triệu huyện Vân Dương. Ông là một hậu duệ xa, có liên quan tới Thác Bạt Thị (bộ lạc sau này đã gây dựng nên triều Bắc Ngụy, thống nhất toàn miền bắc Trung Hoa). Ngộ Không từ nhỏ tư chất thông minh, yêu thích Nho học, là người nổi tiếng hiếu kính và biết cách đối nhân xử thế trong thôn.

Vào năm 751, Ngộ Không theo Trương Quang Thao đi sứ tới Tây Vực, do mắc trọng bệnh nên phải ở lại nước Kiền Đà La (nay là địa phận Peshawar, Pakistan) để dưỡng bệnh mà không thể trở về kinh đô. Trong lúc lâm bệnh nặng, Ngộ Không đã phát nguyện: “Nếu có thể khỏi bệnh nguyện sẽ xuống tóc đi tu”.
Lúc đó Phật Pháp ở đây rất hưng thịnh. Do vậy, sau khi khỏi bệnh, Ngộ Không đi tu, mãi tới năm 789 mới quay trở về kinh thành. Thích Ngộ Không sinh ra muộn hơn so với nhà sư Đường Huyền Trang 40 năm. Tuy nhiên, địa điểm mà cả hai người bắt đầu xuất cảnh cũng chính là từ thành Trường An (tức Tây An ngày nay).
Tranh Tôn Ngộ Không trong một đền thờ Ấn Độ.
Sau khi trở về từ Tây Vực, Ngộ Không bắt đầu biên dịch kinh thư và tham gia vào các hoạt động truyền giáo trong nhiều năm, đồng thời để lại nhiều sự tích và truyền thuyết. Một số học giả tin rằng hành trình của Đường Tam Tạng và Tôn Ngộ Không đã được trộn lẫn vào nhau để tạo nên câu chuyện “thỉnh kinh” đầy thăng trầm suốt nhiều năm.
Năm 757, Ngộ Không nhận pháp sư Tam Tạng làm sư phụ, lấy pháp hiệu là Đạt Ma Đà Đô. Một số thuyết cho rằng, người ta đã đem cái tên Thích Ngộ Không trộn lẫn với cái tên “Hầu Hành Giả”, người luôn ở bên cạnh Đường Tăng trong câu chuyện lấy kinh rồi liên hệ lẫn nhau. Dần dần, hình tượng Tôn Ngộ Không trở nên phổ biến và được thừa nhận rộng rãi.
Viên đá “Thạch Bàn Đà”

Giáo sư Trương Cẩm Trì khoa tiếng Trung thuộc trường Đại học sư phạm Cáp Nhĩ Tân, đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu về câu chuyện Đường Tăng thỉnh kinh được lưu truyền cũng đưa ra một số kiến giải của riêng mình.
Theo ông, khi Huyền Trang sang Tây phương thỉnh kinh, gặp lúc nguy nan đã thu nạp một đệ tử người Hồ tên gọi Thạch Bàn Đà. Đây được cho là nguyên mẫu thực tế của Tôn Ngộ Không trong “Tam Tạng Pháp Sư truyện”. Qua phân tích, giáo sư Trương phát hiện ra một mối liên hệ rất mật thiết giữa Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Thạch Bàn Đà, đó là:
1. Họ đều có thể giải quyết nguy nan;
2. Họ đều có thân phận hành giả như nhau;
3. Mối quan hệ của họ giống như giữa sư phụ và đệ tử;

4. Thạch Bàn Đà chính là Hồ Tăng. Hồ Tăng với Hồ Tôn lại có cách phát âm tương tự nhau. Do đó, câu chuyện “Đường Tăng thỉnh kinh, Hồ Tăng phò tá” có thể dễ dàng truyền thành “Đường Tăng thỉnh kinh, Hồ Tôn phò tá”. Từ đó xuất hiện nhiều câu chuyện truyền kỳ về Tôn Ngộ Không cùng Đường Tăng sang Tây phương bái Phật, cầu kinh.
Tôn Đại Thánh
Trong “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không với đại danh lừng lẫy “Tề thiên đại thánh”, đản sinh từ một hòn đá tiên nằm trên đỉnh núi Hoa Quả Sơn thuộc Đông Thắng Thần Châu, nước Ngạo Lai. Như vậy, thân thế nguyên gốc của Ngộ Không trong “Tây Du Ký” có thể kiểm tra rõ ràng.
Gần đây, các chuyên gia lại phát hiện một bức bích họa về câu chuyện “Đường tăng thỉnh kinh” tại hang đá Du Lâm, tỉnh Cam Túc. Trong bức bích họa đó vẽ một người Hồ có quai hàm khỉ, môi nhọn luôn theo sát Đường Tăng trên đường. Đó được coi là nguyên mẫu của Tôn Ngộ Không.
Một phần của bức bích họa trong hang đá “Đường tăng thỉnh kinh đồ” tại hang đá Du Lâm tỉnh Cam Túc.
Trong bài viết của mình, ông Đoàn Văn Kiệt, viện trưởng danh dự của Viện nghiên cứu Đôn Hoàng đã từng chỉ ra rằng, người khỉ được tìm thấy trong bức bích họa chính là hình tượng nguyên mẫu của Tôn Ngộ Không. Người này tên là Thạch Bàn Đà, quê tại thành phố Tỏa Dương – huyện An Tây – tỉnh Cam Túc hiện nay. Vì vậy Tôn Ngộ Không hẳn phải là người Cam Túc.

Như vậy, có thể nói thân thế thực sự của Tôn Ngộ Không đến nay vẫn còn là một ẩn đố chưa tìm ra lời giải chính xác. Dù vậy, đối với những độc giả say mê “Tây Du Ký” và câu chuyện thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng, điều đó cũng không hề quan trọng.
Hành trình 10 vạn 8 nghìn dặm của thầy trò Tam Tạng từ Trung Thổ sang Tây phương thỉnh kinh với biết bao thăng trầm, ma nạn, về một khía cạnh nào đó, cũng chính là con đường tu dưỡng của đời người ta. Nếu muốn tiến về hạnh phúc viên mãn, người ta chắc chắn phải kinh qua nhiều khổ nạn, nhọc nhằn.
Và muốn đi thật tốt con đường ấy, chắc chắn bạn phải có một Tôn Ngộ Không “mắt lửa ngươi vàng”, ý chí dũng mãnh, trừ yêu diệt quái, cũng chính là phải có được một tinh thần quật cường, ý chí kiên định để đi đến chót cuộc hành trình núi đao biển lửa ấy vậy.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây du ký hé lộ huyền cơ: Vì sao ăn Nhân sâm quả có thể trường sinh?




Rặng thông mát mẻ,
Lối trúc thanh u.
Hạc trắng đón mây bay lượn,
Vượn hầu dâng quả vào ra.
Trước cổng hồ quang cây soi bóng,
Đá nứt rêu xanh hoa lờ mờ.
Cung điện ngất trời mây tía phủ,
Lâu đài lộng lẫy ráng hồng sa.
Thực là nơi phúc địa,
Bồng Lai tiên cảnh mà.
Thanh hư việc đời vắng,
Tĩnh mịch đạo tâm về.
Chim xanh mang thư Vương Mẫu đến,
Oanh tía gửi sách Lão Quân qua
Một vẻ thanh kỳ đạo đức,
Thực chốn thần tiên đây mà!

Khung cảnh thù thắng mỹ diệu ấy chính là nơi xuất sinh một loài cây thần kỳ, thú vị bậc nhất Tây du ký*: Nhân sâm quả, hay còn gọi là Thảo hoàn đơn. Bạn đọc yêu mến truyện Tây du đã bao giờ tự hỏi: Vì sao ăn nhân sâm quả có thể trường sinh?
Cây tiên sinh quả báu
Sau khi thu phục Sa Ngộ Tĩnh, vượt qua khảo nghiệm của bốn vị Nữ Thánh, Đường Tăng cùng các đồ đệ tiếp tục tiến bước trời Tây, một ngày nọ ghé vào Ngũ Trang quán. Tây du ký, hồi thứ 24: “Núi Vạn Thọ, Đại tiên lưu bạn cũ/ Quán Ngũ Trang, Hành Giả trộm nhân sâm” giới thiệu rằng:

“Lại nói chuyện tòa núi này tên gọi núi Vạn Thọ. Trong núi có một đạo quán gọi là quán Ngũ Trang. Trong quán có một vị tiên, đạo hiệu là Trấn Nguyên Tử, còn có tên là Dữ Thế Đồng Quân. Trong quán có một thức báu lạ thường, từ khi vũ trụ còn hỗn độn mới chia, trời đất còn mờ mịt chưa phân, đã có thứ cây linh thiêng này. Trong bốn đại bộ châu của thiên hạ chỉ có quán Ngũ Trang thuộc Tây Ngưu Hạ Châu là có cây này thôi, tên gọi là “thảo hoàn đơn”, lại có tên nữa là “nhân sâm quả”. Giống cây này ba nghìn năm mới nở hoa, ba nghìn năm mới kết quả, lại ba nghìn năm nữa mới chín. Tính ra phải một vạn năm mới được ăn. Và trong một vạn năm ấy chỉ kết được ba mươi quả. Hình dáng quả này tựa đứa bé mới sinh chưa đầy ba ngày, tứ chi hoàn toàn, ngũ quan đủ cả. Ai có duyên được ngửi quả này một lần, thì sống lâu ba trăm sáu mươi tuổi; ăn một quả, sống mãi bốn vạn bảy nghìn năm”.
Hồi trẻ xem Tây du ký, chỉ biết xuýt xoa “Quả này quý quá!”, tự nhủ rằng điều kỳ diệu như vậy chỉ có trong tiểu thuyết thôi chứ nào có ở trần gian? Được nếm quả nhân sâm là cơ duyên vạn cổ. Giờ đây, trải qua một quãng ngày tu luyện rồi đọc lại, người viết mới ngỡ ngàng nhận ra: Cơ duyên vạn cổ ấy đang hiện hữu trong cõi người. Đằng sau câu chuyện vui tươi và ngộ nghĩnh về nhân sâm quả, Tây du ký đã hé lộ huyền cơ.
qua1539165459_9586.jpg
Ai mới được ăn nhân sâm quả?
Chuyện kể rằng, Trấn Nguyên Đại Tiên sửa soạn tới cung Di La nghe giảng Đạo, dặn dò hai đạo đồng là Thanh Phong, Minh Nguyệt ở nhà trẩy hai trái nhân sâm mời Đường Tăng khi ông ghé qua đây. Đường Tăng thấy hình hài quả nhân sâm như đứa bé mới sinh thì nhất định chối từ, hai đạo đồng bèn đem về phòng ăn chứ không mời anh em Hành Giả. Nghe lời Bát Giới xúi giục, Tôn Ngộ Không lẻn ra vườn sau trộm quả nhân sâm, bị hai đạo đồng phát giác, mắng nhiếc thậm tệ. Hành Giả tức giận quật đổ cây nhân sâm, quả cây mất hết, cành rơi lá rụng, rễ đứt thân lìa, cây chết khô. Thanh Phong, Minh Nguyệt dụng kế nhốt mấy trò lại, đợi Trấn Nguyên Đại Tiên về xử trị. Tôn Ngộ Không trổ tài mở khóa, nhân đêm tối đoàn người lẻn đi. Trấn Nguyên Đại Tiên trở về, dùng pháp lực vô biên tóm gọn cả mấy thầy trò, Ngộ Không phải đi cầu cứu thuốc chữa cây khắp ba đảo. Đến đảo Bồng Lai, ba vị tiên Phúc, Lộc, Thọ khi nghe xong câu chuyện thì buồn rầu nói:
“Con khỉ này, chẳng biết hay dở gì cả. Thứ quả ấy ngửi được nó đã sống lâu ba trăm sáu mươi năm; ăn một quả, thọ tới bốn vạn bảy nghìn năm, tên là “Vạn thọ thảo hoàn đơn”. Đạo của chúng tôi còn kém xa! Họ đắc đạo rất dễ, thọ ngang trời đất. Chúng tôi còn phải dưỡng tinh, luyện khí, tồn thần, điều hòa long hổ bồi bổ âm dương, tốn biết bao công sức, khắp cả thiên hạ chỉ có một cây thiêng ấy mà thôi, thế mà Đại Thánh lại bảo chẳng đáng là bao?” (Trích hồi thứ 26: “Khắp ba đảo, Ngộ Không tìm thuốc/ Nước cam lồ, Bồ Tát chữa cây”).
Như lời của ba vị tiên, các đạo sĩ ở quán Ngũ Trang chỉ cần ăn quả nhân sâm là trường sinh bất lão, dễ đến thế là cùng, chẳng như người tu luyện trong pháp môn khác phải bỏ bao công sức.

Theo thiển ý của người viết, dễ dàng chỉ là vẻ bề ngoài, còn tu luyện không có con đường nào nhàn hạ. Ví như pháp môn Tịnh Độ giảng niệm Phật hiệu là có thể đến cõi Cực Lạc, niệm Phật hiệu thì dễ quá, nhưng phải niệm đến mức độ nào? Niệm tới mức nhất tâm bất loạn, trong tâm không còn nghĩ tưởng gì đến danh lợi tình thế gian. Người bình thường e rằng chỉ niệm được chục lần là tâm lại nhảy nhót lăng xăng như khỉ. Đằng sau việc niệm danh hiệu Phật tưởng chừng đơn giản ấy, là công phu hành trì, buông bỏ chấp trước nhân tâm, đề cao tâm tính. Từ đó mà suy, ăn quả nhân sâm chỉ là biểu hiện bề ngoài, đằng sau nó là công phu tu luyện, gian khổ vô chừng.

Vậy để nói, không phải ai cũng có duyên, có phúc được ăn nhân sâm quả. Theo từ điển tiếng Hán, nhân sâm (人參) còn có tên khác là “ngọc tinh” (玉精). Ở hồi thứ 91 “Phủ Kim Bình đêm nguyên tiêu xem xét/ Động Huyền Anh Đường Tam Tạng khai cung”, có bài thơ nhắc đến hai chữ “ngọc tinh” này:
Tu thiền nhất định tốn công phu,
Ý mã tâm viên thảy diệt trừ.
Buộc chặt giữ bền sinh ngũ sắc,
Lỏng lơi dừng lại rớt tam đồ.
Thần đan tiết lậu do buông thả,
Ngọc tinh khô gầy bởi chẳng tu.
Hỉ nộ ưu tư đều quét sạch,
Giúp thành huyền diệu hợp hư vô.
Tây du ký
đề cập tới nhiều thuật ngữ tu luyện Đạo gia, mà “ngọc tinh” ở đây là một trong những thành quả tu xuất lai nhờ tu luyện. “Ngọc tinh khô gầy” trùng khớp với việc cây nhân sâm bị Tôn Ngộ Không quật đổ, rễ đứt thân lìa cây héo khô. Lý do là “bởi chẳng tu”: người tu luyện nếu buông tuồng phóng túng, không giữ gìn tâm tính, như Ngộ Không phá giới đã ăn trộm, nói dối, thì ở một không gian khác, những thành quả của tu luyện đang bị hao tổn, chết mòn mất rồi. Khi ấy, chỉ có nước Cam Lồ của Bồ Tát, hàm ý chỉ Phật Pháp như mưa thấm nhuần, mới có thể giúp cây hồi sinh.
Như vậy, nhân sâm quả không phải là thứ trái cây tự sinh tự dưỡng, tuỳ ý hái ăn, mà là biểu trưng cho thành quả tu luyện của một người. Thật vậy, Tây du ký, hồi thứ 24 viết:
“Đúng hôm ấy, Trấn Nguyên Đại Tiên nhận được tờ thiếp của Nguyên Thủy Thiên Tôn mời đến cung Di La trên Thương Thanh Thiên nghe giảng về “Hỗn nguyên đạo quả”. Các vị tiên trưởng thành từ cửa của Đại Tiên tản đi các nơi đã không biết bao nhiêu mà kể, hiện nay ngài vẫn còn bốn mươi tám người đồ đệ nữa, cả thảy đều đắc đạo toàn chân”.
Tên bài giảng mà Đại Tiên đi nghe là “Hỗn nguyên đạo quả”, diễn nghĩa bề mặt là quả vị của tu đạo từ thuở hỗn nguyên, nhưng đó chẳng phải cũng là đang nói đến quả nhân sâm báu ở nhà đạo sĩ, sinh ra từ thứ cây linh thiêng có từ khi trời đất mờ mịt hay sao? Được nếm mùi vị của quả ấy, phải chăng là ẩn dụ cho “đắc quả vị” mà tu luyện Phật gia và Đạo gia nói đến, cũng là chỉ một người “tu thành chính quả”? Chữ “vị” trong “quả vị” có nghĩa là vị trí, đồng âm với chữ “‘vị” trong mùi vị.
Lại nữa, lúc sắp đi, Trấn Nguyên Đại Tiên đinh ninh dặn dò đồ đệ thêm rằng: “Nhân sâm quả đã có số, chỉ được mời ngài ấy hai quả, không được mời nhiều”. Chữ “số” này là số lượng, cũng chính là chữ “số” trong “số phận”, “số mệnh”. Số quả nhân sâm trên cây là có hạn, phải chăng cũng là nói những ai tu thành chính quả là đã được số mệnh an bài cả rồi, là cơ duyên đặt định từ lịch sử rất xa xưa? Ví như Đường Tăng vốn là Kim Thiền trưởng lão, đồ đệ thứ hai của Phật Tổ giáng sinh, trải qua mười kiếp tu hành, kiếp này mới có duyên được sang Tây Thiên bái Phật. Hay như các đồ đệ của Trấn Nguyên Đại Tiên đều đã tu thành đắc đạo, thế nên mới có phúc báu được ăn thứ quả thần tiên.
Pháp môn tu luyện
Trong Tây du ký, ngoài nhân sâm quả, còn một loại quả khác ăn vào cũng trường sinh. Đó là quả đào tiên của Tây Vương Mẫu, mà Tôn Ngộ Không đã trộm ăn biết bao nhiêu hồi đại náo thiên cung. Hồi thứ năm “Loạn vườn đào Đại thánh trộm thuốc tiên/ Về thiên cung, các thần bắt yêu quái” có viết:
“Đại Thánh ngắm nghía hồi lâu, hỏi thổ địa rằng:
– Vườn đào này có bao nhiêu gốc?

Thổ địa đáp:
– Có ba nghìn sáu trăm cây, đằng trước có một nghìn hai trăm cây, hoa quả nhỏ bé, ba nghìn năm mới chín, người ăn vào sẽ thành tiên, thân nhẹ người khỏe. Ở giữa có một nghìn hai trăm cây, hoa thơm quả ngọt, sáu nghìn năm mới chín, người ăn vào có thể bay bổng lên mây, trẻ mãi không già. Một nghìn hai trăm cây ở phía sau, vỏ vân tím hột vàng lợt, chín nghìn năm mới chín, người ăn vào thọ ngang trời đất, sánh cùng nhật nguyệt”.

Tu luyện Đạo gia có 3600 pháp môn, phải chăng đây là hàm ý đằng sau 3600 cây đào của Tây Vương Mẫu? Tu Đạo có thể khai thông kinh mạch, thân nhẹ người khoẻ, thư tịch cổ có ghi chép nhiều trường hợp đắc đạo “bạch nhật phi thăng” (giữa ban ngày sáng tỏ người kia bay lên) như Hiên Viên Hoàng Đế, Tư Mã Thời Trinh và Tạ Tự Nhiên đời Đường… Những điều này ứng với công hiệu thần kỳ của đào tiên. Tu luyện cải biến thân thể nội tại của con người, không còn chịu sự ước thúc của quy luật vật chất của tầng không gian này, nên người tu luyện đắc Đạo có thể trường sinh bất lão. Nhưng đắc được chân Pháp để tu hành nào có dễ, cây đào tiên và cây nhân sâm mấy nghìn năm mới ra hoa kết quả, con người muốn tu thành chính quả phải trải qua bao đời bao kiếp gian truân.
Tương tự như quả nhân sâm và trái đào tiên, Tây du ký nhắc đến việc ăn linh đơn có thể thọ cùng nhật nguyệt. Thứ linh đơn của Thái Thượng Lão Quân là “kim đơn chín lần luyện” (Trích hồi thứ năm), đây cũng là chỉ “Cửu chuyển kim đan thuật”, một pháp tu của Đạo gia. Cây nhân sâm còn có tên “Thảo hoàn đơn”, ý nghĩa đằng sau có lẽ tương tự như thế. An đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan (đặt đỉnh lập lò, gom thuốc luyện đan), nghe thì như chuyện bếp núc tầm thường, mà kỳ thực là công phu tu luyện tâm tính.
Cây nhân sâm nở hoa
Nếu như ăn quả nhân sâm là hình tượng một người tu luyện đắc quả vị, thì cây nhân sâm khai hoa có ẩn ý gì? Tây du ký, hồi thứ 19 “Động Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới, Núi Phù Đồ, Tam Tạng nhận Tâm Kinh”, Trư Bát Giới lần đầu giao chiến với Tôn Ngộ Không cũng đã từng nhắc đến ba bông hoa nở:
Từ nhỏ sinh ra vốn vụng về,
Ưa nhàn lười biếng chẳng làm chi.
Chẳng thích tu tâm cùng dưỡng tính,
Hỗn độn, ngu si sống thỏa thuê.
Bỗng hôm nhàn nhã gặp chân tiên,
Hay dở đường tu, kể chuyện liền.
Khuyên hãy quay đầu, đừng trụy lạc,
Thương sinh thì sẽ chịu oan khiên.
Một sớm lâm chung về địa phủ,
Tám nạn ba đường chẳng lối lên.
Ta nghe đổi ý xin tu luyện,
Quyết chí vâng lời, học đạo tiên.
Có phúc gặp người sư phụ giỏi,
Chỉ cho địa quyết với thiên quan.
Luyện suốt đêm ngày, không biết mỏi,
Thầy lại truyền cho
cửu chuyển đơn.
Từ cung nê hoàn trên đỉnh thóp,
Tới giữa bàn chân huyệt dũng tuyền.
Rồi từ thận thủy hoa trì nhập,
Đê mê dược bổ ấm đan điền.
Thủy ngân, chì, âm dương phối hợp,
Nhật nguyệt đôi vầng rõ rệt cho.
Ly rồng, Khảm hổ điều hòa khéo
Rùa thiêng hút hết nước kim ô.
Quy căn đỉnh thóp
ba hoa nở,
Nguyên thông thấu triệt mây lành che.
Công thành danh toại lên trời ở,
Người tiên từng cặp đón đưa về.

Ba hoa nở trên đỉnh thóp ở đây là chỉ “tam hoa tụ đỉnh”, hiện tượng xuất hiện khi người tu luyện đã tu đến tầng thứ rất cao, khi cơ thể người tu luyện chuẩn bị được chuyển hoá hoàn toàn thành vật chất cao năng lượng. Bức tranh “Thiên nhân hợp nhất” của hoạ sĩ Trần Tiếu Bình vẽ một cô gái trẻ đang tập bài thiền định của Pháp Luân Đại Pháp, thể hiện sinh động trạng thái “tam hoa tụ đỉnh” này.
thien-nhan-hop-nhat-tran-tieu-binh.jpg

“… tôi đã quyết định tập trung vào sự hòa hợp giữa người tu luyện và thiên giới thông qua tam hoa tụ đỉnh. Nhằm bộc lộ được chiều sâu và bề rộng của cột trụ ánh sáng, tôi đã vẽ biển làm nền. Bằng cách này, người tu luyện đang thiền định và cột trụ ánh sáng trên đầu của cô sẽ trở nên nổi bật. Tôi cũng vẽ các hài nhi từ khác không gian khác để làm bức tranh thu hút hơn và để lái sự chú ý khỏi đường thẳng tắp trong cột trụ ánh sáng. Những hài nhi đang bay lơ lửng mang lại nhiều sức sống cho bức tranh. Những hài nhi này thực sự tồn tại trong các không gian khác, chỉ có là người thường không thể nhìn thấy chúng”.
Hoạ sĩ Trần Tiếu Bình
Những hài nhi này có mối liên hệ gì với hình dáng trẻ sơ sinh của quả nhân sâm? Tu luyện là điều siêu thường, những cảnh tượng mà người tu luyện nhìn thấy cũng siêu thường, đây là điều mà khoa học thực chứng khó lòng đo lường được. Vậy nên, các loại tu luyện và tín ngưỡng trong lịch sử xưa nay đều giảng Tín, trước cần tin, sau mới có thể nhìn thấy. Cây nhân sâm 3000 năm mới nở hoa, lại 3000 năm nữa mới kết quả, chính là nói “Tam hoa tụ đỉnh” vẫn chưa phải là tầng thứ cuối cùng trên hành trình tu luyện. Người tu luyện có căn cơ, ngộ tính tốt, quyết tâm cao, có thể tiếp tục tu lên trên, cho đến ngày thành chính quả.
Mở đầu Tây du ký có viết: “Dục trị tạo hóa hội nguyên công, Tu khán Tây Du thích ách truyện”, ý nói rằng: Muốn biết công của tạo hóa ra sao, muốn hiểu được ý nghĩa của đời người thế nào, vậy cần phải hiểu Tây du ký. Tây du ký tiết lộ những huyền cơ cao siêu ảo diệu về tu luyện, mà lại ẩn dưới vẻ ngoài thú vị vui nhộn của một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn thiếu nhi. Là vì người thường không hiểu, không tin tu luyện, biết đâu một lúc nào đó sẽ phỉ báng Thần Phật, nên muốn lưu truyền ngàn năm không thể nói toạc hết thiên cơ.
Nhưng lịch sử đằng đẵng đi tới hôm nay, đã là thời mạt kiếp, rất nhiều bí mật chôn giấu rất sâu đều đang dần hé lộ. Những điều người viết chợt hiểu ra khi đọc cố sự Đại Thánh trộm nhân sâm trên đây chỉ là thể ngộ hạn hẹp trong cảnh giới sở tại, trong khi danh tác Thần truyền lại có nội uẩn thâm sâu vô vàn. Quý độc giả muốn tự mình cảm ngộ, tự mình chứng đắc, xin hãy thử một lần kính cẩn đọc toàn bộ Chuyển Pháp Luân** – cuốn sách chỉ đạo tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, là thiên cổ kỳ thư khai mở mọi ẩn đố về sinh mệnh và vũ trụ.
Mọi trần duyên rũ hết,
Thảy vật sắc là không.
Mộc mạc phác thuần tình dục ít.
Tự nhiên hưởng thọ mãi vô cùng.

Chú thích:
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học.
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tôn Ngộ Không thông minh nhanh nhẹn, vì sao từng bị sư phụ mắng là ‘ngu’?




Trên hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh, Đường Tăng bao phen sa vào tay yêu quái, may có Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại, ứng biến thông minh nên mới thoát khỏi vòng nguy hiểm. Cả Bát Giới, Sa Tăng tuy pháp lực có kém hơn một chút, nhưng cũng là Thiên Bồng Nguyên Soái xuống trần, Quyển Liêm Đại Tướng hạ giới. Thế mà cả ba người bọn họ từng bị sư phụ mắng một lượt là “chí hạ chí ngu” (kém cỏi nhất, ngu dốt nhất). Sự thể là thế nào?
Tây du ký* kể rằng,
sau khi đấu phép thắng ba đạo sĩ yêu quái ở nước Xa Trì, giúp quốc vương tỉnh ngộ, cứu nạn các nhà sư, Tôn Hành Giả hộ tống sư phụ tiếp tục lên đường sang Tây. Bốn thầy trò ngày đi đêm nghỉ, khát uống, đói ăn, thấm thoắt xuân hết hè tàn, tiết thu đã đến. Một hôm, trời đã sẩm tối, trước mặt lại có sông Thông Thiên “Rộng quá tám trăm dặm, từ xưa ít người qua”, đoàn người đành vào tạm một nhà dân đang tấu nhạc làm lễ để xin nghỉ trọ.
Hồi thứ 47 “Thánh tăng đêm vướng sông Thông Thiên, Hành Giả thương tình cứu con trẻ” có viết:

“Đoạn, cụ già nói:
– Mời vào! Mời vào! Nhà chúng tôi có chỗ nghỉ đấy.
Tam Tạng quay đầu gọi to:
– Các đồ đệ ơi, vào đây.
Hành Giả vốn tính nóng nảy, Bát Giới sinh ra đã thô lỗ, Sa Tăng thì lì lợm. Ba người nghe thấy tiếng sư phụ gọi, bèn dắt ngựa, gánh hành lý, bất kể hay dở ùa cả vào như một trận gió. Cụ già nhìn thấy, sợ quá ngã lăn ra đất, miệng lắp bắp:

– Yêu quái đến! Yêu quái đến!
Tam Tạng đỡ cụ già dậy, nói:
– Cụ đừng sợ, không phải yêu quái đâu, đồ đệ của tôi đấy.
Cụ già run rẩy nói:
– Sư phụ trông đẹp như vậy, mà sao đồ đệ lại xấu thế kia?

Tam Tạng nói:
– Tuy xấu người nhưng lại có tài hàng long phục hổ, bắt quái tróc yêu.
Cụ già nửa tin nửa ngờ, đỡ Đường Tăng thong thả đi vào.
Lại nói chuyện ba người thô lỗ cứ xông bừa vào hiên nhà buộc ngựa đặt gánh. Trong nhà lúc ấy đang có mấy vị hòa thượng đang ngồi tụng kinh. Bát Giới dẩu cái mõm ra hỏi lớn:
– Các ngài niệm kinh gì đấy?

Mấy hòa thượng nghe tiếng hỏi, vội vàng ngẩng đầu nhìn ra:
Nhìn thấy người đứng ngoài,
Mồm dài tai to vểnh.
Người thô, lưng tấm phản.
Tiếng ồm ồm sấm vang.
Hành Giả và Sa Tăng.
Mặt mũi dáng dữ tợn.
Trong nhà mấy hòa thượng,
Đều hoảng hốt giật mình.
Sư chủ còn đọc kinh.
Sư cụ bảo dừng lại.
Chuông khánh chẳng ai đoái.
Tượng Phật vứt chỏng chơ.
Đèn nến tắt, tối mờ,
Người người bỏ chạy ráo,
Sờ soạng, chân lảo đảo.
Bậu cửa bước không qua.
Đầu vào đụng đầu ra,
Như bầu khô trong lốc.
Đạo tràng đang nghiêm túc.
Bỗng thành trận cười rền!

Ba anh em thấy mấy hòa thượng ngã lăn ngã lộn, vỗ tay cười ầm cả lên, làm cho mấy nhà sư càng sợ hãi, chạm trán đụng đầu, bỏ chạy thục mạng chẳng còn một ai cả.
Tam Tạng dìu cụ già bước vào trong nhà, thấy đèn nến tắt tối om, ba người vẫn đang cười ngặt nghẽo, bèn mắng:
– Đồ súc vật khốn kiếp, thật là bất thiện! Ta sớm sớm dạy dỗ, ngày ngày dặn dò. Cổ nhân nói: “Không dạy mà thiện chẳng thánh là gì? Dạy rồi nên thiện, chẳng hiền là gì? Dạy mãi không thiện, chẳng ngu là gì?”. Vậy mà các ngươi cứ hỗn láo mãi như thế thì chẳng phải là loại chí hạ chí ngu sao? Bước vào nhà chưa biết nếp tẻ, làm cụ già đây ngã lăn, các nhà sư tụng kinh chạy ráo, làm hỏng mọi việc hay của nhà người ta, như thế có phải là đổ tội lên đầu ta không?
Sư phụ mắng xong, ba anh em im thin thít chẳng ai dám nói gì”.

Thì ra, ý nghĩa của từ “ngu” này vốn không như cách hiểu thời hiện đại. Thời nay, những ai chậm chạp hiền lành, không biết tranh giành lợi ích, mồm mép không lanh lợi, bị người ức hiếp, thường phải chịu thiệt, thì bị gọi là ngu. Cách hiểu này quả là đã cách xa một trời một vực với ý nghĩa chân chính tự ngàn xưa! Người mà hôm nay bị coi là ngu đần, thực ra lại là người hiền thiện, thánh thiện, là cảnh giới mà cổ nhân thường ca ngợi.
Trong ba đồ đệ của Đường Tăng, theo cách nói thời hiện đại thì Trư Bát Giới là “thông minh” nhất. Anh chàng này trước khi theo sư phụ còn dặn dò “bố vợ” chăm sóc vợ mình chu đáo, “Chỉ sợ nhất thời lỡ xảy ra điều gì thì hỏng cả việc làm hòa thượng, hỏng cả việc lấy vợ, xôi hỏng bỏng không thì sao?”. Trên đường đi, cứ lúc nào gặp yêu ma hung dữ, tình cảnh hiểm nghèo là chàng ta lại nhanh nhanh đòi phân chia hành lý, tếch về Cao lão trang vui thú vợ con. Khi gặp nạn ở thành Sư Đà, ta mới biết “hắn còn góp nhặt dành dụm được ít vốn riêng”, đúc được một khối bạc bốn đồng cân sáu hoa giắt vào lỗ tai. “Cẩn thận”, “thông minh”, “biết lo xa” là thế, mà cuối cùng Bát Giới chỉ tu thành Tịnh Đàn Sứ Giả, trong khi Đường Tăng “ngờ nghệch” lại thành Phật mất rồi.
Thế mới biết, cái “thông minh” mà người thường hôm nay vẫn tán thưởng, hoá ra chẳng thông minh tí nào. Con người dưới sự dẫn dắt của tâm tham lam, truy cầu danh lợi mà chẳng từ thủ đoạn để hãm hại người khác, tranh tiền đoạt vị, lại còn tự tưởng rằng mình rất thông minh. Nào biết rằng càng “thông minh” như thế thì càng rời xa tính thiện, càng tạo nghiệp chất chồng, trong tương lai phải đem thân trả nợ bằng khổ đau, bệnh tật, đọa địa ngục, đầu thai làm súc sinh… Chỉ những ai bỏ ác làm lành, sửa tâm theo thiện, lễ độ khiêm cung, mỗi ý niệm ngôn hành đều nghĩ cho người khác, thì mới là thông minh thực sự, trở thành bậc Thánh hiền có tương lai tốt đẹp.
Nên ở đoạn Tôn Ngộ Không ỷ sức làm càn, đại náo thiên cung, bị Phật Đà giam dưới Ngũ Hành Sơn, Tây du ký có bài thơ rằng:
“Phú quý công danh,
Số duyên đã định
Chính đại quang minh
Lọc lừa nên tránh
Phúc quả dành cho người lương thiện,
Hành vi cuồng vọng trời tha đâu
Nhãn tiền chưa gặp, gặp mai sau,
Hỏi Đông quán vì sao,
Mà nay nhiều tai ách?
Chỉ tại kiêu căng khinh trời đất,
Dưới trên bất kể loạn cương thường”.

Ngẫm ra, Tôn Ngộ Không vốn đã từng ngu si như vậy, nhờ quy y Phật Pháp, nỗ lực một phen gian khổ tu luyện mới có thể quay về bản tính lương thiện thuần chân, minh tâm kiến tính. Có lẽ nhờ lời mắng mỏ của sư phụ mà Hành Giả càng về sau càng lễ độ, từ bi, cuối cùng tu thành chính quả.

*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Hành trình tu luyện của Ngộ Không: Từ oán hận đến tôn kính Bồ Tát

Những độc giả yêu mến Tây du ký* hẳn còn nhớ, suốt dọc đường thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng, Quán Thế Âm Bồ Tát luôn ân cần dõi theo phù hộ. Bồ Tát vâng mệnh Phật Tổ tìm người đi lấy kinh, an bài ma nạn để thành tựu cho người ấy, Ngài luôn xuất hiện trong những thời khắc hiểm nguy nhất, cứu khổ cứu nạn. Nếu như Đường Tăng đối với Bồ Tát trước sau như một, lúc nào cũng giữ tâm chí thành, tôn kính, thì Tôn Ngộ Không lại không như vậy. Ngộ Không đã trải qua một hành trình gian khổ tu tâm, từ oán hận đến tôn kính Bồ Tát.
Lần đầu tiên Ngộ Không gặp Bồ Tát là ở dưới núi Ngũ Hành Sơn, được Bồ Tát khuyến thiện nên nguyện đi theo phò tá Đường Tăng, tu hành chính đạo. Trên bề mặt thì thấy Ngộ Không biết ơn Bồ Tát, vui vẻ vâng lời, nhưng đến lúc gặp khảo nghiệm đầu tiên mới lộ ra đấy chưa phải là lòng thành kính chân thật.
Khởi đầu bất thuần và oán hận
Tây du ký, hồi thứ 14
“Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi“, Tôn Ngộ Không sau khi giết sáu tên cướp thì bị Đường Tăng mắng nhiếc thậm tệ, tức không chịu nổi nên cưỡi mây bay tót về Đông. May được Long vương lựa lời khuyên nhủ, Hành Giả hồi tâm chuyển ý, quyết chí quay lại hộ vệ Đường Tam Tạng. Đường Tăng được Bồ Tát chỉ dẫn, dụ Ngộ Không đội vòng kim cô lên đầu và niệm chú, khiến Ngộ Không đau đớn quằn quại, hứa từ nay sẽ không dám vô lễ nữa.

“Ngộ Không miệng tuy nói vậy, nhưng trong lòng vẫn tức lắm, rút cây kim ra vung lên biến thành cây gậy sắt nhắm đầu Đường Tăng bổ xuống. Đường Tăng sợ quá, vội niệm luôn hai, ba lần. Hành Giả ngã lăn ra đất, rơi cả gậy sắt, không nhấc tay lên được, đành kêu:
– Sư phụ ơi, con chừa rồi, đừng niệm nữa! Đừng niệm nữa!
Tam Tạng nói:
– Sao ngươi lừa dối, dám đánh cả ta?
Hành Giả thưa:

– Con không dám đánh nữa. Nhưng con hỏi sư phụ ai truyền cho sư phụ phép này?
Tam Tạng đáp:
– Vừa nãy có một bà lão truyền cho ta.
Hành Giả giận lắm, nói:
– Bà lão ấy đúng là Quan Âm rồi. Tại sao lại hại ta như vậy. Đợi ta sang tận Nam Hải, nện cho mụ ta một trận.

Tam Tạng nói:
– Phép ấy ngài truyền cho ta, thì chắc ngài cũng nắm được. Nếu ngươi đến, ngài mà niệm lại chẳng chết toi mạng.
Hành Giả nghe nói có lý, không dám đi nữa, đành định tâm quỳ xuống van xin:
– Thưa sư phụ, Quan Âm dùng phép này để hành hạ con, bắt con đưa sư phụ sang phương Tây đấy thôi. Con cũng không đi gây sự với ngài ấy nữa. Sư phụ cũng đừng chấp lời nói thường ngày của con mà tụng niệm nữa. Con xin hộ vệ sư phụ, không dám chán ý nản lòng nữa đâu”.
Lúc này, Tôn Ngộ Không định sang tận Nam Hải, nện cho Quan Âm một trận, cái tâm này còn hung hãn ngông ngạo lắm!

Hiểu lầm tấm lòng của Bồ Tát
Sau này, sau khi đã thu phục được Bát Giới, Sa Tăng, trải qua nhiều thử thách, cái tâm của Hành Giả đã phần nào ổn định vững vàng hơn, thật lòng thật dạ sang Tây Thiên bái Phật. Đến núi Bình Đính, gặp hai yêu quái lợi hại là Kim Giác và Ngân Giác, Tôn Ngộ Không chẳng quản khó nhọc, trổ hết thần thông và mưu kế, mấy phen vào sinh ra tử mới cứu được thầy. Cả đoàn người thoát nạn, phấn khởi tiến bước lên đường. Tây du ký, hồi thứ 35 “Ngoại đạo ra oai lừa tính thẳng, Ngộ Không được báu thắng yêu ma”, có viết:
“Đang đi, bỗng từ ven đường có một người mù xông ra túm lấy đầu ngựa của Tam Tạng, nói:
– Hòa thượng đi đâu? Trả bảo bối cho ta!
Bát Giới hoảng quá nói:
– Hỏng rồi! Lão yêu đến đòi bảo bối kìa!
Hành Giả nhìn kỹ thì hóa ra Thái Thượng Lý Lão Quân bèn vội vàng tiến đến lạy chào:
– Kính chào Lão Quân! Ngài đi đâu vậy?
Vị lão tổ vội vã bay ngay lên tòa sen bằng ngọc, đứng thẳng giữa tầng trời cao thẳm, nói:
– Tôn Hành Giả, trả lại bảo bối cho ta!
Đại thánh cũng nhảy lên tầng không hỏi:
– Bảo bối nào ạ?
Lão Quân nói:
– Hồ lô là thứ đựng linh đơn của ta, bình ngọc là thứ đựng nước của ta, bảo kiếm là thứ ta dùng luyện ma, chiếc quạt ta dùng quạt lửa, sợi dây kim tuyến là cái đai thắt áo bào. Còn hai yêu quái ấy: một là tiểu đồng coi lò vàng, một là tiểu đồng coi lò bạc. Chúng đã ăn cắp bảo bối của ta trốn xuống hạ giới. Ta đang đi tìm, nay nhà ngươi lập công bắt được rồi à?
Đại Thánh nói:
– Ngài làm quan lâu năm mới thực vô lễ. Ngài đã thả lỏng cho người trong nhà làm điều xằng bậy. Phải xử ngài vào tội cai quản không nghiêm.
Lão Quân nói:
– Không can hệ gì đến ta, chớ có trách người. Việc này do Bồ tát ở ngoài biển, ba lần hỏi mượn ta, đưa chúng xuống đấy, để thử thách thầy trò các ngươi xem có thực lòng sang phương Tây không.
Đại Thánh nghe nói, nghĩ bụng:
– Cái bà Bồ Tát thực chẳng ra sao! Khi trước cứu thoát lão Tôn xong, dặn ta bảo vệ Đường Tăng sang phương Tây lấy kinh, ta nói đường sá xa xôi trở ngại, bà ta còn hứa với ta rằng khi nào gặp nạn, sẽ thân hành tới cứu. Thế mà bây giờ lại sai yêu ma ngầm hại, hỏi rằng bất nhất như thế, cũng đáng kiếp cả đời không có chồng! Nếu không có Lão Quân đến, ta quyết không trả. Nay ngài đã nói như vậy, thì trả cho ngài”.
Ôi, tới tận lúc này mà Ngộ Không vẫn chưa hiểu cho tấm lòng của Bồ Tát! Bồ Tát khổ công chu toàn, ba lần cầu khẩn Lão Quân để an bài ma nạn giúp mấy thầy trò chứng tỏ lòng thành, vứt bỏ nhân tâm, thành tựu uy đức, thế mà Ngộ Không lại cho rằng Ngài dối trá ngầm hại. Tuy vậy, bấy giờ Tôn Ngộ Không đã biết ‘nhẫn’, chỉ nghĩ chứ không thốt ra khỏi miệng, và ý nghĩ chỉ dừng ở sự trách móc chứ không còn định động tay động chân nữa. Đó đã là một bước tiến trên đường tu luyện của Hành Giả rồi.
Trở nên cung kính và chân thành
Hết nạn ở núi Bình Đính, sau đó lại giải thoát xong cho quốc vương nước Ô Kê, mấy thầy trò tiếp tục lên đường thì đụng độ Hồng Hài Nhi, yêu quái có tuyệt chiêu phun lửa “Tam muội” mà nước của Long vương tứ hải cũng không dập được. Sau khi chết đi sống lại, Ngộ Không nén đau, tự mình bay đến núi Phổ Đà cầu Bồ Tát. Hồi thứ 42 “Đại Thánh ân cần cầu Bồ Tát, Quan Âm từ thiện trói Hồng Hài” có viết:
“Bồ Tát nghe báo, ra lệnh cho vào. Đại Thánh vâng lời, sửa lại áo xống, nghiêm trang bước vào, thấy Bồ Tát, bèn cúi mình lạy. Bồ Tát hỏi:
– Ngộ Không, nhà ngươi không đưa Kim Thiền Tử sang phương Tây lấy kinh, lại đến đây có việc gì?
Hành Giả thưa:
– Kính thưa Bồ Tát, đệ tử hộ vệ Đường Tăng đi đường, đến một nơi gọi là núi Hiệu, khe Khô Tùng, động Hỏa Vân, có con yêu tinh tên là Hồng Hài Nhi, hiệu là Thánh Anh đại vương bắt mất sư phụ. Đệ tử và Trư Ngộ Năng đã tìm tới cửa động đánh nhau với nó, bị nó phóng lửa Tam muội, chúng con bị thua không cứu được sư phụ. Con vội vàng sang Đông Dương đại hải mời Long vương bốn biển, tới làm mưa giúp, mà cũng không dập tắt được ngọn lửa, đệ tử lại còn bị đốt mê man, tưởng không sống nổi.
Bồ Tát nói:
– Nó đã có thứ lửa Tam muội, thần thông quảng đại, tại sao còn đi mời Long Vương mà không đến mời ta?
Hành Giả nói;
– Đệ tử định đi, nhưng bị lửa đốt đau quá, không cưỡi mây nổi, bèn sai Trư Bát Giới đi mời Bồ Tát.
Bồ Tát nói:
– Ngộ Năng có thấy đến đâu.
Hành Giả nói:
– Vâng. Ngộ Năng không đến đây được, vì bị yêu tinh biến thành Bồ Tát giả, lừa Bát Giới về động bắt nhốt trong một cái túi da, chúng cũng định hầm nhừ ăn thịt nốt.
Bồ Tát nghe xong, trong lòng nổi giận, nói:
– Yêu quái khốn kiếp dám giả dạng ta!
Đoạn hừ một tiếng, ném vèo chiếc tịnh bình bằng ngọc báu xuống đáy biển, khiến cho Hành Giả sợ hãi lông dựng đứng, vội vàng đứng thẳng người, hầu ở dưới, nói:
– Bồ Tát cơn giận chưa nguôi, là do lão Tôn ăn nói không ra sao, làm hại cả đức hạnh, ném mất chiếc tịnh bình. Tiếc quá! Tiếc quá! Giá mà cho quách lão Tôn này, có phải hay biết bao nhiêu!”.
Lúc này, Ngộ Không đã biết “sửa lại áo xống, nghiêm trang bước vào”, thấy Bồ Tát thì cúi lạy, khi Ngài nổi giận còn biết trách bản thân mình ăn nói không ra sao. Quả là một bước tiến đáng khen ngợi trên con đường tu luyện! Chưa hết, khi Bồ Tát đồng ý đích thân đi cứu Đường Tăng, Tôn Ngộ Không còn cung kính giữ lễ đến mức như thế này:
“Tôn Đại Thánh vô cùng mừng rỡ, mời Quan Âm rời khỏi động Triều Âm. Các vị thiên thần lúc ấy đều xếp hàng đứng cả trên vách núi Phổ Đà. Bồ Tát nói:
– Ngộ Không, vượt qua biển.
Hành Giả cúi mình, nói:
– Xin mời Bồ Tát đi trước.
Bồ Tát nói:
– Nhà ngươi đi trước đi.
Hành Giả dập đầu nói:
– Đệ tử đâu dám thi thố trước mặt Bồ Tát. Nếu dùng phép “cân đẩu vân” cưỡi mây để lộ thân thể, e Bồ Tát trách đệ tử là bất kính”.


Trải qua gian nan khổ nạn, cuối cùng Ngộ Không cũng đã luyện được chữ “Kính” này rồi!
Hành trình của Tôn Ngộ Không từ oán hận đến tôn kính Bồ Tát cũng chính là hành trình từng bước vứt bỏ tự ngã ngoan cố và kiêu ngạo, tiêu trừ nghiệp chướng, tịnh hoá thân tâm của người tu luyện. Cũng như Hồng Hài Nhi, vốn là một yêu quái cứng đầu cứng cổ, được Bồ Tát thu phục làm Thiện Tài đồng tử, sau này gặp lại Ngộ Không ở hồi thứ 49 “Tam Tạng gặp nạn chìm đáy sông, Quan Âm trừ tai hiện làn cá”, thì cúi chào và nói rằng: “Thưa Tôn Đại Thánh, trước kia đội ơn lòng tốt của ngài, nay được Bồ Tát thu nhận không nỡ vứt bỏ, nên sớm tối không rời hầu hạ dưới tòa sen, rất được ngài mở lòng từ thiện”. Hành Giả cười nói: “Ngày ấy chỉ bị ma nghiệt làm mê mẩn, nay thành chính quả mới biết lão Tôn là người tốt”. Ngộ Không đối với Bồ Tát cũng là như vậy đấy.
Hành trình của Ngộ Không là tấm gương tham chiếu mà văn hoá truyền thống lưu lại cho chúng ta hôm nay. Trên con đường tu luyện dằng dặc, thuở ban đầu khi gặp khổ nạn, bất công, bị người ức hiếp, thay vì nhìn nhận nó như là cơ hội để buông bỏ chấp trước, thì người ta đôi khi lại oán Trời trách đất, hận Phật vì sao không cứu giúp mình. Có người vì thế mà buông bỏ tu hành, thậm chí đi sang phía phản diện. Đáng tiếc thay!
Dẫu sao, hành trình thỉnh kinh là hành trình tu tâm dưỡng tính, nên Ngộ Không đối với Phật Pháp ngày một sáng thông, đối với Bồ Tát cũng ngày càng tôn kính. Người ta thuận theo quá trình kiên trì tu luyện mà tiêu trừ nghiệp lực, rất nhiều sự việc từng mê mờ thì nay bỗng nhận ra chân tướng. Đối với người từng ức hiếp mình, gò bó mình, thì không còn tâm oán hận, thay vào đó là lòng biết ơn đã giúp mình vấp ngã mà ngộ Đạo. 81 ma nạn là 81 chặng đường buông bỏ ma tính, cuối cùng thấy được Phật tính tròn đầy, sáng tỏ, ấy chính là công thành viên mãn. Thơ rằng:
Thiện chính giữ, vạn duyên thâu
Tiếng thơm truyền khắp bốn châu trong ngoài.
Trí tuệ sáng, lên bờ rồi
Ùn ùn che kín chân trời mây bay.
Chư Phật thù tiếp đó đây
Đài dao mãi mãi tháng ngày thênh thang
Phá tan mộng điệp nhân gian
Lâng lâng trút sạch bụi trần vấn vương.

*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Yêu quái kỳ lạ nhất Tây Du Ký khiến Tôn Ngộ Không khốn khổ năm lần bảy lượt

Trong Tây Du Ký, có một yêu tinh, tiên giới không thu mà địa ngục không nhận, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với Tôn Ngộ Không. Đó là ai?
Các yêu tinh trong Tây Du Ký tuyệt đại đa số đều có kết cục bi ai, người thì bị đánh chết, người thì bị thu phục dẫn đi. Tuy nhiên trong đó có một nhân vật khá đặc biệt, cản đường thầy trò Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, dẫn đến một cuộc truy sát của các Thần Tiên. Nhưng cuối cùng, tiên giới không thu, địa ngục không nhận, lại được phóng thích tự do.
Yêu tinh đó thông qua tu luyện, lại đắc đạo thành Tiên. Đây chính là nhân vật xuất hiện ở hồi thứ 59, Thiết Phiến Công Chúa. Trong truyện miêu tả đây là nhân vật có quan hệ rất mật thiết với Tôn Ngộ Không. Hành Giả còn từng gọi Thiết Phiến Công Chúa hai tiếng “tẩu tẩu”.
Đoạn đối thoại của Tôn Ngộ Không với tiều phu đã cho chúng ta thấy lai lịch của Thiết Phiến Công Chúa.
Thiết Phiến Công Chúa rốt cuộc là ai? Có lẽ đây là vấn đề được rất nhiều độc giả quan tâm. Đoạn đối thoại của Tôn Ngộ Không với tiều phu ở núi Thuý Vân tại hồi thứ 59
vừa vặn nói tới lai lịch của Thiết Phiến Công Chúa. Sau khi Tôn Ngộ Không được người chỉ đến núi Thuý Vân tìm Thiết Phiên Tiên, đến nơi lại gặp một người tiều phu vừa đốn củi vừa ca hát:
Trong mây rừng cũ nhận ra
Sườn non cỏ ngập rườm rà khó trông
Non tây buổi sớm mưa ròng
Chiều về đã thấy khe trong nước đầy

Tôn Ngộ Không liền bước tới hỏi:
– Chào bác tiều phu, muốn hỏi bác một điều.
Người tiều phu buông rìu đáp lễ, rồi hỏi:
– Trưởng lão đi đâu đấy?
Hành Giả đáp:
– Xin hỏi bác một điều, đây có phải là núi Thúy Vân không ạ?
Người tiều phu nói:
– Chính phải.
Tôn Ngộ Không nói:
– Động Ba Tiêu của Thiết Phiến Tiên ở nơi nào?
Người tiều phu cười, nói:
– Động Ba Tiêu thì có, nhưng không có Thiết Phiến Tiên. Chỉ có Thiết Phiến Công Chúa, và có tên nữa là bà La Sát thôi.
Tôn Ngộ Không nói:
– Người ta đồn rằng vị ấy có cây quạt Ba Tiêu có thể dập tắt được lửa Hỏa Diệm Sơn có phải không?
Người tiều phu nói:
– Phải! Phải! Vị thánh ấy có thứ bảo bối có thể dập tắt lửa, bảo vệ cho người dân vùng ấy, nên ở vùng ấy người ta gọi là Thiết Phiến Tiên. Chứ người vùng tôi không cần đến vị thánh ấy, nên chỉ gọi theo tên là bà La Sát, vợ của Đại Lực Ngưu Ma Vương.


Mấu chốt chính là nằm trong đoạn hội thoại này, một là Thiết Phiến Tiên, hai là Bà La Sát. Tại sao? Bởi thông qua hai câu này chúng ta có thể kết luận rằng, Thiết Phiến Tiên chính là hình tượng nhân vật kết hợp giữa văn hoá Trung Hoa và văn hoá Phật giáo. Thiết Phiến Tiên là một nhân vật trong thời cổ đại của dân tộc Trung Hoa, còn Nữ La Sát lại thuộc về văn hoá của Phật Giáo Ấn Độ cổ.
Truyện Tây Du Ký bắt đầu được thịnh hành từ thời Nguyên Minh. Có một người tên gọi Dương Cảnh Hiền làm nghề tạp kỹ (kinh kịch) sáng tác bộ một Tây Du Ký gồm 6 cuốn 24 hồi. Đây cũng có thể được gọi là bản thảo đầu tiên của “Tây Du Ký” mà sau này Ngô Thừa Ân dựa vào để sáng tác. Trong hồi thứ 19 “Thiết Phiến Hung Uy” của tạp kỹ, xuất hiện một nữ yêu quái tên Thiết Phiến, đây cũng chính là hình tượng nhân vật nguyên thuỷ nhất của Thiết Phiến Tiên.
Chỉ có điều, trong Tây Du Ký của Dương Cảnh Hiền thì Thiết Phiến Tiên không phải vợ của Ngưu Ma Vương, cũng chẳng phải mẹ của Hồng Hài Nhi. Đây là nhân vật vốn có xuất thân từ chốn Thần Tiên, là Thần quản lý Phong Thần trên Thiên Đình, do một lần uống rượu say đắc tội với Vương Mẫu phải rời khỏi Thiên Đình đến núi Thiết Tha. Trong tay Thiết Phiến có cây quạt nặng hơn nghìn cân, bên trên có 24 dẻ quạt, pháp thuật kinh thiên động địa.
Khi thầy trò Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, trên đường đi gặp Hoả Diệm Sơn cản trở, Tôn Ngộ Không đi tìm Thiết Phiến mượn quạt. Nhưng trong lúc Tôn Ngộ Không đi mượn quạt, do lời lẽ không thuận khiến cho nữ yêu Thiết Phiến tức giận, hai bên đấu pháp, Tôn Ngộ Không không có cách nào đánh thắng.
Tôn Ngộ Không đi mượn quạt, do lời lẽ không thuận khiến cho nữ yêu Thiết Phiến tức giận.
Sau đó được Quan Âm giúp sức, mời Lôi Công, Điện Mẫu, Phong Bá, Vũ Sư, Ki Thủy Báo, Tham Thủy Viên, Đẳng Thủy Bộ Thần Thông đến mới thu phục được nữ yêu Thiết Phiến, đoạt lấy quạt đi dập lửa Hoả Diệm Sơn. Đây chính là hình tượng nguyên mẫu về Thiết Phiến Tiên trong Tây Du Ký.
Trong truyện còn nhắc đến Thiết Phiến Tiên với cái tên Nữ La Sát (hay còn gọi là Bà La Sát). Đây chính là một nhân vật trong văn hoá Phật giáo. Nữ La Sát trong Phật giáo còn được gọi với tên La Sát Tư, là một ác quỷ trong thần thoại Ấn Độ cổ. Lần đầu xuất hiện trong “Lê Câu Phệ Đà” là tên thường gọi của ác nhân. Trong văn hoá Phật giáo, Nữ La Sát là một ác quỷ nhưng có dung mạo tuyệt đẹp, mà cũng không phải 1 người mà có đến hơn 10 người.
Theo như giới thiệu trong cuốn “Kinh Hoa Nghiêm” có đoạn: “Nhĩ thời có la sát nữ đẳng: nhất danh Lam bà, nhị danh Bì Lam bà, tam danh Khúc Xỉ, tứ danh Hoa Xỉ, ngũ danh Hắc Xỉ, lục danh Đa Phát, thất danh Vô Yếm Túc, bát danh Trì Anh Lạc, cửu danh Dịch Đế, thập danh Đoạt Nhất Thiết chúng Sanh tinh khí”. Đại ý là nói đến tên gọi của 10 La Sát đó.
Ta lại bàn một chút về tính cách và hình tượng của Thiết Phiến công chúa. Tuy là một nữ yêu, nhưng Thiết Phiến lại có trái tim của một người mẹ, sự bao dung, trí tuệ và cả sự cống hiến. Thiết Phiến cũng rất yêu Ngưu Ma Vương. Trong Tây Du Ký kể rằng, Ngưu Ma Vương có “bồ nhí” thì hắt hủi Thiết Phiến, dọn đến ở cùng vợ hai. Thiết Phiến ngày đêm nhớ nhung, vò võ hao mòn ở trong động.
Tôn Ngộ Không biết chuyện, bèn thừa nước đục thả câu, biến hóa ra hình tượng Ngưu Ma Vương đến lừa Thiết Phiến cây quạt. Thiến Phiến lâu ngày không gặp chồng, thấy Ngưu Ma Vương đột nhiên đến thăm thì mừng mừng tủi tủi, sai bọn hầu bày đặt tiệc hoa, yến ẩm tưng bừng, đầu mày cuối mắt, hết lòng hầu hạ.
Tôn Ngộ Không biết chuyện, bèn thừa nước đục thả câu, biến hóa ra hình tượng Ngưu Ma Vương đến lừa Thiết Phiến cây quạt.
Chẳng ngờ tấm chồng hờ kia lại phụ một chân tình của Thiết Phiến. Ngộ Không cũng thật là bất nhẫn, nỡ lòng lừa gạt người chinh phụ! Sau đó là biết bao nhiêu màn kịch hay cứ tiếp diễn nhau, đan cài nhau khiến độc giả trải qua biết bao cung bậc cảm xúc.
Ngưu Ma Vương biết quạt bị mất, lại biến thành Trư Bát Giới, giữa đường chặn Ngộ Không, lừa lấy lại quạt. Ngộ Không và Bát Giới đến động phủ của Ngưu Ma Vương thách đánh. Hai bên đánh nhau mấy trận long trời lở đất. Thiên binh thiên tướng đến trợ lực, thả ra thiên la địa võng, mãi mới hàng phục được con trâu già Ngưu Ma Vương.
Thiết Phiến công chúa lúc ấy quỳ xuống đất xin các Thần tha cho chồng, nguyện đem quạt Ba Tiêu giúp Đường Tăng vượt Hỏa Diệm Sơn an toàn. Lại vẫn là tấm lòng nhân hậu, vị tha của một người vợ. Dù chồng của mình cạn tàu ráo máng, không còn chung thủy, Thiết Phiến trước sau vẫn một lòng lo lắng, khoan dung.
Đây quả thực là một nhân vật không hề tầm thường vậy! Chẳng trách ngày nay cánh đàn ông thường hay ví von vui nhộn rằng vợ mình là “Bà La Sát”. Đúng vậy, có một Bà La Sát nóng tính mà thật đáng yêu, mạnh mẽ nhưng lại yếu mềm như thế, các đức ông chồng còn ước muốn chi đây?
Minh Vũ – Văn Nhược

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Bình Tây Du Ký: Nội hàm sâu sắc ẩn chứa trong tình tiết gây tranh cãi “nhận hối lộ bát vàng đổi chân kinh”

Tây Du Ký là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa, và được xem là kiệt tác nổi tiếng nhất cho thế hệ trẻ. Rất nhiều người đã tìm thấy những nội hàm khác nhau trong Tây Du Ký. Ở tập phim 25- Đường về cực lạc ẩn chứa những ẩn ý thâm sâu nhắc nhở cho hậu nhân về con đường tu luyện chân chính.
Rất nhiều nhà nghiên cứu đã có những công trình phân tích và tìm sâu nghiên cứu những bí mật ẩn chứa trong Tây Du Ký và họ đưa ra kết luận rằng, xét về góc độ nghệ thuật, Tây Du Ký là một kiệt tác nghệ thuật.
Nhưng xét về nội hàm thì đây là một thiên kì thư về tu luyện mà trong đó ẩn chứa rất nhiều giá trị thâm sâu, những bí mật mà đời người nhất định phải biết.
Trong khuôn khổ bài viết này, Đại Kỷ Nguyên xin mời độc giả cùng thưởng thức lại Tây Du Ký tập 25 với tên gọi Đường về cực lạc để cùng chiêm nghiệm lại đôi điều ẩn chứa sau những tình tiết điện ảnh, để có cái nhìn sâu sắc hơn về con đường tu luyện chân chính ngay cả khi ở chặng cuối của tiến trình viên mãn quả vị.
Tâm lo lắng và sợ hãi chính là chấp trước phải buông trên con đường tu luyện
Ở tập 25, bốn thầy trò nhà Đường Tăng phải băng qua một con sông sâu chảy xiết, nước cuồn cuộn như muốn cuốn theo đi tất thảy.
Nhìn dòng nước mà Đường Tăng thấy ái ngại, còn Bát Giới thì sợ, Sa Ngộ Tĩnh thì phân vân lo lắng không biết làm sao mà qua.
Họ tìm thấy một chiếc cầu rất cheo leo nhỏ xíu được bắc qua con sông chảy xiết như thế thì ai ai cũng hoảng.
Bốn thầy trò phải vượt qua con sông nước chảy xiết.
Duy có Tôn Ngộ Không là không sợ. Nhiều người nói rằng, bởi vì Tôn Ngộ Không có thể cưỡi mây đạp gió. Nhưng trải qua rất nhiều tập phim trước đó, người xem cũng được chứng kiến tới những màn bay lượn của Trư Bát Giới và Ngộ Tĩnh. Vậy vấn đề không nằm trong sự khác nhau về bản sự. Mà chính là tâm thái khác nhau của những con người khác nhau khi đối đầu với sự nguy hiểm hay thử thách mang tính sống còn.
Ngộ Không nói: ‘‘Đây là con đường chính phải qua, không còn con đường nào khác’’. Thì Đường Tăng sợ tới chẳng dám nhìn. Còn Bát Giới thì bảo: ‘‘Cây cầu gì mà bé tí thế này, vừa trơn vừa nhỏ làm sao mà đi được. Không đi được đâu’’. Liên tục xua tay rồi chạy đi chỗ khác.
Có thể thấy rằng, khi đối diện với hiểm nguy, tâm thái của họ hoàn toàn khác nhau. Với Đường Tăng hay Bát Giới thì vĩnh viễn không thể qua được. Bởi trong tâm họ là sự sợ hãi. Hay ngay cả người như Ngộ Tĩnh cũng khó lòng mà vượt bởi chỉ ôm theo lo lắng mà chẳng tìm cách giải quyết. Nhưng Ngộ Không thì lại mạnh dạn mà bước trên cây cầu đó mà đi. Không phải là bản sự to lớn mà chính là Ngộ Không không hề có chấp trước. Khi Ngộ Không không có bất kì một tâm thái nào, không sợ hãi, chẳng lo lắng, cũng không hoài nghi sự nguy hiểm. Ngộ Không mang trong mình một chính niệm rằng mình sẽ thử, có gì mà phải sợ chứ. Thế là một mình Ngộ Không qua được.
Phải chăng đây chính là ngụ ý cho việc khi chấp trước buông đi rồi, thì đường dưới chân tự thông.
Việc vượt sông bằng chiếc cầu nhỏ này cũng là để khảo nghiệm xem sự kiên định với con đường tu luyện của mình tới đâu. Ngộ Không nói rằng: ‘‘Không qua cây cầu này thì làm sao mà thành Phật được’’ Khi Đường Tăng và Ngộ Tĩnh còn đang suy nghĩ thì Bát Giới đã nói: ‘‘Thành Phật hay không thành cũng không cần, đồ đệ không qua đâu’’. Câu nói có thể đo lường được chính xác sự kiên định của Bát Giới trước nỗi sợ hãi. Người như Bát Giới thì trong giới tu luyện coi họ là trung sĩ, lúc tu lúc không, thành Phật hay không thành Phật cũng chẳng cần, người như Bát Giới vĩnh viễn không thể thành Phật. Đó là chân lí.
(Ảnh: Youtube)
Tại sao lại như vậy? Bởi lẽ với những con người chân chính tu luyện thì mục đích cuối cùng của họ là viên mãn quả vị của mình. Vì mục tiêu đó mà cả đời họ khổ luyện trong ma nạn, liên tục củng cố tín tâm tròn đầy. Họ đối diện với nỗi sợ hãi như thế nào? Họ coi đó như là một khảo nghiệm xem họ có thể vượt qua hay không? Họ nhìn vào tâm mình xem mình có sợ hãi hay lo lắng khi đối diện với nó không? Họ chân chính tu sửa tâm thái của mình. Bởi mục tiêu, mục đích ở đời của họ đã được xác lập rõ ràng và họ cần phải dũng mãnh vượt qua. Khi đối diện với sợ hãi chính họ còn tự hỏi tâm mình, một vị Phật thì có thể sợ hãi hay không? Ấy là bậc thượng sĩ ở đời. Họ coi tu luyện là con đường giải thoát duy nhất khỏi luân hồi khổ đau.
Một tình tiết rất thâm thúy chính là việc xuất hiện của một con thuyền không đáy. Đường Tăng nói: ‘‘thuyền không đáy làm sao mà qua được’’. Ngộ Không đã kịp nhắc lại lời của cao nhân: ‘‘Đừng thấy thuyền không đáy mà vội ngã lòng, có chí là sang được’’.
Một lần nữa chính là sự vứt bỏ tâm thái sợ hãi lo lắng trước khó khăn, khảo nghiệm. Tu luyện không hề dễ dàng, nó là một chặng đường gian nan. Là một quá trình liên tục vứt bỏ những chủng tâm không tốt. Sự kiên định, dũng mãnh của người tu chính là thước đo cho một con người được coi là chân chính tu hành.
Hình ảnh con thuyền không đáy mà vẫn có thể chở được người sang sông, phải chăng chính là hình ảnh ngụ ý cho việc xả bỏ tới vô lậu những nhân tâm chấp trước. Chỉ có xả tận thì mới có thể bao dung, mới có thể từ bi, mới có thể cứu độ được chúng sinh.
Chân kinh là báu vật không thể dễ dàng mà có được
Đây là câu nói mà hai vị tôn giả A Nan và Ca Diếp nói, khi có ý muốn bốn thầy trò Đường Tăng hối lộ cho mình. Có nhiều người cho rằng, ở đất Phật mà vẫn còn lòng tham như thế.
(Ảnh: Youtube)
Nói về lòng tham thì tình tiết 2 vị tôn giả cùng ăn cơm với bốn thầy trò Đường Tăng nhưng họ lại ăn rất nhanh, ăn vội vàng như thể sợ người khác ăn hết.
Đây có phải là chân tướng của sự việc không? Hẳn là không phải như vậy. Vậy phải chăng có ẩn chứa hàm ý?
Sự việc xảy ra hay việc mà ta chứng kiến được chính là phản ánh của tâm thái nào đó còn tồn tại trong người tu luyện. Vậy hình ảnh đó phải chăng là khảo nghiệm xem những tham chấp vào đồ ăn và thói hưởng lạc của người tu hành liệu đã buông bỏ.
Tuy ăn uống thịnh soạn nhưng Đường Tăng vẫn mong cầu được thỉnh chân kinh. Minh chứng cho việc ông không quên đi nghĩa vụ và mục đích của mình trong say sưa hưởng lạc.
Để có được chân kinh, bốn thầy trò Đường Tăng phải mang trao đổi cái bát vàng mà nhà vua Đường ban tặng cho Tam Tạng để đi hóa duyên. Nhiều người cho rằng, đất Phật mà cũng có hối lộ, lo lót. Thực chất không phải như vậy. Là muốn con người ta buông bỏ tận cùng mọi chấp trước trước khi nhận được chân kinh. Cái bát bằng vàng rất đẹp. Nhiều vị tu hành rất thích có một cái bát đẹp, cái bằng vàng, cái bằng bạc, và họ mang ra để mà khoe về cái bát của mình. Phải chăng đó chính là chấp trước. Có lẽ vì đó mà Phật Thích Ca Mâu Ni trong những năm khổ tu trong rừng, đã có bài giảng về cái bát.
Nếu một người tu hành chân chính mà còn có cái tâm thích những cái đẹp, thích những cái có giá trị thì phải chăng đó chính là tâm chấp trước chưa buông.
Sự xuất hiện của Đức Phật Di Lặc với nụ cười đầy ẩn ý mà nhiều người cho rằng đó chính là lời tiên tri cho sự xuất hiện của Ngài khi Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni truyền để độ nhân đã không thể ước chế câu thúc đạo đức con người được nữa. Đức Phật Di Lặc khi ấy sẽ hạ thế và truyền pháp vào thời kì Mạt pháp, đó cũng là thiên cơ mà Tây Du Ký tiết lộ.
Phải thừa nhận rằng, Tây Du Ký không đơn thuần là một tác phẩm thể hiện cái hay cái tài của tác giả. Mà trên hết nó chính là một kho tàng ẩn chứa rất nhiều đạo lý thâm sâu mà người đời từng ngày từng ngày hiểu được. Tác phẩm được chuyển thể thành phim và sự cuốn hút mạnh mẽ đối với trẻ nhỏ cũng như người lớn. Nhưng với những người đang tìm cho mình những đạo lý ở đời người, hay những con người đang bước trên con đường tu hành thành Phật, thì Tây Du Ký chứa đựng những nội hàm rất sâu sắc về con đường tu luyện và những giá trị cốt lõi của tu luyện chân chính.
Tịnh Tâm

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thiên Lý trong Tây Du Ký: Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo

“Tây Du Ký” từ khi ra đời đến nay vẫn luôn nhận được sự yêu mến của mọi người. Người ta không chỉ yêu thích các hình tượng nhân vật trong đó, tình tiết trong đó, mà cả tinh thần lạc quan hướng thiện thể hiện trong tác phẩm.
Nhận thức của người Trung Quốc đối với tu luyện, Thần Phật, thế giới thiên quốc, yêu ma quỷ quái, rất nhiều đều có liên quan với “Tây Du Ký”. Về nội hàm và ý nghĩa chính của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau và phức tạp, khó có thể đưa ra được kết luận. Nhưng Thiên lý “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” thì thể hiện rất rõ ràng qua hai quan ải mà thầy trò Đường Tăng gặp phải sau đây:
Ô Kê Quốc không nhận ra Bồ Tát nên đã bị ác giả ác báo
Quốc vương nước Ô Kê bị yêu quái nhốt vào trong giếng sâu ngập nước 3 năm và cướp mất giang sơn, ngai vàng, sau may mắn được thầy trò Đường Tăng là giúp diệt trừ yêu quái mới khôi phục lại vinh hoa phú quý. Nhưng phàm mọi sự đều có nhân quả, yêu quái này bản thân không phải là yêu quái, mà chính là con sư tử xanh của Bồ Tát, xuống hạ giới do Phật chỉ của Như Lai để trừng phạt quốc vương nước Ô Kê vì đã phạm phải tội lớn.
Quốc vương nước Ô Kê bị yêu quái nhốt vào trong giếng sâu ngập nước 3 năm và cướp mất giang sơn, ngai vàng, sau may mắn được thầy trò Đường Tăng là giúp diệt trừ yêu quái mới khôi phục lại vinh hoa phú quý.
Nguyên văn như sau:
Tôn Ngộ Không: “Bồ Tát, đây là con sư tử xanh thành tinh mà bà lại không thu phục nó về?”
Bồ Tát nói rằng: “Ngộ Không, nó không tự đi mà là tuân theo Phật chỉ”.
Tôn Ngộ Không: “loài súc sinh thành tinh này xuống cướp ngôi vua mà còn bảo tuân theo Phật chỉ. Lão tôn ta bảo vệ Đường Tăng vất vả là vậy thì sẽ được nhận bao nhiêu Sắc thư đây!”
Bồ Tát: “Ngươi không biết, quốc vương Ô Kê vốn là người tốt nên Phật sai ta đến đưa về trời. Nhưng vì ta không thể xuất hiện dưới hình thức này nên đã biến thành một nhà sư đến gặp quốc vương. Nhưng khi mới nghe mấy lời, quốc vương đã cho ta là người không tốt, đã cho người trói ta lại và dìm xuống sông 3 ngày 3 đêm. May có Lục Giáp đích thân đến cứu ta. Khi Như Lai biết chuyện đã hạ lệnh cho quốc vương xuống giếng 3 năm, để đền tội việc này”.

Sự thực là, Phật thấy quốc vương Ô Kê là một người có bản tính thiện lương nên đã cử Bồ Tát xuống đưa về trời, để thành chính quả. Nhưng vì con người vẫn rất mê muội nên Bồ Tát xuống hạ giới trước tiên phải giải mê muội này cho quốc vương. Bồ Tát vốn dĩ không thể lộ diện nên đã hóa thành một nhà sư đến thử lòng vua, nhưng vị quốc vương này là người trần mắt thịt, vì không hiểu dụng ý của Bồ Tát nên đã tức giận dìm bà xuống sông 3 ngày 3 đêm. Cuối cùng, Như Lai phải phái sư tử xuống để quốc vương Ô Kê thấy được sai phạm của mình.
Đây là hình phạt của thần linh với những người phàm ngu muội, mặt khác giúp quốc vương Ô Kê tiêu nghiệp của mình. Vì trong vũ trụ luôn tồn tại quy luật được và mất, người hành thiện thành đức, hành ác thành nghiệp, vì thế thần linh từ bi để cho người mắc tội tự tiêu nghiệp bản thân.
Khấu viên ngoại trai tăng một vạn nhưng phải gặp bất trắc
Nạn cuối cùng mà bốn thầy trò và Bạch Long Mã phải trải qua để đến được Tây phương Tịnh Độ rất đáng để người ta suy ngẫm: Không phải là yêu ma cản đường, cũng không phải là hôn quân diệt Phật, mà lại là một điều rất “vụn vặt” chẳng oanh liệt gì. Trên đường đi có Khấu viên ngoại, hay thiện trai tăng, phát nguyện bố thí cơm chay cho một vạn vị tăng.
Vừa đúng lúc bốn thầy trò tới, cũng vừa đủ số một vạn, viên ngoại ân cần khoản đãi. Bởi vì Bát Giới trước sau không tống khứ được tâm tham ăn, lại gặp viên ngoại hào phóng, thế là cứ ngồi ăn luôn không muốn đi tiếp nữa. Còn ba người kia tâm hướng Linh Sơn, phải lo lên đường sớm. Cuối cùng Đường Tăng “mắng” bắt Bát Giới lên đường, viên ngoại thì bày tiệc lớn, phô trương lãng phí để tống biệt chúng tăng.
Kết quả làm đám cường đạo thèm đến nhỏ dãi, ban đêm chúng xông vào cướp và giết chết viên ngoại. Vợ viên ngoại tức quá hóa giận, vu oan hãm hại bốn thầy trò là hung thủ, báo quan bắt giam bốn thầy trò. Về tai họa giam ngục này Ngộ Không đã sớm biết rõ, nguyên Đường Tăng là phải chịu nạn này. Nhưng đã là thường nhân gặp nạn, tất sẽ có người không rõ chân tướng hoài nghi về Thiên Lý “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, cho rằng Khấu viên ngoại trai tăng một vạn nhưng phải gặp bất trắc. Bởi vậy đoàn thỉnh kinh nhất định phải hóa giải nạn này, đưa chân tướng phơi bày trước toàn thiên hạ.
Đám cường đạo ban đêm chúng xông vào cướp và giết chết viên ngoại. Vợ viên ngoại tức quá hóa giận, vu oan hãm hại bốn thầy trò là hung thủ, báo quan bắt giam bốn thầy trò.
Kỳ thực hành vi lương thiện của viên ngoại đã cải biến vận mệnh của ông, người thường cũng chính là cần phải trong mê và luân hồi mà chịu khổ. Giả sử viên ngoại không kính Phật trai tăng, vận mệnh của ông có lẽ là trăm tuổi rồi chuyển thế theo nghiệp lực luân báo. Nhưng thiện niệm thiện hành của ông đã khiến quan nạn mà ông phải gặp đến trước thời hạn, đưa ông đến một nơi tốt đẹp: tạm làm chưởng án giữ sổ bộ thiện duyên của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Đồng thời vì Tam Tạng vẫn còn quá coi trọng chiếc áo cà sa bằng gấm, Ngộ Không mượn cơ hội để giúp ông vứt bỏ tâm này, lại khiến quan phủ vì thấy vật này mà biết đoàn thỉnh kinh thân phận không phải tầm thường, chuẩn bị sửa lại án sai. Cuối cùng viên ngoại trở về Dương gian, án oan được giải, đồng thời chứng thực Thiên Lý “thiện ác hữu báo”, bốn thầy trò tiếp tục lên đường.
Cổ nhân giảng rằng: Con người chính là anh linh của vạn vật, sinh mệnh là quý giá, sinh mệnh thật ra là bất diệt, nên con người cần sống trong lương thiện. Làm người cần phải tích đức làm việc thiện, bởi vì thiện ác hữu báo, hết thảy đều không thoát khỏi nhân quả báo ứng. Chỉ là người trong mê không ngộ, khi báo ứng đến thì một bên cảm thán mình thiếu may mắn mà oán trời trách đất, một bên lại thấy chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp. Thật ra, một người làm ác thì hại người ta và hại cả bản thân mình, bởi vì anh ta tạo nghiệp và tổn đức, nên báo ứng chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.
Chân Tâm

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Lai lịch bí ẩn của vị sư phụ dạy Tôn Ngộ Không 72 phép biến hoá

Xem “Tây Du Ký“, mọi người đều biết vị sư phụ đầu tiên truyền phép thuật cho Tôn Ngộ Không là Bồ Đề Tổ Sư. Tuy nhiên, lai lịch của vị cao nhân này đối với nhiều người vẫn là một ẩn đố. Bài viết dưới đây sẽ phần nào giúp chúng ta đả khai được bí ẩn này.
Thuở nhỏ xem “Tây Du Ký“, ai cũng trầm trồ khen ngợi, ngưỡng mộ khả năng phép thuật của Tôn Ngộ Không. Thời gian trôi qua, lại suy nghĩ và tự hỏi: “Sư phụ truyền phép thuật cho Tôn Ngộ Không rốt cuộc có lai lịch như thế nào? Có thần thông lớn đến đâu? Quả thực là một điều bí ẩn?”.
Một tiểu thuyết thần thoại khác là “Phong Thần Diễn Nghĩa”, kỳ thực có liên quan rất lớn đến “Tây Du Ký”. Hai bộ truyện này đều được viết ra vào thời nhà Minh. Mặc dù nội dung nói về những thời đại khác nhau nhưng những nhân vật bên trong lại có sự liên quan chặt chẽ. Ví như Lý Tịnh, Na Tra, Mộc Tra, Dương Tiễn… đều có mặt ở trong cả hai bộ truyện này.

Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, ba vị Bồ Tát này đều là đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn trongPhong Thần Diễn Nghĩa”. Nguyên Thủy Thiên Tôn được dân gian lưu truyền rằng chính là Bàn Cổ khai thiên tịch địa trong truyền thuyết cổ đại của Trung Hoa.
Như vậy có thể thấy rằng, một số thần tiên trước đó là đệ tử của những đại thần tiên của dân tộc Hoa Hạ. Sau này khi Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra Phật giáo, những thần tiên này “du học” và trở thành đệ tử của Phật Như Lai.
Vậy còn Tôn Ngộ Không thì sao? Đầu tiên là bái Bồ Đề Tổ Sư làm sư phụ, sau đó bái Đường Tăng làm sư phụ, sau lại tu thành chính quả, trở thành Đấu Chiến Thắng Phật, được quy về là đệ tử của Phật Như Lai. Như vậy, Tôn Ngộ Không đã tu hành trong vài môn pháp khác nhau.
Trong “Tây Du Ký”, Bồ Đề Tổ Sư đã từng nói với Tôn Ngộ Không như sau: “Ngươi từ bây giờ, định sinh bất lương, dù cho ngươi có hành hung, gây tai họa như thế nào, cũng không được nói là đệ tử của ta. Bằng không, ngươi chỉ cần nói nửa chữ thì ta cũng đã biết rồi, ta sẽ lột da tróc xương con khỉ nhà ngươi, phân thần hồn của người ra làm 9 khúc, cho người vạn kiếp không thể thoát thân được”.
Như chúng ta đã biết trong Tây Du Ký, ngoài Phật Tổ Như Lai ra, thì chẳng ai còn có thể có bản lĩnh nắm giữ sinh tử của Tôn Ngộ Không như thế này. Điều này cho thấy lai lịch của Bồ Đề Tổ Sư quả thực là không tầm thường, thần thông quảng đại, đã nhìn thấy trước được tương lai của Tôn Ngộ Không.

Bồ Đề Tổ Sư trong“Tây Du Ký” ẩn cư tại Tây Ngưu Hạ Châu, ở trong “Linh Đài Phương Thốn sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh động”. “Linh Đài Phương Thốn sơn” gọi tắt bằng chữ đầu và chữ cuối là “Linh sơn”, “Tà Nguyệt Tam Tinh” chính là vật trên thiên thượng, ám chỉ “bầu trời”. Hợp nhất chúng lại chính là: “Thiên Thượng Linh Sơn”.
Mà như chúng ta biết, Phật Tổ Như Lai cũng cư ngụ tại Thiên Ngưu Hạ Châu, trong chùa Đại Lôi Âm ở “Thiên Trúc Linh Sơn”. Tên hai ngọn núi này là giống nhau, đây liệu có phải là sự trùng hợp?
Như vậy, Bồ Đề Tổ Sư và Phật Tổ Như Lai có thể liên quan đến nhau. Trong lần đầu tiên Tôn Ngộ Không nhìn thấy Bồ Đề Tổ Sư, tác giả Ngô Thừa Ân đã miêu tả như sau:
“Nhìn thấy Bồ Đề Tổ sư ngồi ngay ngắn nghiêm trang trên bệ, ở phía dưới, hai bên có 30 tiểu tiên đứng hầu. Quả nhiên là: ‘Kim tiên đại giác sạch ghê, Phương Tây diệu tướng Bồ Đề tổ Sư. Không sinh diệt, đức cao xa, Thần tròn khí vẹn rất là từ bi. Chân như bản tính an vi. Tự nhiên không tịch, tùy nghi biến dời. Trang nghiêm thọ sánh đất trời, Pháp sư muôn kiếp sáng ngời là đây. (“Tây Du Ký” – Hồi thứ nhất).

Tôn Ngộ Không bái Bồ Đề Tổ sư làm sư phụ, sau đó bái Đường Tăng làm sư phụ, sau này tu thành chính quả, trở thành Chiến đấu thắng Phật, được quy về là đệ tử của Phật Như Lai.
Có thể thấy, Bồ Đề tổ sư cũng là một vị tôn giả Tây phương. Trong “Phong Thần Diễn Nghĩa” cũng có vị Chuẩn Đề đạo nhân, khi xuất hiện cũng được mô tả giống hệt như vậy. Điều này nói lên rằng Bồ Đề Tổ Sư và Chuẩn Đề đạo nhân chính là một. Vậy Chuẩn Đề đạo nhân là ai?

Trong “Phong Thần Diễn Nghĩa”, Chuẩn Đề đạo nhân có vị sư huynh tên là Tiếp Dẫn đạo nhân. Trong chương thứ 78 của “Phong Thần Diễn Nghĩa” có miêu tả về Tiếp Dẫn đạo nhân như sau: “Đại tiên đi chân trần táo lê hương, chân đạp tường mây càng dị thường; 12 đài sen diễn pháp bảo, bát đức bên cạnh ao hiện bạch quang. Thọ thông thiên địa ngôn phi sai, phúc tỷ hồng ba thuyết há cuồng; tu thành xá lợi minh thai tức, thanh nhàn cực lạc là Tây phương”.
Phật Tổ Như Lai khi xuất hiện trong “Tây Du Ký” cũng được miêu tả giống hệt đoạn văn trên. Còn có rất nhiều nhân tố khác nữa đều cho thấy rằng Tiếp Dẫn đạo nhân chính là Phật Tổ Như Lai, người kiến lập ra Phật giáo vào thời sau đó. Tây phương giáo ở đây chính là tiền thân của Phật giáo.
Đến bây giờ thì đáp án đã hé lộ, Chuẩn Đề đạo nhân là sư đệ của Tiếp Dẫn đạo nhân, Tiếp Dẫn đạo nhân cũng chính là Phật Như Lai đời sau này. Chuẩn Đề đạo nhân chính là Bồ Đề Tổ Sư, và Bồ Đề Tổ Sư chính là sư đệ của Phật Như Lai. Chẳng thế mà khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung thì chỉ có Như Lai là có thể trị được, vì nguyên lai Tôn Ngộ Không là đệ tử của sư đệ mình.
Tiếp Dẫn đạo nhân và Chuẩn Đề đạo nhân đã từng cùng nhau chấp chưởng, nắm giữ Tây phương giáo. Sau này Như Lai tu thành kim thân 6 trượng, kiến lập nên Phật giáo, thôn tính Tây phương giáo. Bồ Đề Tổ Sư từ đó cũng ẩn cư trên núi tên là “Linh Đài Phương Thốn”, sau này tự lập ra đạo quan (miếu đạo sĩ) tu thân dưỡng tính, ngoài những người dân ở trong núi thì không ai biết ông ở đâu.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thầy trò Đường Tăng gặp nạn ở Hoàng Phong lĩnh: Tâm kiên định là bùa cứu mệnh

Ào ào trời đất đổi thay,
Mịt mù cơn lốc tung bay một vùng.
Xuyên rừng vặn gốc mai, tùng,
Gặp núi chắn lại bụi tung khắp trời.
Hoàng Hà sóng cuộn nơi nơi,
Tương Giang nước réo như sôi ào ào.
Trời xanh cung Đẩu lao đao,
Điện Sâm La suýt đổ nhào sụp luôn.
Năm trăm La Hán hét vang,
Kim Cương tám vị hoảng hồn kêu la…

Nếu như nói hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh là muôn vàn sóng gió, thì trận gió hung dữ bậc nhất có lẽ là gió độc của yêu quái Hoàng Phong được miêu tả trong mấy câu thơ trên. Cố sự này có hàm ý sâu xa, người viết đọc đi đọc lại mà vẫn cảm thấy chỉ có thể lĩnh hội được một tầng nghĩa nông cạn trong đó.
Tây du ký*, hồi thứ 20, sau khi Đường Tam Tạng thu nhận Trư Bát Giới, được thiền sư Ô Sào truyền Bát Nhã Tâm Kinh, ba thầy trò đi đường ăn gió nằm sương, đến trước dãy Hoàng Phong lĩnh. Nơi đây có con yêu quái có tài thổi gió độc, gió mà nó thổi ra khiến trời nghiêng đất ngả, quỷ khóc thần sầu. Đường Tăng bị bắt, Bát Giới giữ đồ, Tôn Hành Giả giao chiến bị gió ấy cay sè hai mắt, nước mắt giàn giụa, không sử dụng được gậy Như Ý, phải thua trận chạy về. Về sau, nhờ có Thái Bạch Kim Tinh chỉ điểm, Tôn Ngộ Không mới mời được Linh Cát Bồ Tát đến thu phục yêu quái, giải thoát cho sư phụ.

Theo lời Hộ Pháp Già Lam, thứ gió dữ của yêu quái Hoàng Phong gọi là “tam muội thần phong”, “thổi ra trời đất tối sầm, thần sầu quỷ khóc, đá bay cát bốc, mạng người ngừng luôn”. Một người bình thường, sẽ như cụ già dưới chân núi, thẳng gót quay về: “Không đi được đâu. Sang phương Tây lấy kinh khó lắm. Nên quay về phương Đông mà lấy kinh thôi”. Phương Tây là Phật địa, phương Đông là cõi phàm, sợ hãi quay về thì khác nào buông bỏ tu luyện, bao giờ mới thoát kiếp trầm luân?
Trong Tây du ký, mỗi ma nạn, từng cái tên yêu quái, địa danh, bảo bối… đều mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm liên quan đến Phật gia và Đạo gia. “Tam muội” trong tiếng Phạn là Samadhi, có nghĩa là “nhất tâm” hay “định tâm”. Phật gia giảng Giới – Định – Huệ, người tu luyện nhờ giữ nghiêm giới cấm mà có thể dần thu lại cái tâm lăng xăng đầy dục vọng, tăng cường định lực, từ đó khai mở trí huệ. Từ cái tên “tam muội thần phong” có thể suy luận rằng, để khắc chế ngọn gió độc, chỉ có thể là dùng định lực kiên cường.
Cây gậy Như Ý của Tôn Ngộ Không vốn là khối thần thiết được Thái Thượng Lão Quân chín lần nấu luyện, có thể đỉnh thiên lập địa, chống trời chống đất, còn gọi là Định Hải Thần Châm, tượng trưng cho định lực của người tu luyện. Nhưng trong trận giao tranh với yêu quái, Tôn Hành Giả bị yêu quái thổi gió vào giữa mặt, làm mắt cay sè, nước mắt cứ trào ra, nên không thể vung gậy Như Ý. Phải chăng, một tầng hàm nghĩa chính là khi đôi mắt bị giả tướng nơi thế gian mê hoặc, bị cuốn theo vòng xoáy của được và mất, của danh lợi tình, thì sẽ không thể phát huy định lực nữa? Nên Ngô Thừa Ân mới miêu tả về trận gió này đầy ẩn ý như sau:
Thương nhân sợ hãi kêu trời,
Chủ thuyền sì sụp lựa lời kêu van.
Giữa dòng tính mạng khó toàn,
Lợi danh kiếm chác lang thang sông hồ.

Về cố sự này, tác giả Thuyền Tưởng bàn luận trên trang Chánh Kiến rằng: “Nếu như một cá nhân có căn cơ tốt, chính niệm đầy đủ, thì dẫu có bao nhiêu trận cuồng phong đi nữa cũng không thể dao động, nhất chính áp bách tà. Người tu luyện sẽ gặp phải đủ loại khảo nghiệm, thậm chí bị người ta bức hại, để xem có thể kiên định chính tín hay không. Một khi dao động sẽ bị cuồng phong cuốn đi, mê mất bản tính. Đặc biệt với những người có thời gian tu luyện không dài, có thể xuất phát từ các loại mục đích khác nhau mà tiến vào tu luyện. Có người thấy tu luyện có thể khiến thân thể khỏe mạnh, có người muốn được Thần bảo hộ, có người thuận theo trào lưu náo nhiệt mà đến, đối với Pháp lý tu luyện không có chân chính lý giải. Chỉ cần không phải là tu luyện chân chính, khi gặp phải khảo nghiệm cuồng phong ác lãng loại này thì thường không kiên trì trụ lại được”.

Trận gió dữ của yêu quái Hoàng Phong khiến người viết liên tưởng tới hai câu thơ của Lưu Vũ Tích thời nhà Đường:
Thiên đào vạn lộc tuy tân khổ,
Xuy tận cuồng sa thủy đáo kim
.
Dịch nghĩa:
Trải qua nghìn vạn lần đãi lọc đầy gian khổ,
Thổi hết cát đi là bắt đầu thấy vàng ròng.

(Lãng đào sa – Sóng cuốn cát đi)

Cơn gió độc màu vàng bụi tung mù mịt của Hoàng Phong quái phải chăng cũng là để “thổi hết cát đi” và “thấy vàng ròng” như vậy? Trận chiến ác liệt giữa Tôn Hành Giả và yêu quái gợi mở về hành trình gian khổ để thành tựu sinh mệnh. Một người bình thường muốn đạt đến cảnh giới tinh thần cao thượng, cần trải qua hàng nghìn hàng vạn khó khăn, khảo nghiệm nghiêm khắc, giống như quá trình sóng lớn cuốn cát đi, còn lại chính là vàng ròng. Quá trình này hết sức thống khổ, đòi hỏi ý chí kiên định phi thường. Có lẽ vì thế mà trong bài thơ “Mai hoa thi”, Thiệu Ung, học giả thời Bắc Tống than rằng: “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai?” (Từ vạn cổ cổng trời khai mở, Mấy người đến mấy người trở về?).
Đối diện với thử thách cuồng phong, có người dũng cảm đối mặt, có người lại rụt đầu lẩn trốn. Tây du ký, hồi thứ 20 viết:
“Bát Giới bước lên ngăn Hành Giả, nói:
– Sư huynh ơi, gió to quá, chúng ta tạm ẩn vào đâu một tý.
Hành Giả cười, nói:

– Chú hèn lắm! Mới có gió to đã tìm chỗ trốn. Vậy giáp mặt yêu quái thì sao?
Bát Giới nói:
– Anh không nghe câu nói: “Tránh gái như tránh giặc, che gió như che tên” sao? Chúng ta ẩn vào đâu một tý có hề gì?”.
Cũng chính chú ngốc khi thấy trận gió vàng nổi cuồn cuộn, trời đất tối tăm, thì “vội vàng dắt ngựa, giữ hành lý nằm phục trong hốc núi, không dám mở mắt ra, không dám ngẩng đầu, miệng luôn mồm lầm rầm đọc kinh cầu nguyện, chẳng thèm biết Hành Giả được thua ra sao, sư phụ sống chết thế nào” (Trích hồi thứ 21). Khảo nghiệm khắc nghiệt mới biểu hiện ra được cảnh giới tâm tính của người tu luyện. Có lẽ vì thế mà cuối cùng, Tôn Ngộ Không đắc chính quả thành Phật, mà Trư Bát Giới chỉ được làm Sứ Giả mà thôi.
Tôn Ngộ Không tuy không đủ sức hàng phục yêu quái, nhưng lại có quyết tâm bảo hộ Đường Tăng, không nề hiểm nguy xông xáo tiến về phía trước. Vì vậy, Ngộ Không đã được Thái Bạch Kim Tinh chỉ điểm, được Linh Cát Bồ Tát cứu nguy, dùng “Định phong đơn” và “Phi long bảo trượng” thu phục yêu quái. Cũng như nhiều ma nạn khác, thầy trò Đường Tăng tuy gặp nguy hiểm sống chết nhưng thực ra luôn có chư Phật, Bồ Tát, Thần hộ pháp ngầm bảo hộ. Như vậy, chỉ cần người tu luyện có thể kiên định chính niệm, thì hoàn toàn không cần lo bị nguy hiểm, chỉ cần một niệm kiên định, thì tự nhiên được Thần Phật trợ giúp, nhất định sẽ vượt qua khảo nghiệm.
Quả đúng là:
Đường đi Thần giúp đêm ngày,
Chớ vì sóng cả rời tay buông chèo.


*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Bạch Long Mã bị đánh giá thấp trong Tây Du Ký nhưng thực sự không hề đơn giản

Khi nhắc đến tác phẩm kinh điển Tây Du Ký, chúng ta thường nghĩ ngay đến câu chuyện bốn thầy trò Đường tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh. Tuy nhiên, trong đoàn đi còn có một nhân vật vô cùng quan trọng nhưng lại thường không được chú ý đến. Đó là ai?
Xem hành trình của bốn thầy trò Đường Tăng về Tây Trúc thỉnh kinh, chúng ta luôn dễ dàng bỏ qua nhân vật quan trọng, đó là Bạch Long Mã. Ví dụ như, vừa nói đến thầy trò Đường Tăng, mọi người đều nói “4 thầy trò”.
Trong phim truyền hình cũng như trong truyện, nội dung đều nói lên đi lấy kinh chỉ có Sư phụ tụng kinh, Ngộ Không hàng yêu, Bát giới dắt ngựa, Sa Tăng gánh đồ. Thầy trò tập hợp thành một đoàn 4 người đi lấy kinh.

Kỳ thực, những lời này thật không công bằng. Con khỉ được coi là người, con lợn được coi là người, nhưng con ngựa không được xem là người. Trong kịch phim, nhân vật Bạch Long Mã có rất ít lời thoại và ít cảnh quay. Thậm chí sau buổi diễn, ngựa trắng còn được người chăn ngựa đưa về tổ đạo cụ.
Trên thực tế, ngựa trắng cũng có công quả, được Phật Tổ Như Lai gọi tên. Tuy nhiên, trên hình thức, ngựa trắng lại không chính thức bái sư, không xếp hạng vai vế cùng Tôn Ngộ Không, cứ y như không phải là đồ đệ của Đường Tăng vậy.
Vậy Bạch Long Mã gọi Đường Tăng như thế nào? Mỗi lần Bạch Long Mã mở miệng nói đều gọi Đường Tăng là “sư Phụ”, gọi Ngộ Không và Bát giới là “Đại sư huynh” và “Nhị sư huynh”. Lấy một ví dụ: Trong hồi thứ 30 của Tây Du Ký, Bạch Long Mã nói với Trư Bát Giới: “Huynh nhanh cưỡi mây đến Hoa Quả Sơn mời đại sư huynh Tôn Hành Giả đến”. Tuy nhiên tại sao không để Bạch Long Mã trở thành thành viên trong nhóm người đi thỉnh kinh?
Thực tế thì, trong Tây Du Ký, Bạch Long Mã là một nhân vật bị đánh giá thấp.
***

Bạch Long Mã không tranh giành địa vị cao thấp, không quan tâm đến lợi ích và tổn thất cá nhân. Mặc dù gia nhập nhóm thầy trò đi thỉnh kinh sớm hơn cả Trư Bát Giới nhưng Bạch Long Mã vẫn gọi Bát Giới là sư huynh.
Từ hồi thứ 15, Bạch Long Mã đã nhận lời phò tá Đường Tăng đi thỉnh kinh. Có thể nói tư cách và sự từng trải của ngựa trắng tương đương với Tôn Ngộ Không. Còn Trư Bát giới mãi hồi thứ 18 mới tham gia, Sa tăng phải đến hồi 22 mới gia nhập.
Bạch Long Mã gọi những đồ đệ khác của Đường Tăng là sư huynh còn bản thân lùi về cuối cùng. Nó không chỉ khiến các sư huynh vui mừng mà bản thân cũng thản nhiên tiếp nhận. Bạch Long Mã cũng không buồn bực và lay động trước tư cách và sự từng trải của bản thân.
Trên đường đi, Bạch Long Mã rất ít khi mở miệng nói, nó thường im lặng, giấu mình thật sâu và lặng lẽ làm tròn bổn phận. Trư Bát Giới chưa từng biết về lai lịch của Bạch Long Mã nên chỉ xem nó như là con ngựa bình thường.
Mãi đến sau này, khi đi cùng đoàn khá lâu, Trư Bát Giới mới biết Bạch Long Mã có thể nói chuyện nên đã vô cùng kinh ngạc. Bị đặt ở vị trí thấp nhưng ngựa trắng lại có phong thái cao thượng, thật đáng ngưỡng mộ phải không?

***
Điều đáng khâm phục hơn đó là Bạch Long Mã không chỉ khiêm tốn mà còn đóng vai trò then chốt trong những thời khắc quan trọng.
Khi Đường Tăng không may gặp nạn, bị yêu quái biến thành con hổ già, Sa Tăng bị bắt trói lại còn Bát Giới may mắn chạy thoát, đoàn lấy kinh gần như tan rã.
Vào thời điểm quan trọng ấy, ai đã cắn vào quần áo của Trư Bát Giới? Hơn nữa nhân vật này còn yêu cầu Bát Giới đến Hoa Quả Sơn mời Tôn Ngộ Không về trợ giúp? Ai xem kịch phim cũng như đọc truyện đều biết đó chính là Bạch Long Mã.
Quan sát biểu hiện của Bạch Long Mã kỹ hơn một chút, chúng ta sẽ thấy, đầu tiên ngựa trắng “không ngăn được những giọt nước mắt”. Đừng đánh giá thấp những giọt nước mắt này. Đường Tăng gặp nạn, Tam sư huynh không nhỏ giọt lệ nào, Nhị sư huynh cũng không khóc thương sư phụ. Ngược lại, Bạch Long Mã không có danh phận lại rơi lệ.

Điều này cho thấy, đối với việc lấy kinh, Bạch Long Mã thật vô cùng tận tâm tận lực, đồng thời nó cũng có tình cảm chân thành đối với sư phụ. Điều này cho thấy không dễ dàng mà làm được.
Tiếp đến, Bạch Long Mã dám mạo hiểm thực hiện hành động biến thành một cung nữ để ám sát quái vật ăn cắp áo cà sa. Đây được xem là trận đánh vinh quang. Cho dù điều kiện bất lợi nhưng ngựa trắng vẫn một mình dũng cảm đi đánh yêu quái chúa tể. Dù bị thương bỏ chạy nhưng đó cũng được xem là một thất bại vẻ vang.
Vào thời khắc nguy nan như vậy, Bạch Long Mã vẫn rất sáng suốt yêu cầu Nhị sư huynh mời Tôn Ngộ Không về chủ trì đại cục. Hơn nữa điều này cũng cho thấy quan điểm của anh ta rất rõ ràng.
***
Không chỉ vậy, Bạch Long Mã cũng là nhân vật xem người rất chuẩn và hiểu biết cao. Anh ta đưa ra câu đánh giá sắc sảo về Hầu vương: “Đại sư huynh rất nhân từ và chính trực”. Dòng đánh giá này cũng được giữ lại trong phiên bản gốc phim Tây Du Ký năm 1986. Đạo diễn Dương Khiết cũng thấy được câu này có nội hàm sâu sắc.
Cần lưu ý rằng, những từ ngữ chính xác như vậy không phải do Đường Tăng nói mà được thốt ra từ miệng của con ngựa. Điều này cho thấy cách nhìn người của Bạch Long Mã tốt như thế nào. Thời điểm đó, ngay cả Trư Bát Giới cũng lo rằng Tôn Ngộ Không mang thù hận mà không chịu giúp. Nhưng Bạch Long Mã lại dám khẳng định rằng Tôn Ngộ không sẽ đến.
Biểu hiện xuất sắc của Bạch Long Mã lần này đã giúp sự nghiệp thỉnh kinh chuyển nguy thành an, chính là khi gặp đại nạn không hồ đồ. Riêng điểm này có thể phong cho Bạch Long Mã chức anh cả.
***
Bạch Long Mã còn đóng góp rất nhiều trong hành trình thỉnh kinh nhưng kịch phim truyền hình không diễn xuất ra. Do đó người xem không biết hết được.
Ví dụ, trong tập phim “Tôn Ngộ Không khéo làm nghề y”, Ngộ Không làm thuốc cho quốc vương của nước Chu Tử. Ngộ Không lấy một mớ hỗn độn các loại thuốc để điều chế nhưng quan trọng nhất vẫn là sử dụng nước tiểu ngựa trắng. Thực tế thì nước tiểu của ngựa trắng mới là vị thuốc quan trọng khởi tác dụng.
Trong truyện, Bạch Long Mã nói về điểm tốt trong nước tiểu của mình như thế này:
“Thưa sư huynh, chẳng lẽ sư huynh lại không biết sao? Tôi là con rồng bay ở Tây Hải, chỉ vì phạm phải phép trời, được Quan Âm Bồ Tát cứu vớt, cưa sừng lột vẩy, biến thành ngựa, cõng sư phụ sang Tây lấy kinh, lập công chuộc tội. Khi tôi vượt sông tiểu ra, cá bơi trong nước, uống phải sẽ hóa rồng, trèo núi tiểu ra, cỏ sườn non được tưới, sẽ biến thành cỏ linh chi, tiên đồng hái về làm thuốc trường thọ. Vậy tôi đâu có khinh suất đi tiểu bừa bãi ở nơi trần tục thế này!”.
Bạch Long Mã chỉ đi tiểu ra một chút, nước này dùng làm thuốc hoàn, quốc vương ăn hết liền khỏi bệnh, bụng dạ nhẹ nhàng khí huyết lưu thông. Việc trị bệnh thành công chính là nhờ vài giọt nước tiểu của Bạch Long Mã.
Cuối cùng, khi quốc vương mở tiệc cảm ơn, thầy thuốc có nói một câu: “Thần tăng ân trọng như núi” rồi hướng Đường Tăng cùng Tôn Ngộ Không mời rượu. Tuy nhiên, ân nhân chính thức của quốc vương lại chính là Bạch Long Mã, không được nhắc đến, không có tiếng tăm gì. Công đức và danh tiếng của nó được che giấu rất kỹ lưỡng.
***
Hơn nữa, Bạch Long Mã cũng rất dễ nuôi, sống không xa hoa mặc dù anh ta chính là Thái tử Long cung. Bạch Long Mã vốn là Thái tử của long cung, trên đường đi, việc nó đòi hỏi ăn sơn hào hải vị thì cũng là chuyện bình thường. Tuy nhiên, ngựa trắng lại chưa từng đòi hỏi về đồ ăn trên đường đi lấy kinh. Thức ăn chính của Bạch Long Mã vẫn chỉ là cỏ khô.
Đến bất cứ nơi đâu, Trư Bát Giới cũng chỉ lấy cỏ cho ngựa trắng ăn và thế là đủ. Mặc dù vậy, Bạch Long Mã cũng không có yêu cầu gì thêm. Nó ăn món ăn đơn giản nhất là cỏ nhưng lại đi được đoạn đường xa nhất.
Ngay cả yên ngựa cũng không cần Đường Tăng phải chuẩn bị. Lúc Tiểu Bạch Long biến thành ngựa hoàn toàn không có yên và dây cương, sau đó sơn thần đã mang chúng tới đưa cho Đường Tăng. Đường Tăng không mang theo thứ gì nên rất nhẹ nhàng xuất phát.
Đây chính là con Bạch Long Mã chúng ta đã đánh giá thấp.
Xuất thân từ gia đình danh tiếng nhưng lại hết sức cẩn trọng, tận hết trách nhiệm, hơn nữa lại ăn uống đơn giản. Bạch Long Mã chịu bao vất vả, một nắng hai sương đưa người về phía trước, giấc mộng của bạn là phương hướng của ta.

Theo Sound Of Hope
San San biên dịch


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Giải mã “Tây Du Ký” (1): Lời nói đầu


Facebook
Tác giả: Thu Cứu Tàn Duyên

[ChanhKien.org]
Thấu hiểu Tây Du Ký, thấu hiểu kiếp nhân sinh
Hoá ra tác phẩm Tây Du Ký là cuốn sách truyền kỳ về người tu luyện, là một tác phẩm dự ngôn vĩ đại của nhân loại…

Tây Du Ký có lẽ là cuốn sách mà mọi người chúng ta từ nhỏ đều thích đọc.
Nhớ lúc nhỏ đọc Tây Du Ký, tôi thường bỏ qua những đoạn thơ và những phần nói về tu luyện trong truyện, chỉ chú tâm xem những tình tiết mà tôi thấy hứng thú. Thiết nghĩ chắc hẳn rất nhiều người có thói quen giống tôi, nguyên do bởi đối với phần lớn những người bình thường không tu luyện thì những thứ như: mộc mẫu, nguyên thần, thi quỷ, thỏ ngọc… họ hoàn toàn mù mịt không hiểu.
Lúc nhỏ đọc Tây Du Ký, nhân vật Đường Tăng khiến người ta cảm giác là người rất đần độn, ông chẳng có chút năng lực gì, chỉ biết kêu khóc, mỗi lần bị yêu quái bắt và trói lại, Đường Tăng chỉ vừa khóc lóc vừa làm thơ kể khổ. Ông không hề có chút bản lĩnh gì, chỉ biết niệm chú “Kim Cô” để bắt Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại phải ngoan ngoãn phục tùng, đặc biệt trong phần “Ba lần đánh Bạch Cốt Tinh”, tôi cứ mãi cảm thấy bất bình thay cho Tôn Ngộ Không. Tuy vậy tôi cũng rất khâm phục sự kiên cường của Đường Tăng, dù ông không có bất cứ bản lĩnh gì, lại liên tục bị yêu quái bắt đi, động chút là đòi nấu ông lên ăn thịt, lại có lúc chúng biến thành yêu nữ đến dụ dỗ ông, nhưng ông chưa bao giờ bị lừa.
Nhân vật mà trẻ em thích nhất là Tôn Ngộ Không, vì Ngộ Không thần thông quảng đại, cương trực, công bằng, có thể xuống long cung, xuống âm phủ, lên thiên đình đại náo thiên cung, tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh. Vì muốn mình trường sinh bất tử, thọ cùng trời đất mà ‘con khỉ đá’ đã một mình vượt biển đi tìm tổ sư Bồ Đề, học được 72 phép thần thông biến hoá, cưỡi Cân Đẩu Vân, luyện thành Hỏa Nhãn Kim Tinh phân biệt được hết thảy yêu ma quỷ quái nơi thế gian. Tôn Ngộ Không nhảy vào lửa không cháy, đi xuống nước không ướt, sét đánh không chết, dầu chiên không bỏng, ăn trộm tiên đan, uống trộm rượu tiên, mang theo cây gậy Kim Cang tung hoành khắp thiên đình không có đối thủ. Tôi cứ luôn có cảm tưởng rằng Tôn Ngộ Không chính là hiện thân của chính nghĩa ở nhân gian, nhân vật này đã rót vào tâm hồn nhỏ bé của tôi sức mạnh và niềm tin vào chính nghĩa, Tôn Ngộ Không dường như là tiêu chuẩn và hình mẫu làm người của tôi, giúp tôi khi trưởng thành không sa ngã vào dòng chảy của xã hội tha hoá này mà mê lạc mất tiêu chuẩn làm người của mình. Thật sự phải cảm ơn Tôn Ngộ Không rất nhiều.
Còn Trư Bát Giới tham lam, háo sắc, lười biếng, động một chút là đòi chia hành lý trở về Cao Lão Trang, nhân vật này cũng để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Sau này dần dần trưởng thành, mỗi lần tự xét lại bản thân, tôi phát hiện chính mình cũng có không ít những điểm xấu của Trư Bát Giới, tôi thường cảm thấy tự hổ thẹn, Trư Bát Giới giống như tấm gương phản chiếu cho tôi thấy những thiếu sót của mình. Dù vậy, bản thân Trư Bát Giới cũng có những điểm tốt, ít khi tức giận, mỗi khi làm sai, mỗi khi bị Tôn Ngộ Không trách mắng là đồ ngốc, Trư Bát Giới lại nhẹ nhàng ngon ngọt gọi hai tiếng “Hầu ca”, rồi lại cười hì hì vui vẻ như bình thường, biết sai sửa sai, sau rồi lại cùng sư phụ và sư huynh đệ lên đường thỉnh kinh, trên đường đi cũng góp công sức không nhỏ.
Tôi vẫn luôn cảm nhận nhân vật Sa Tăng là một người trung thực, thật thà, tu hành rất thiết thực, trên đường đi thỉnh kinh rất chuyên cần chịu khó, phối hợp với Tôn Ngộ Không trừ yêu quái, điều hòa mâu thuẫn giữa Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới, Sa Tăng không hề phát sinh tư tâm, người như vậy ở đâu cũng luôn khiến cho người khác yêu thích, quả là một con người rất tốt.
Lúc bé vì không biết nên tôi cứ thắc mắc mãi, không hiểu sức mạnh nào khiến cho đoàn người đi thỉnh kinh này trên đường đi có thể gặp yêu trừ yêu, gặp quỷ trừ quỷ, cuối cùng đắc được chân kinh, chứng được chính quả? Các đệ tử của Đường Tăng, người nào cũng thần thông quảng đại, nhưng dưới sự chỉ dẫn của Bồ Tát, ai nấy đều tận lực phò tá Đường Tăng đi thỉnh kinh, điều này khiến cho người ta cảm nhận một sức mạnh đoàn kết thật vĩ đại; càng cảm thấy mục tiêu vĩ đại lấy được chân kinh thực sự giúp con người vượt lên khó khăn, cho nên có thể nói năm thầy trò Đường Tăng là những người có lý tưởng rất cao đẹp, họ đã khiến tôi bắt đầu âm thầm ngưỡng mộ người tu hành.
Cho dù lớn lên tôi đã từng đọc lại Tây Du Ký, nhưng cũng chỉ xem kỹ hơn các tình tiết câu chuyện, mà chưa từng suy xét nội hàm thâm sâu hơn.
Tuy nhiên, sức hấp dẫn của văn hóa Trung Quốc dù sao cũng rất lớn, từ bé đến lớn tôi đã đọc Tây Du Ký rất nhiều lần, câu chuyện đã để lại trong tôi rất nhiều câu hỏi, ví như tại sao Ngộ Không chỉ có 72 phép thần thông? Tại sao có những lúc Ngộ Không không dùng phép tàng hình? Tại sao sau khi lấy được chân kinh rồi mà còn phải chịu thêm nạn cho đủ 81 kiếp nạn? v.v.
Hôm nay, khi tôi cũng đã trở thành một người tu luyện như thầy trò Đường Tăng, từng bước từng bước tu luyện trong Pháp Luân Đại Pháp, những ma nạn như trong Tây Du Ký cũng dần dần xuất hiện với tôi, tôi cuối cùng cũng đã minh bạch!
Hóa ra Tây Du Ký là cuốn sách ghi chép về người tu luyện;
Hóa ra Tây Du Ký là một cuốn sách dự ngôn vĩ đại;
Hóa ra Tây Du Ký là cuốn sách tu luyện ký sự của đệ tử Đại Pháp ngày nay;
Hóa ra Tây Du Ký đã vượt qua thời gian, không gian 400 năm, từ triều đại nhà Minh đã bắt đầu nói cho người Trung Quốc biết rằng: “Tương lai thời mạt pháp sẽ có một lô những người tu luyện, họ được gọi là ‘đệ tử Đại Pháp’, họ cũng sẽ giống như thầy trò Đường Tăng vượt qua ma nạn tu thành chính quả, cứu độ chúng sinh”.
Chúng tôi sẽ dần dần vén bức màn bí mật của Tây Du Ký, đã đến lúc triển hiện chân tướng cho con người thế gian.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thử giải “Tây Du Ký” (1)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần
TayDuKy

[Chanhkien.org] “Tây Du Ký” từ khi ra đời đến nay vẫn luôn nhận được sự yêu mến của mọi người. Người ta không chỉ yêu thích các hình tượng nhân vật trong đó, tình tiết trong đó, mà cả tinh thần lạc quan hướng thiện thể hiện trong tác phẩm. Nhận thức của người Trung Quốc đối với tu luyện, Thần Phật, thế giới thiên quốc, yêu ma quỷ quái, rất nhiều đều có liên quan với “Tây Du Ký”. Về nội hàm và ý nghĩa chính của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau và phức tạp, khó có thể đưa ra được kết luận. Sau khi tu luyện, tôi đã có một tầng nhận thức tương đối sâu, hôm nay chỉnh lý lại, mong muốn chia sẻ cùng quý độc giả.
I. Quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không
1. Bản lai diện mục của Tôn Ngộ Không

Mở đầu Tây Du Ký là nói về xuất thân của Tôn Ngộ Không, do một tảng đá tiên hấp thụ linh khí của trời đất và tinh hoa của nhật nguyệt mà sinh ra, theo cách nói của Bồ Đề Lão Tổ thì là “Trời Đất sinh ra”. Mục đích tác giả viết về Thạch Hầu này cũng được nói rất rõ ràng, trong truyện có câu thơ như sau: “Tá noãn hóa hầu hoàn Đại Đạo, Giả tha danh tính phối đan thành.” Lại nói, “Lịch đại nhân nhân giai chúc thử, Xưng thánh xưng vương nhậm tung hoành.” Vậy nên từ góc độ này mà nói, tác giả viết về quá trình Thạch Hầu cầu Đạo và tu luyện, cũng là đang giảng giải về quá trình tu luyện của một người.
Mỹ Hầu Vương từ Đông Thắng Thần Châu, đi qua Nam Thiêm Bộ Châu, cuối cùng tìm được Tu Bồ Đề Tổ Sư ở Tây Ngưu Hạ Châu. Con đường xa xôi thế này dù sao cũng chỉ là quá trình một người cầu Đạo trải qua, nhưng cuối cùng tìm được Tổ Sư ở nơi nào? Trong truyện viết là, “Linh Đài Phương Thốn sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh động”. Ý hai câu này là nói về một chữ “tâm”, từ xưa người ta thường nói tâm thành “Linh Đài”, còn “Phương Thốn” cũng là để chỉ tâm, “Tà Nguyệt Tam Tinh động” lại càng dễ hiểu hơn, “Tam Tinh” (ba ngôi sao) chính là ba nét chấm của chữ “tâm” (心), “Tà Nguyệt” (vầng trăng khuyết) chính là nét móc nằm ngang. Mỹ Hầu Vương trải qua bao nhiêu gian khổ nguy hiểm, cuối cùng trong tâm của mình đã tìm được “chân Pháp” để tu luyện.
Câu nói này rất phù hợp với cách nói của Phật gia, chính là “Phật tại tâm trung”, tức “tâm là Phật”. Nhưng không phải nói rằng trong tâm có ông Phật, mà là nói phải hướng nội mà tu, hướng vào trong tâm của mình mà tu, thì mới tu thành Phật được. Bước đường Mỹ Hầu Vương dù đi qua được bao nhiêu, trải qua bao nhiêu năm tháng, cuối cùng tự trong tâm mình đã ngộ được chân Pháp chân Đạo. Vậy sư phụ Tu Bồ Đề Tổ Sư của Tôn Ngộ không là ai? Ông lẽ nào lại có thể ở trong tim của Mỹ Hầu Vương?
Trong truyện viết về Tôn Ngộ Không, có rất nhiều chỗ đều nhắc đến chữ “tâm viên” (tâm viên – ví một người nông nổi, tâm trí bất an như loài khỉ loài vượn luôn chạy nhảy). Hồi thứ 7 “Bát Quái lư trung đào đại thánh, Ngũ Hành sơn hạ định tâm viên” còn một câu tụng nữa: “Viên hầu đạo thể giả nhân tâm, Tâm tức viên hầu ý tứ thâm.” Vậy thì, Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của ai? Thực ra Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã, năm vị này hợp lại chính là một người. Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho cái tâm của Đường Tăng.
Xét về Tôn Ngộ Không không thể xét một cách đơn nhất riêng lẻ, Tôn Ngộ Không là những mảnh ghép tượng trưng cho nhiều hình tượng. Một mặt là thể hiện hình tượng hóa của cái tâm con người, mặt khác lại thể hiện ra một người trong tu luyện với ý chí và thân thể mạnh mẽ (cương dương), trong truyện dùng chữ “kim công” chính là để chỉ về Tôn Ngộ Không. “Kim công” là theo cách nói về ngũ hành đối ứng với ngũ tạng trong thân thể người; thỉnh thoảng còn dùng nó để nói về dục trong “lục dục”, ví dụ như, câu thơ mở đầu hồi thứ 17 viết: “Lục bàn thể tương lục bàn binh, Lục dạng hình hài lục dạng tình; Lục ác lục căn duyên lục dục, Lục môn lục đạo đổ thâu doanh”. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, và ba yêu ma khác chính là chỉ lục dục của con người. Khi Bồ Đề Lão Tổ đặt tên cho Tôn Ngộ Không, ông đã nói: “Tử giả, nhi nam dã; hệ giả, anh tế dã. Chính hợp anh nhân chi bổn luận. Giáo nhĩ tính ‘Tôn’ bãi”. Điều này xét từ góc độ khác có thể thấy rằng một người khi tu luyện đến một tầng thứ nhất định nào đó, thì nguyên anh được sinh ra tại đan điền. Đối với Hoa Quả sơn và Thủy Liêm động mà nói, đó chính là tượng trưng cho thân thể và trái tim của Tôn Ngộ Không. Thạch Hầu sau khi nhảy qua tấm màn bằng nước đã vào được trong Thủy Liêm động, Thủy Liêm được nhắc đến trong truyện, chính là, “Kiều hạ chi thủy, xung quán vu thạch khiếu chi gian, đảo quải lưu xuất khứ, già bế liễu kiều môn” (Nước dưới cây cầu, xông qua huyệt giữa núi đá, chảy ngược ra ngoài, che lấp đi cửa lên cầu), đây cũng là miêu tả hình tượng hóa chữ “tâm”. Tôn Ngộ Không sau khi ngộ Đạo và trong cuộc đại chiến với Thiên binh Thiên tướng, đã phong hai con Xích Khào Mã Hầu và hai con Thông Bối Viên Hầu làm kiện tướng, đó cũng là tứ chi của Tôn Ngộ Không. Cho nên trong khi đại chiến với các vị thần, 72 yêu vương đều có thể bị bắt đi, nhưng 4 kiện tướng này bao gồm cả bầy khỉ, không có một con nào bị bắt đi. Nhưng trước khi Tôn Ngộ Không bị bắt giữ, bốn kiện tướng và bầy khỉ đã bị làm cho phân tán rời rạc.
Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của Đường Tăng, Tu Bồ Đề lại ở trong tâm của Tôn Ngộ Không, vậy rốt cuộc Đường Tăng và Tu Bồ Đề có quan hệ thế nào? Trong “Tây Du Ký” nói rằng Đường Tăng là đồ đệ thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni – Kim Thiền Tử – chuyển sinh. Nhưng trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại không có người nào tên Kim Thiền Tử, điều này nói rõ rằng tác giả dùng cái tên “Kim Thiền Tử” không có thật chỉ là để lấy ý trong “Kim Thiền thoát xác”. Mà trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại đúng có vị tên là “Tu Bồ Đề”. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn khi đó là thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Từ khi Tôn Ngộ Không sinh ra đến khi sinh tâm học Đạo đã ở trong núi trải qua hơn 500 năm, rồi đến khi cầu Đạo học Đạo lại trải qua mấy chục năm, cứ tính như thế, thì Tôn Ngộ Không chính là sinh ra trong thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp. Từ một góc độ khác mà xét, Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm, cũng vừa khớp với thời gian Đường Tăng tu hành 9 kiếp trước. Lai lịch nguyên gốc của Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Tu Bồ Đề là cùng một thời đại, thông qua miêu tả như trong truyện, ba vị này cũng có thể xem là một người.
Bồ Đề Lão Tổ dùng thước đánh vào đầu Ngộ Không ba cái, Ngộ Không liền ngộ được rằng Tổ Sư muốn bảo mình rằng sau canh ba đi học nghệ. Thực ra chuyện này xuất phát từ điển cố “Lục Tổ đàn kinh”, Lục tổ Huệ Năng từng làm bài kệ, “Bồ Đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài; Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nặc trần ai?” (Bồ Đề vốn chẳng phải cây, Gương sáng cũng chẳng phải đài; Xưa nay không có vật gì, Nơi nào không dính bụi trần?) Sau khi Ngũ tổ thấy được Huệ Năng đã có thể ngộ được bản tính, ông sợ Huệ Năng bị người khác hại, nên đã xóa bài kệ đi. Hôm sau, Ngũ tổ lặng lẽ tìm đến Huệ Năng, thấy Huệ Năng đang giã gạo, Ngũ tổ nói vài lời xong, rồi dùng thiền trượng gõ vào cối đá ba cái, đoạn rời đi. Lúc đó Huệ Năng đã hiểu được ý của Ngũ tổ, nên đến canh ba nửa đêm, ông lặng lẽ đến chỗ của Ngũ tổ; Ngũ tổ dùng áo cà sa che ánh sáng của ngọn đèn trước cửa sổ, và giải thích kinh “Kim Cương” cho Huệ Năng. Huệ Năng cuối cùng đã ngộ được hết vạn pháp, không rời tự tính. “Tự tính” ở đây chính là chỉ bản tính của con người, trong “Kim Cương Kinh”, “tự tính” được gọi là “Bồ Đề”. Tâm Bồ Đề được nói đến trong Phật giáo chính là để chỉ bản tính tiên thiên thuần khiết của con người.
Mà “Kim Cương Kinh” chính là ghi lại lời đối thoại của Phật Thích Ca Mâu Ni với tôn giả Tu Bồ Đề. Tu Bồ Đề vốn là đệ tử thứ mười của Phật Thích Ca, được gọi là “Giải không đệ nhất”, Bồ Đề Tổ Sư đặt tên cho Ngộ Không là “Ngộ Không” cũng là điều dễ hiểu. Thực ra từ góc độ khác mà nói, đây cũng là Ngộ Không tự đặt tên cho mình mà thôi. Ngay cả Đường Tăng cũng khen Tôn Ngộ Không, nói rằng “tâm không” mà Tôn Ngộ Không giải được là “vô ngôn ngữ văn tự, nãi thị chân giải” (không có lời nói chữ viết, chính là giải được thật sự). Đương nhiên, Kim Thiền Tử và Tu Bồ Đề có phải là một người hay không, chúng ta không cần phải đưa ra kết luận này. Đúng cũng được mà không đúng cũng được, họ chỉ là có mối quan hệ như vậy, Phật gia giảng chính là một chữ “không”, là cái gọi là “vạn Pháp không tướng”. Kỳ thực tác giả sắp đặt như vậy, còn có dụng ý sâu xa hơn nữa, chúng ta hãy từ từ bàn luận.
2. Sự tu luyện của Tôn Ngộ Không
Mấu chốt của tu luyện chính là tu tâm. Khi Bồ Đề Tổ Sư hỏi Ngộ Không tên là gì, Ngộ Không nói: “Ngã vô danh, nhân nhược mạ ngã, ngã dã bất não, nhược đả ngã, ngã dã bất sân, chỉ thị bồi cá lễ nhi tựu bài liễu. Nhất sinh vô tính” (Con không có danh tính. Nếu người khác chửi con, con không thấy phiền não; nếu người khác đánh con, con cũng không tức giận; chỉ là lấy lễ đáp lại là được. Một đời không có tên.) Điều này xem ra giống như vô ý đổi chủ đề, nói về Ngộ Không trong quá trình cầu Đạo cũng đã là đang tu tâm rồi. Chính vì có tâm tính cao như vậy, nên Ngộ Không mới có thể nhanh chóng ngộ Đạo.
Bồ Để Lão Tổ truyền thụ cho Ngộ Không “Hiển mật viên thông chân diệu quyết”, từ tên gọi mà nói, chính là gộp mật quyết tu luyện của cả hiển giáo và mật giáo trong Phật giáo làm một. Nhưng nội dung trong đó lại hoàn toàn là nội dung tu luyện của Đạo gia. Trong đó: “Nguyệt tàng ngọc thố nhật tàng ô, tự hữu quy xà tương bàn kết. Tương bàn kết, tính mệnh kiên, tức năng hỏa lý chủng kim liên. Toàn thốc ngũ hành điên đảo dụng, công hoàn tùy tác Phật hòa Tiên.” Ở đây bao hàm các thuật ngữ và quy luật tu luyện của Đạo gia. “Nguyệt tàng ngọc thố, nhật tàng ô” có ý là, khi chu thiên vận hành thì nước ở bể thận dâng lên, khí ở tim giáng xuống, từ đó mà đạt được thủy hỏa hòa hợp, cũng chính là nói thủy hỏa ký tế (ký tế – một quẻ trong Bát Quái). Bởi vì thủy thuộc quẻ Khảm trong Bát Quái, nên dùng chữ “nguyệt” (mặt trăng) để hình dung. Hình quẻ của quẻ Khảm (☵) là một hào dương ở giữa hai hào âm, “ngọc thố” chính là chỉ một hào dương kia. Tim trong ngũ hành thuộc về hỏa, nên dùng “nhật” (mặt trời) để ví, hỏa là quẻ Ly (☲), hình quẻ Ly là một hào âm ở giữa hai hào dương, một hào âm kia cũng chính là “ô” (con quạ). Quy xà tương bàn kết, là chỉ âm dương hòa hợp. “Ngũ hành điên đảo dụng” là chỉ thủy thăng hỏa giáng, mộc chìm xuống, kim nổi lên, mà lại dùng thổ (đất) để điều hòa. Điều này cũng là phù hợp với thuyết “hậu thiên trở về tiên thiên” trong tu luyện của Đạo gia. Kết hợp với điều nói ở phần sau của “Tây Du Ký” là “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” thì có thể hiểu được ngay: Đạo gia cho rằng, con người trước khi sinh ra, thận tạng đối ứng với quẻ vị là Khôn (☷), tâm tạng đối ứng là Càn (☰), quẻ Khôn là ba hào âm tạo thành, quẻ Càn do ba hào dương tạo thành. Con người khi sinh ra, quẻ Khôn liền biến thành quẻ Khảm, quẻ Càn biến thành quẻ Ly. Từ đó quẻ Khảm lấy dương bổ sung vào trong quẻ Ly, quẻ Ly biến thành quẻ Càn. “Kim Ô huyết” trong cách nói “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” là chỉ hào âm trong quẻ Ly, đặt trong quẻ Khảm, liền biến thành quẻ Khôn. Đây chính là thuyết hậu thiên quay trở về tiên thiên, cũng chính là ý trật tự ngũ hành thay đổi.
Kỳ thực, sau khi Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ phương pháp tu luyện cho Tôn Ngộ Không, sư đồ Đường Tăng tu luyện trong khi đi thỉnh kinh, thì trên cơ bản chiểu theo phương pháp tu luyện này mà đi. Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ cho Tôn Ngộ Không cách tránh “tam tai” trong “thiên lôi, âm hỏa, bị phong”, trong đó toàn là thuật ngữ tu luyện của Đạo gia. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến Tôn Ngộ Không tu thành “Thái Ất tản tiên”.
Ngộ Không học Đạo trở về, việc làm đầu tiên chính là tiêu diệt “Hỗn thế ma vương”. Giới tu luyện giảng, con người có Phật tính, cũng có ma tính, tu luyện chính là quá trình trừ bỏ ma tính, củng cố Phật tính. Vậy Ngộ Không ngộ được bản tính, đương nhiên cần phải thanh trừ ma tính của chính mình. “Hỗn thế ma vương” này chính là tượng trưng cho ma tính của Ngộ Không. Thực ra từ chính mỗi người mà nói, ai mà không có tư tưởng và đặc trưng của hỗn thế (thế gian hỗn loạn). Trong truyện nói rằng Hỗn thế ma vương trú ở phía Bắc Hoa Quả sơn trong“Tam giới khảm nguyên sơn, Từ dưỡng ngũ hành thủy tạng động” thực ra chính là chỉ về bộ phận thận tạng. Thận tạng của thân thể con người trong ngũ hành là thuộc về tính thủy. Mà “Khảm” (☵) trong tám quẻ của Bát Quái lại là chỉ thủy, phương vị thuộc hướng Bắc. Từ chỗ này chúng ta có thể nhìn ra Hoa Quả sơn chính là tượng trưng cho thân thể của Tôn Ngộ Không. Tên hiệu của Hỗn thế ma vương kia và ma tính trong thân người cũng rất phù hợp với nhau. Cho nên, Ngộ Không tiêu diệt Hỗn thế ma vương cũng là một phương diện trong tu luyện của bản thân. Tiêu đề trong hồi này: “Ngộ triệt Bồ Đề chân diệu lý, Đoạn ma quy bản hợp nguyên thần”, chính là nói rõ về vấn đề này.
Quá trình Ngộ Không lấy của Long Vương cây Kim Cô bổng, miêu tả làm cho người ta cảm thấy như thân ở trong cảnh, kỳ thực đó cũng chỉ bất quá là tầng thứ tu luyện của Ngộ Không biểu hiện ra như ý mà thôi. Trong truyện nói Ngộ Không từ Thủy Liêm động dưới cầu Thiết Bản mà trực tiếp xuống đáy biển, dưới đáy biển nhìn thấy cây sắt “Định hải thần châm”, cũng gọi là “Như ý Kim Cô bổng”. Ở đây tác giả dùng một cách nói ẩn dụ, là chỉ về định lực và tầng thứ của Tôn Ngộ Không. Bình thường mà nói, thông thường gọi huyệt hội âm là đáy biển, Tôn Ngộ Không từ Thủy Liêm động nhảy trực tiếp xuống biển, đó là nói lên hình tượng hóa của Tôn Ngộ Không khi nhập định. Lại nói về cây sắt định hải thần châm, nó chính là định sự nông sâu của sông biển, làm binh khí cũng chính là thành gậy sắt như ý.
Tôn Ngộ Không được phong làm Bật Mã Ôn cũng là có dụng ý. Trong sách ví Tôn Ngộ Không là “tâm viên”, ví Bạch Long Mã thành “ý mã”, có câu thơ như thế này: “Mã viên hợp tác tâm hòa ý, Khẩn phược thuyên lao mạc ngoại tầm”. Trong câu tiêu đề khái quát nội dung của “Tây Du Ký” có câu, “Ý mã ức tâm viên”, cũng là đạo lý này. Tôn Ngộ Không ở trên trời trông nom thiên mã (ngựa trời), ý nghĩa chính là chỉ tâm của một người cần phải quản chắc cái ý của chính mình, không được để tâm mình suy nghĩ lung tung.
Sau khi Tôn Ngộ Không được phong làm Tề Thiên Đại Thánh, trong Tề Thiên Đại Thánh phủ còn thiết lập ra hai ti: một ti gọi là ‘An Tịnh ti’, một gọi là ‘Ninh Thần ti’. An tịnh và ninh thần chính là để cho Ngộ Không an tâm định thần. Từ một góc độ khác mà nói, Tôn Ngộ Không tự phong làm “Tề Thiên Đại Thánh” cũng có đạo lý. Đạo gia tu luyện coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sau khi người ta tu luyện đắc Đạo, chính từ tự thân mà nói, thì thọ mệnh của người đó sánh ngang với trời, hợp nhất với trời, gọi là Tề Thiên Đại Thánh cũng chính là chỉ ý này. Có điều “Tây Du Ký” là một tác phẩm văn học, là lấy hình thức văn nghệ để truyền tải nội dung, cho nên biểu hiện bề mặt viết rất hấp dẫn và phức tạp, thực chất biểu hiện ra lại là có dụng ý khác. Lại nói thêm, việc Tôn Ngộ Không tự đặt biệt hiệu cho mình, cũng là để cho bản tính kiêu ngạo được biểu hiện ra.
Tôn Ngộ Không sau khi bị bắt cho vào lò Bát Quái để luyện, đó cũng là biểu hiện của một loại hình thức tu luyện khác, Hỏa nhãn kim tinh (đôi mắt lửa sáng ánh kim), Đồng đầu thiết tý (đầu cứng như đồng, tay dẻo như thiếc), cũng là trải qua quá trình luyện trong lò Bát Quái mà thành.
Bảy hồi đầu của “Tây Du Ký” viết về xuất thân và quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không. Xem sự dũng mãnh và uy lực mạnh mẽ của Tôn Ngộ Không khi đại náo Thiên Cung, đó cũng là một hình thức biểu hiện của tu luyện. Trong toàn cuốn sách, phần này là hấp dẫn người đọc nhất, Thần tướng khắp trời mà không làm thế nào bắt được một con khỉ. Xem Tôn Ngộ Không học Đạo tiên, mượn binh khí, ăn đào tiên, uống ngự tửu, trộm tiên đan, đánh bại Na Tra, đại chiến Nhị Lang, trong lò Bát Quái luyện mắt vàng, chơi đùa hung dữ trong tay Phật Tổ, thật làm cho người ta hét lên khoái chí. Trong hình thức biểu hiện nhiều lần lặp lại tình huống, điều ẩn giấu chính là nội hàm của một người tu luyện.
Tu luyện Đạo gia coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sự tu luyện của Tôn Ngộ Không là hoàn thành chính trên thân thể mình. Thực ra, sự tu luyện của bất kỳ ai cũng là tu luyện thân và tâm của chính mình. Vậy Thiên Cung mà Tôn Ngộ Không đại náo nằm ở đâu? Đó chính là đầu của Tôn Ngộ Không, sau khi nhảy ra từ lò Bát Quái, Tôn Ngộ Không nói với Phật Như Lai rằng muốn ngồi ở Linh Tiêu Bảo Điện, thay thế Ngọc Hoàng Đại Đế. Linh Tiêu Bảo Điện nằm ở đâu? Chính là Nê Hoàn Cung của con người, chủ nguyên thần của người ta chính là ở đó. Tôn Ngộ Không muốn đuổi Ngọc Hoàng Đại Đế đi, làm sao được cơ chứ? Giống như một người, nếu không có chủ nguyên thần, thì những điều khác chẳng cần bàn tới nữa; chủ nguyên thần làm chủ và điều khiển hết thảy tâm và thân một người, sự ngông cuồng của Tôn Ngộ Không chính là tới mức không biết trời cao đất dày là gì, vậy thì đến lúc bị mắc kẹt dưới núi Ngũ Hành Sơn rồi.
3. Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không
Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không thật đáng để chúng ta bàn luận một chút. Tôn Ngộ Không xuất thân tại nước Ngạo Lai ở Đông Thắng Thần Châu, điều này nói rõ rằng Tôn Ngộ Không vốn sinh ra đã kiêu ngạo. Vào đến Thủy Liêm Động được bầy khỉ bái làm Vương. Bản thân là một con khỉ đá, lại tự xưng là “Mỹ Hầu Vương”. Trên Thiên Đình được phong làm Bật Mã Ôn, kiêm chức quan nhỏ, đại náo Thiên Cung, rồi tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh, cuối cùng cuồng vọng đến mức muốn đuổi cả Ngọc Hoàng Đại Đế đi, để ngồi thay vị trí của ông. Trong tay Phật Như Lai nhảy cân đẩu vân, cho rằng đã đến tận cuối trời, để lại ký hiệu cũng ghi là “Tề Thiên Đại Thánh đã đến nơi đây”, cái tâm ngạo mạn đã lộ rõ ra ngoài.
Thực ra cái tâm ngạo mạn của Tôn Ngộ Không cũng là ám chỉ và nhắc nhở con người thế gian. Con người sống ở thế gian, theo cách nói của tôn giáo thì đều là có “tội” cả. Nhưng mà, thế gian lại vốn là một không gian mê, con người lại không biết tất cả những gì của bản thân mình đều là do Thần Phật trông nom bảo hộ, một khi có được bản sự rồi, liền bắt đầu cho rằng mình là duy nhất. Đặc biệt trong tu luyện, sự ngạo mạn này chính là bất kính đối với Thần Phật. Với người tu luyện, tất cả mọi thứ của bản thân mình đều là do Thần Phật an bài, diễn hóa, chăm nom bảo hộ, cũng là nói bản thân mình chính là một sinh mệnh mà Thần Phật tạo ra. Một người có cái tâm kiêu ngạo rồi, lại không chỉ là kiêu ngạo đối với một sự việc nào đó thôi, mà là trong tất cả các hành vi của người đó đều thể hiện ra tâm ngạo mạn. Trong “Tây Du Ký” có nói, Đường Tăng là Kim Thiền Tử – đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ vì khinh mạn Phật Pháp mà bị đọa xuống hạ giới. Kim Thiền Tử vì sao khinh mạn Phật Pháp, đó chẳng phải là ông có tâm kiêu ngạo mới dẫn đến việc ông dám khinh mạn Phật Pháp hay sao? Kết cục cuối cùng là bị đày xuống hạ giới, tu hành lại từ đầu. Sự cuồng ngạo của Tôn Ngộ Không cũng rơi vào kết cục là bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn trong 500 năm.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128188

(sưu tầm)
Ngày đăng: 27-03-2014
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thử giải “Tây Du Ký” (2)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
II. Thỉnh kinh và tu luyện

“Tây Du Ký” là truyện kể về thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, đúng hơn thì đây là một câu chuyện về tu luyện. Khó khăn và sự ma luyện trên đường đi thỉnh kinh, chính là những ma nạn mà một người trong quá trình tu luyện ắt phải trải qua. Tại sao lại nói là ma nạn ắt phải gặp? Ví như thất tình lục dục của một người, đó là điều mà ai ai cũng có, như trong “Tây Du Ký” dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để hình dung về thất tình. Những ma nạn này, bề mặt thì thấy là những nhân tố bên ngoài, nhưng rốt cuộc đều có liên quan đến tự thân, cũng chính là ma nạn của bản thân mỗi người. Trong giới tu luyện gọi việc trừ bỏ ma tính của bản thân là “luyện ma”. Tiêu trừ ma tính, chính là dựa vào Phật tính của chính mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân ở bảy hồi đầu lại chú trong về miêu tả Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng.
1. Ngũ vị nhất thể, trong đó ẩn chứa nhân tố tu luyện
Năm vị, gồm thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, có thể coi như là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn về vấn đề này, trong đó bốn câu mở đầu là: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận.” “Nhất thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa tứ tướng”, là thuật ngữ trong tu luyện. Trong tu luyện của Đạo gia cổ xưa, thường lấy huyền vũ, chu tước, thanh long, bạch hổ để lần lượt chỉ thận, tim, gan, phổi. Trong ngũ hành chúng lần lượt thuộc thủy, hỏa, mộc, kim. Tương sinh trong ngũ hành, đó là mộc sinh hỏa, kim sinh thủy; trong “Tính Mệnh Khuê Chỉ” nói rằng, long mộc sinh hỏa, thuộc về tâm. Hổ kim sinh thủy, cùng một hệ với thân thể. Tâm không động, thì nguyên khí tụ lại; thân không động, thì tinh khí tụ lại. Tinh ngưng khí tụ, tức là chỉ kim mộc thủy hỏa trộn lẫn với nhau trong thổ (đất). “Hợp hòa tứ tướng” tức là chỉ về điều này.
Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ, hỏa. Trong truyện thường dùng “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉ Trư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có một hàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công” cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên “mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc và thủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất do thổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”. Cho nên quá trình đi thỉnh kinh trong “Tây Du Ký”, đều là do ba vị – Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng – trảm yêu trừ ma. Quá trình trảm yêu trừ ma cũng chính là quá trình tu luyện.
Sự đối ứng từ trong nội tạng cho đến thân thể của thầy trò Đường Tăng cũng không chỉ là máy móc như trên. Đường Tăng thuộc thủy, ứng với thận tạng. Nhưng Đường Tăng là chủ nguyên thần của người, nơi trú ngụ của chủ nguyên thần chính là trong Nê Hoàn Cung của con người. Trư Bát Giới làm mộc mẫu, cũng là chỉ về thủy, ở vị trí thận tạng. Trong “Tây Du Ký” có mượn lời của Trư Bát Giới để thuyết minh, nói Trư Bát Giới được “Noãn Nhị Thư” kén làm rể. Vị Noãn Nhị Thư này chính là ví như hai quả thận của người ta vậy. Bộ phận tì tạng (lá lách) chính là đối ứng của Sa Hòa Thượng. Bởi vì tác dụng của tì tạng là vận hóa thủy cốc (chuyển hóa thức ăn), vận chuyển phân bố và vận hành thủy dịch. Do đó nơi ở Lưu Sa Hà của Sa Hòa Thượng mới là “Nga mao phiêu bất khởi, Hồ hoa định để trầm”. Tôn Ngộ Không ở bộ vị tâm tạng thì không cần nói nữa, Bạch Long Mã cũng ứng với chỗ này (tâm), bởi vì mã thuộc về hỏa, đối ứng với nội tạng là tâm tạng, lại nói rằng tâm và ý là cùng một thể.
Trong “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới luôn tranh đấu, đố kỵ, châm chọc không dứt, đó chính là âm dương giao phối trong quá trình tu luyện. Trong đó Sa Hòa Thượng đóng vai trò điều hòa. Mãi đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến trạng thái điều hòa một cách hài hòa nhất trí. Trong truyện còn có câu thơ như sau: “Ngũ hành tứ phối hợp thiên chân, Nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỉ lập cơ vi diệu dụng, Biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, Bản khứ cầu tình cộng phục luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, Điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.”
Năm trăm năm trước Tôn Ngộ Không đã tu luyện thành Tiên, Đường Tăng cũng là người tu hành mười kiếp, vậy còn Bát Giới và Sa Tăng? Bát Giới từng kể với Ngộ Không về quà trình tu hành đời trước: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời xuyết. Thượng chí đỉnh môn Nê Hoàn Cung, Hạ chí cước bản dũng tuyền huyệt. Chu lưu thận thủy nhập hóa trì, Đan điền bổ đắc ôn ôn nhiệt. Anh nhi sá nữ phối âm dương, Duyên hống tương đầu phân nhật nguyệt. Ly long khảm hổ dụng điều hòa, Linh quy hấp tận kim ô huyết. Tam hoa tụ đỉnh đắc quy căn, Ngũ khí chiêu nguyên thông thấu triệt.” Sa Tăng cũng đã từng bộc bạch rằng: “Nhân thử tài đắc ngẫu Chân Nhân, Dẫn khai đạo kim quang lượng. Tiên tương anh nhi sá nữ thụ, Minh đường thận thủy nhập hoa trì. Trọng lâu can hỏa đầu tâm trạng, Tam thiên công mãn bái thiên nham, Chí tâm chiêu lễ minh hòa hướng.”
Còn một vấn đề nữa cần phải nói rõ, đó chính là tại sao năm vị này lại bị đọa xuống hạ giới? Đường Tăng, Ngộ Không đều là vì ngạo mạn; Trư Bát Giới vì trêu ghẹo Hằng Nga; Sa Hòa Thượng vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly; Tiểu Bạch Long vì phóng hỏa đốt viên minh châu. Những tội này tại góc độ con người thế gian mà xét, xem ra cũng chưa là gì, nhưng ở một cảnh giới cao hơn mà xét, đó là vì những sinh mệnh này đã trở nên bất thuần. Từ góc độ tu luyện mà xét thì con người cần phải tu luyện đến vô lậu mới có thể viên mãn. Thế nào là vô lậu? Đó chính là không còn có bất kỳ tâm chấp trước nào, từng suy nghĩ đều là thuần chính, thì mới có thể đắc đạo thành Tiên thành Phật được. Tương ứng như vậy, những vị Tiên gia tu luyện thành tựu tại các quả vị khác nhau, tư tưởng cảnh giới của họ cũng đều là thuần chính cả. Chỉ cần có một chút sai sót thì cũng không thể ở tại tầng thứ đó nữa. Tội của Sa Hoà Thượng xem thì giống như một chút tội nhỏ, nhưng mà một chút tội nhỏ này lại là điều căn bản mà tại cảnh giới đó không được xảy ra. Tại sao lại lỡ tay được đây? Đó chẳng phải là thất thần rồi hay sao? Chẳng phải là trong tâm có tạp niệm hay sao? Từ góc độ này mà nhìn về tu luyện, thấy là việc vô cùng nghiêm túc.
Quan hệ nội tại của sư đồ Đường Tăng trong truyện cũng có ám chỉ: Đường Tăng là người tu hành mười kiếp; Tôn Ngộ Không là đồ đệ đời thứ mười của Bồ Đề Tổ Sư; ngay cả vòng đeo ở cổ của Sa Tăng cũng là chín cái đầu lâu của người đi thỉnh kinh.
Từ khía canh khác mà nói, bốn thầy trò Đường Tăng lần lượt nói rõ chi tiết về những phương diện của người tu luyện. Đường Tăng bề ngoài nhìn thì không có chút năng lực gì, yếu đuối lại còn nhát gan, nhưng có một niềm tin đi thỉnh kinh vững như bàn thạch; Tôn Ngộ Không là tâm viên, hoạt bát, thông minh lanh lợi, không bị bó buộc, có thể phân biệt rõ thật giả, lại có khả năng trảm yêu trừ ma; Bát Giới thì rất giống lợn, hay ăn không hay làm, lại còn háo sắc, thích an nhàn, muốn chiếm phần hơn, đố kỵ với người giỏi hơn mình; Sa Hòa Thượng biểu hiện cần cù, chăm chỉ, biết thân biết phận, làm tròn bổn phận, thanh tịnh mà lại nhân hậu; Bạch Long Mã tuy không miêu tả nhiều, nhưng cũng lại là một hình tượng âm thầm lặng lẽ, chỉ tiến về phía trước, không ngại gian khổ nguy hiểm.
2. Ngũ Hành Sơn, Lưỡng Giới Sơn và sự hạn chế thần thông của Tôn Ngộ Không
Tôn Ngộ Không bị Phật Như Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn còn có một ẩn ý, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho sự tu luyện Đại Đạo cũng đã hoàn thành quá trình tu luyện của mình (cùng Bồ Đề Tổ Sư) rồi. Theo Phật gia giảng, thì Tôn Ngộ Không đã “minh tâm kiến tính rồi” (tâm đã sáng tỏ, đã thấy được bản tính thật sự của mình); đương nhiên, sau khi “minh tâm kiến tính” chính là “kiến tính thành Phật” (thấy rõ được bản tính của mình thì thành Phật), nhưng đây lại không chỉ đơn giản giống như hai câu nói này. Sau khi Tôn Ngộ Không ngộ Đạo, trở về Hoa Quả Sơn tại sao cần phải thanh trừ Hỗn thế ma vương? Tại sao lại phải đại náo Thiên Cung? Ở trong lò Bát Quái tại sao lại còn phải tu luyện thêm nữa? Cho nên mới nói, mặc dù quá trình tu Đạo của Tôn Ngộ Không đã hoàn thành, nhưng vẫn cần phải tiếp tục tu luyện, để ma tính của bản thân (ví như tâm tự kiêu) phải hoàn toàn ma luyện cho mất đi, thì mới có thể chính thức tu luyện thành công được. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn chính là để cho anh ta trải qua ma nạn.
Ngũ hành trong Ngũ Hành Sơn ý nói là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cũng là nói, trước đây Tôn Ngộ Không tượng trưng cho người tu luyện Đại Đạo, hoàn toàn là là từ góc độ của “tâm viên” mà biểu hiện ra quá trình tu luyện của một người. Mà khi cuồng ngạo rồi bị đè dưới Ngũ Hành Sơn rồi, Tôn Ngộ Không cũng giống như bị chôn vùi nơi trần thế. Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi Ngũ Hành Sơn, nhưng không không phải là Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi được nơi trần thế, mà là nói chủ thân thể đã bắt đầu tu luyện, tượng trưng cho cái tâm của Tôn Ngộ Không tự nhiên cũng hợp nhất với chủ nhân mà bắt đầu tu luyện. Trong đó vẫn còn một vấn đề nữa. Rất nhiều người tu Đạo đều hiểu rằng, trước khi một người tu luyện, nói không chừng đời trước của vị ấy, thậm chí đời đời kiếp kiếp vẫn còn đang trong tu luyện, đương nhiên người tu luyện kia, cũng giống với Tôn Ngộ Không ở bảy hồi trước đó, có thể có được những thần thông to lớn. Nhưng một khi người đó chuyển thế, thì ở đoạn thời gian không tu Đạo trước đó, người này giống như đang ngủ, hoàn toàn mê mờ trong người thường. Nếu như bắt đầu tu luyện, phía mặt bản tính của anh ta tỉnh ngộ, thì mới cố thể chân chính tu Đạo. Từ đó quay trở về, có người phải trải qua nhiều lần mới có thể tu luyện viên mãn được. Đường Tăng chính là người tu hành mười đời.
Đương nhiên, khi giới thiệu thế này, đã tiết lộ một vấn đề khác, đó là thần thông của Tôn Ngộ Không; tại sao trước khi đi thỉnh kinh cùng Đường Tăng, Thần tướng đầy khắp trời không làm được gì Tôn Ngộ Không, nhưng khi vừa đi cùng Đường Tăng, vì sao lại có nhiều việc không như ý. Đó chính là vì trước khi đi cùng Đường Tăng, biểu hiện của Tôn Ngộ Không hoàn toàn là tâm tính của một người tu luyện, do đó mới để cái tâm tu luyện biểu hiện ra hết, vậy đương nhiên có thể không có bất kỳ sự hạn chế nào trên trời dưới biển. Nhưng khi đi cùng Đường Tăng, cũng bằng như nhiều hơn một nhục thân, do đó thần thông của Tôn Ngộ Không cũng chịu sự hạn chế. Còn một vấn đề nữa, ma nạn trên đường đi thỉnh kinh, bề ngoài thì trông giống như nhắm vào Đường Tăng, nhưng trong tình huống tâm chấp trước của Đường Tăng chưa vứt bỏ, bản sự của Tôn Ngộ Không có lớn đến mấy cũng không thể thi triển ra được. Giống như trận chiến giữa Tôn Ngộ Không và Hồng Hài Nhi, Hồng Hài Nhi là tượng trưng cho tâm hỏa quá vượng của Đường Tăng, cũng có thuộc tính của tâm, thậm chí có thể nói là một bộ phận của tâm. Bởi vì Tôn Ngộ Không tượng trưng cho tâm nên làm sao một gậy có thể đánh chết được Hồng Hài Nhi? Bởi vậy phải đợi mời Bồ Tát đến, sau khi trừ bỏ tâm hỏa, thì tâm mới có thể quy chính được.
Ngũ Hành Sơn vì sao lại đổi thành Lưỡng Giới Sơn? Biểu hiện là giới tuyến quốc gia, nhưng thực chất là giới tuyến trước và sau của một người tu luyện.
3. Tám mươi mốt nạn từ đâu đến
Lúc đầu Đường Tăng đi thỉnh kinh, trên đường qua chùa Pháp Môn có nói: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt.” Điều thấy được là tất cả ma nạn đều từ tâm của Đường Tăng mà sinh ra. Cách nói này rất đúng. Chỉ cần có nhân tâm, liền sinh ra ma nạn tương ứng. Ví dụ khi Đường Thái Tông ban cho Đường Tăng hai tùy tùng và ngựa, Đường Tăng rất vui mừng. Điều này lộ rõ một loại tâm ỷ lại, do đó, mãi vẫn loay hoay không ra được biên giới quốc gia, hai người tùy tùng kia liền bị bò tinh, gấu tinh, và hổ tinh ăn thịt. Cần biết rằng, khi qua chùa Pháp Môn ông có nói, “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt”, khi ấy hai người tùy tùng liền cùng đi cùng Đường Tăng. Cũng chính là nói, một người nếu tu luyện sẽ có rất nhiều tâm về căn bản không ý thức được. Tu luyện vốn là việc cá nhân, chỉ có thể hướng nội mà tu cái tâm của bản thân, làm sao có thể ỷ lại vào người khác đây?
Bởi vì Đường Tăng bắt đầu tu luyện từ người thường, ông không giống với những đồ đệ của mình, dù cho Ngộ Không có nói với ông là ma đang cản trở, ông cũng không tin. Ma tính của người ta ẩn giấu rất sâu, có một số ma tính khi sinh ra đã có rồi; cũng chính là nói, chỉ cần làm người, trước khi tu luyện đắc Đạo, thì đều có các loại ma tính. Ví dụ, khi Tôn Ngộ Không giết Bạch Cốt Tinh, Bạch Cốt Tinh lần lượt biến thành mỹ nữ, bà lão, ông lão, Đường Tăng làm sao biết được? Tuy nhiên Bạch Cốt Tinh này thì trong mỗi người đều có, gọi là “thây ma”. Đạo gia cho rằng, mỗi người đều có ba cái thây ma, cho nên mới có việc Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh.
Trong hồi thứ 50, Tôn Ngộ Không đi xin đồ ăn chay, người ta không cho, Tôn Ngộ Không liền múc trộm một bát cơm. Mà ở bên này, Bát Giới, Sa Tăng trong một nơi người ta bỏ hoang nhìn thấy áo lót bằng bông, hai người lấy mỗi người một cái, kết quả dẫn đến ma nạn, con yêu ma này lại lấy trộm cái Kim Cương Trác của Thái Thượng Lão Quân xuống nhân gian tác quái.
Ví dụ tiếp là Ngưu Ma Vương, có vợ có con, có bạn có bè, những yêu ma này từ đâu mà đến? Tôn Ngộ Không nói rất rõ ràng: “Tự đáo Tây phương vô đối đầu, Ngưu Vương bản thị tâm viên biến. Kim phiên chính hảo hội nguyên lưu, Đoạn yếu tương trì tá ngọc phiến.” Ngưu Ma Vương sao lại là do tâm của Ngộ Không biến hóa? Điều này không thể lý giải ở bề mặt được, ý nghĩa là Đường Tăng có tâm chấp trước, trong tâm tự nhiên liền sinh ra một con yêu ma như vậy. Vậy thì, Thiết Phiến công chúa, Hồng Hài Nhi, Như Ý chân tiên chẳng phải là do sự biến hóa của tâm viên sao?
Có tâm chấp trước nào thì chiêu mời ma nạn đúng như thế. Đường Tăng làm sư phụ, đây là một cái tâm. Tại nước Ô Kê, Sư Tử lông xanh bị dồn ép đến nỗi rất lo lắng, cũng biến thành một Đường Tăng. Ở huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng mỗi người nhận một hoàng tử để truyền thụ võ nghệ, kết quả cái tâm thích làm sư phụ của người khác lại dẫn họ đến một hang của Sư Tử.
Có những tâm chấp trước ẩn giấu rất sâu, người tu luyện thật không dễ mà phát giác được. Ví dụ, thầy trò Đường Tăng đi đến nước Thiên Trúc, Đường Tăng nghe nói công chúa nước Thiên Trúc đang ném tú cầu kén phò mã, liền nói với Ngộ Không: “Ta nghĩ người mẹ tục gia của ta cũng là nhờ ném tú cầu kén chồng mà gặp được duyên cũ, kết thành vợ chồng.” Điều này giống như một câu nói vô tình nhưng cũng là một chấp trước, kết quả đã chiêu mời ma nạn đến.
Đương nhiên những nạn này là tất nhiên phải xảy ra, cũng có thể nói là định sẵn rồi. Phần cuối “Tây Du Ký” viết về ba con tê giác tinh sau khi bắt Đường Tăng đi, Tôn Ngộ Không từng nói với vị hòa thượng, “sư phụ ta phải có những nạn này”. Hồi thứ 97, bốn thầy trò bị hiểu lầm nhốt vào trong ngục, Tôn Ngộ Không nghĩ: “Sư phụ phải có nạn một đêm trong tù này, cho nên lão Tôn không mở miệng tranh biện, không dùng pháp lực, bịt tai này lại không nghe nữa. Nay đã qua hết canh tư, tai nạn sắp hết, ta phải đi chuẩn bị, trời sáng còn ra khỏi nhà lao nữa.
Đường đi Tây Thiên ma nạn trùng trùng, cớ sao thầy trò Đường Tăng không chọn đi con đường khác? Khi gặp Hỏa Diệm Sơn cản đường đi của Đường Tăng, Bát Giới từng oán trách nói muốn quay trở về nhà vợ cho rồi. Nhưng Thổ Địa lại nói: “Dù có chuyển hướng đi, thì cũng phải vào cửa bên cạnh.” Lại nói, “Sư phụ ngài ngồi ngay ở đường chính, nóng lòng mong chờ các ngài thành công trở lại!
Bao gồm cả nạn bổ sung thứ 81, trở về đi qua sông Thông Thiên, lão rùa hỏi Đường Tăng về việc ông nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai đến khi nào ông mới đắc được thân người, Đường Tăng “không biết nói thế nào, lại không dám lừa dối, trầm ngâm một hồi không đáp lời”, kết quả bị lão rùa hất rơi xuống nước. Trong nạn này, biểu hiện của Đường Tăng chính là cái tâm hư danh đang nổi lên. Việc này cùng với lời nói của Đường Tăng khi qua sông Thông Thiên năm xưa, “Việc thế gian duy có danh lợi là coi trong nhất. Tựa như một người vì lợi, quên cả sống chết, đệ tử của tôi phụng chỉ toàn trung, cũng chỉ là vì danh, thì có khác gì với người kia chứ!” lại hoàn toàn khớp.
Tại sao lại có biết bao nhiêu yêu ma muốn ăn thịt Đường Tăng? Từ đây chúng ta có thể nhìn ra, bản thân sự tồn tại của yêu ma, khi một người không tu luyện, nó nằm ở trong thân thể người đó, sau khi người đó chết đi, nó liền rời khỏi thi thể người đó. Những ma này chính là khởi tác dụng này. Cho nên, “bệnh” cũng là ma, “chết” cũng là ma, ma tính của chính bản thân chính là ma. Tuy nhiên khi người ta muốn tu luyện một cách chân chính, thì cần phải trừ bỏ những ma chướng này, đương nhiên ma sẽ không chịu để nó bị tiêu trừ. Nó cũng biết, con người nếu tu luyện thành Thần Phật, thì thân thể người đó sẽ vĩnh viễn là thân thể bất hoại. Trong quá trình nhục thân của người thường chuyển hóa thành thân thể của Thần Phật thì bản thân ma tính cũng không chịu để yên, cho nên nó liều mạng ngăn cản người ta tu luyện. Khi thân thể con người chuyển hóa như vậy, những yêu ma kia lại không thật sự nghĩ để cho thân thể người chuyển hóa thành thân thể của Thần rồi mới ăn hay sao? Chúng ăn không được, bởi vì sau khi chuyển hóa xong thì đã là thân thể kim cương bất hoại rồi, yêu ma không thể động tới được, đây cũng là nguyên nhân Đường Tăng không bị ăn thịt. Thân thể trước lúc tu luyện chỉ là thân thể người thường, đó cũng là nơi mà yêu ma sống nhờ; thân thể sau khi tu luyện tốt đã được phong kín lại rồi. Đây là hiểu biết thông thường trong giới tu luyện.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128189
Ngày đăng: 03-04-2014

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thử giải “Tây Du Ký” (3)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
4. Luân hồi và nhân quả

Đường Tăng tu hành mười kiếp, đương nhiên là trong luân hồi chuyển sinh thành người mười lần để tu hành. Đường Thái Tông sau khi từ địa phủ trở về, ông thấy được con người đều có sinh tử luân hồi. Đường Thái Tông khi ở địa phủ còn đến nơi gọi là “Lục đạo luân hồi”, trong truyện nói về lục đạo luân hồi như sau: “Người hành thiện được thăng hoa lên Tiên đạo, người tận trung siêu sinh vào Quý đạo, người có hiếu tái sinh vào Phúc đạo, người công bằng vẫn được sinh vào Nhân đạo, người tích đức chuyển sinh vào Phú đạo, kẻ ác độc phải vào Quỷ đạo”.
Nói về luân hồi, ắt phải bàn về nhân quả, các ví dụ về phương diện này trong truyện có rất nhiều. Đường Tăng vì khinh mạn Phật Pháp, nên phải trải qua tu hành mười kiếp. Trong hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư” có nói rằng, bởi vì Đường Tăng không nghe Phật giảng Pháp mà lại ngủ gật, nên lỡ chân dẫm phải một hạt gạo, do đó mới bị ốm ba ngày. Tôn Ngộ Không năm xưa nhảy từ lò Bát Quái ra, đạp đổ lò luyện đan, những mảnh vỡ vẫn còn dư hỏa rơi xuống hạ giới biến thành Hỏa Diệm Sơn.
Thầy trò Đường Tăng gặp trở ngại ở nước Ô Kê, vua nước Ô Kê nhờ làm việc thiện bố thí đồ ăn chay cho tăng nhân nên Phật tổ Như Lai phái Văn Thù Bồ Tát độ ông về Tây. Bồ Tát liền biến thành một tăng nhân, nói vài câu để khảo nghiêm ông, nhưng lại bị ông trói lại, bị ngâm ba ngày ba đêm trong sông Ngự Thủy. Cho nên mới có nạn quốc vương nước Ô Kê ở dưới nước ba năm. Quận Phượng Tiên nước Thiên Trúc, ba năm không có mưa, người dân phải bán cả con cái đi, cuộc sống cùng cực không biết nói sao. Nguyên nhân là do quận hầu của quận Phượng Tiên đem đồ chay cúng Trời đổ cho chó ăn, bị Ngọc Đế nhìn thấy, Ngài lập ra một ngọn núi gạo cao 10 trượng, để cho một con gà mổ từng hạt; một núi bột cao 20 trượng, để cho một con chó nhỏ liếm từng chút một; treo một cái khóa vàng, dùng một ngọn lửa đốt cái chốt khóa. Đợi đến khi gà nhặt hết gạo, chó liếm hết bột, đèn đốt đứt chốt khóa, mới cho phép có mưa. Sau này, Thiên Sư nói với Ngộ Không cách thiện giải, vị quận hầu kia một mặt quy y Phật môn; một mặt mời các thầy tu bản xứ lập đàn làm chay đốt hương kính Phật, tạ ơn trời đất, tự mình chịu trách nhiệm vì đã gây ra tội; mặt khác lại bảo người dân đốt hương niệm phật. Chỉ một niệm như thế, mà làm cho núi gạo núi bột đều biến mất và chốt khóa cũng đứt, và quận Phượng Tiên đã có mưa lớn.
5. Tu luyện và bệnh tật
Tôn giáo hiện đại đã sớm loạn từ lâu rồi, dùng nhận thức của bản thân mà giải thích loạn kinh Phật. Có những người sống ở thế gian nhất tâm hướng Đạo, từ lâu cũng không biết không cảm thấy rằng đã tự trộn lẫn bản thân mình vào trong người thường rồi. Ví như nói về cứu độ chúng sinh, vốn là để cho người ta tu luyện, từ đó mà đạt được sự giải thoát của sinh mệnh. Nhưng có nhiều người lại coi việc trị bệnh cho người khác là cứu độ chúng sinh. Một ví dụ nữa đó là thái độ đối với bệnh tật, người thường có bệnh đương nhiên cần phải uống thuốc, nhưng là một người tu luyện, chính là người vượt khỏi người thường rồi. Về việc người tu luyện đối đãi như thế nào với bệnh tật, trong “Tây Du Ký” đã nói rất rõ ràng.
Hồi thứ 21 “Hộ Pháp thiết trang lưu Đại Thánh, Tu Di linh cát định phong ma”, Tôn Ngộ Không bị chuột lông vàng Hoàng Phong thổi gió làm cho đau mắt, nước mắt cứ chảy ra; khi nhìn thấy người do Già Lam hộ Pháp hóa thành, lúc xin thuốc trị mắt Ngộ Không còn nói: “Không giấu chi ngài, thầy tôi bảo rằng, người xuất gia chúng ta trước giờ không có bệnh, không biết sao lại đau mắt.
Hồi thứ 55 “Sắc tà dâm hí Đường Tam Tạng, Tính chính tu trì bất hoại thân”, Bát Giới bị con bọ cạp chích độc, Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến hàng yêu. Trư Bát Giới nói với Tinh Quân: “Thứ lỗi thứ lỗi! Thân tôi mắc bệnh, không thể hành lễ.” Tinh Quân nói: “Ngài là người tu hành, mắc bệnh gì chứ?”
Hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư”, Đường Tăng cảm thấy “hoa mắt đầu choáng váng, xương cốt toàn thân đau nhức”. Ngộ Không hỏi Đường Tăng bị sao, ông nói: “Lúc nửa đêm, ta dậy đi tiểu quên không đội mũ, chắc là bị trúng gió.” Trong ba ngày đó, Đường Tăng cảm thấy bệnh tình càng ngày càng nặng, muốn viết “di thư” cho vua Đường. Tôn Ngộ Không nói ra căn nguyên của bệnh: “Chỉ vì sư phụ khinh mạn Phật Pháp, nên mới có đại nạn này.” Ba ngày sau, Đường Tăng không còn chứng bệnh gì nữa.
Ba ví dụ kể trên đã nói rõ một vấn đề, đó chính là người chân chính tu luyện thì không có bệnh. Dẫu có xuất hiện những cái gọi là “chứng bệnh” gì đi nữa, đối với người tu luyện mà nói, thì hoặc là để hoàn trả tội nghiệp, hoặc là do sư phụ an bài để khảo nghiệm sự kiên định đối với tu luyện. Nhưng một số người thường không tu luyện lại không hiểu được việc người tu luyện có biểu hiện của bệnh mà không uống thuốc. Thực ra đây chẳng phải cũng là một khảo nghiệm hay sao? Người cổ đại có một kiểu nhận thức tương đối chính diện đối với việc tu luyện, nhưng ngày nay trong môi trường như thế này, người ta không cách nào lý giải được người tu luyện không uống thuốc. Thậm chí một số phương tiện truyền thông bị chính phủ thao túng lại càng tuyên truyền vu cáo một cách không có trách nhiệm. Cho nên với con người ngày nay, đặc biệt là người tu luyện trong thế tục, những khảo nghiệm gặp phải lại càng nhiều càng khó.
6. Thiện ác nhất niệm, Phật ở trong tâm
Khi Tôn Ngộ Không nhảy ra từ lò Bát Quái và xảy ra cuộc đại chiến với chúng thần, trong “Tây Du Ký” miêu tả Ngộ Không như thế này: “Có thể thiện, cũng có thể ác, thiện ác trước mắt do mình gây ra. Khi thiện thành Phật thành Tiên, chỗ ác không lông cũng cắm sừng”. Khi Ngộ Không hướng thiện, tiêu dao tự tại ở Thiên Cung, được các thần xưng huynh gọi đệ, chính là một tản tiên; khi làm việc ác, thú tính bộc lộ ra hết, rất ngông cuồng ngạo mạn, chính là một con khỉ hung ác.
Trước khi Quan Âm Bồ Tát phụng pháp chỉ của Phật Như Lai tìm người đi thỉnh kinh, Phật Như Lai đưa cho Bồ Tát ba cái vòng và nói: “Bảo vật này gọi là “Khẩn cô nhi” (vòng dùng lúc khẩn cấp), mặc dù là ba cái giống nhau, nhưng cách dùng khác nhau. Ta có ba bài chú ngữ của “Kim, khẩn, cấm”. Nếu như trên đường gặp phải yêu ma thần thông quảng đại, con phải khuyên nó học hỏi điều tốt, làm đệ tử người đi thỉnh kinh. Nếu nó không nghe, có thể đeo cái vòng này lên đầu nó. Vòng này tự sẽ bám chặt vào đầu. Kẻ bị niệm chú ngữ, mắt sưng, đầu đau như muốn nứt ra. Để quản giáo nó bước vào Phật môn.” Trong ba chiếc vòng này thì một cái ở trên đầu Tôn Ngộ Không, nhìn thấy rất rõ, chính là để Tôn Ngộ Không nghe lời Đường Tăng. Bởi vì Ngộ Không tượng trưng cho tâm của Đường Tăng, nên phải quản chắc cái tâm của mình mới được, do đó Ngộ Không đeo một cái “Khẩn cô nhi”. Khi Bồ Tát thu phục Hắc Hùng Tinh (gấu tinh màu đen), Ngài đeo lên đầu nó lại là một cái “Cấm cô nhi”. Câu chuyện thu phục gấu tinh được ví như người tu luyện cần phải giữ gìn ‘chân tinh nguyên khí’ của chính mình. Trong ngũ hành, màu sắc mà thận tạng đối ứng là màu đen, tinh dịch tồn tại ở thận của con người, dùng Hắc Hùng Tinh để chỉ tinh dịch của người tu luyện, cho nên cần phải “cấm”. Trước khi thu phục Hắc Hùng Tinh, Bồ Tát đã biến thành một yêu quái, Ngộ Không nhìn thấy liền nói: “Tuyệt quá! Tuyệt quá! Là yêu tinh Bồ Tát hay Bồ Tát yêu tinh đây?” Bồ Tát cười nói: “Ngộ Không, Bồ Tát hay yêu tinh, âu chỉ là một niệm. Nếu luận về nguồn gốc, thì đều thuộc về không có.”
Bồ Tát nói rõ rằng, Bồ Tát và yêu tinh chỉ sai biệt ở một niệm. Đối với người tu luyện mà nói, chính là khiến những tà niệm vọng niệm bất chính, bất hảo từ bản chất mà biến thành thiện niệm, chính là tu bỏ từng niệm từng niệm, thì người tu luyện tự nhiên sẽ tu thành chính quả. Như vậy, từ khía cạnh này mà nói, Bồ Tát cũng chính là thể hiện của tiên thiên chính giác khi Ngộ Không hướng tâm tu. Do đó, Hắc Hùng Tinh bị Bồ Tát thu phục mang đi, đó chỉ là thủ pháp nghệ thuật tượng trưng của tác giả, thực ra là chỉ rằng Đường Tăng đã đạt đến cảnh giới “cấm dục”. Khi Bồ Tát thu phục Hồng Hài Nhi, chiếc vòng cuối cùng Ngài dùng là “Kim cô nhi”. Hồng Hài Nhi được ví von là hình tượng hóa cho tâm hỏa quá vượng của Tôn Ngộ Không. Thầy trò Đường Tăng muốn qua được quan này, đương nhiên cần phải dập tắt tâm hỏa. Trong truyện khi nói về Tôn Ngộ Không có dùng từ “kim công”, cũng là dùng để chỉ cái tâm, bởi vì tâm thuộc tính hỏa, hỏa khắc kim, Hồng Hài Nhi cũng nhiều lần dùng lửa thiêu Tôn Ngộ Không. Từ góc độ khác mà nói, Hồng Hài Nhi cũng lại là thể hiện của “xích tử chi tâm”, tu luyện Đạo gia giảng rằng tu luyện “phục quy vu anh nhi” (quay trở về hình hài trẻ sơ sinh), một khi anh nhi bị thu phục, cũng chính là chỉ tâm hư hỏa (lửa giả) đã tu bỏ đi rồi, mà một bộ phần tâm tu thành cũng đã là “kim thân bất hoại” rồi, cho nên “Kim cô nhi” mới được đeo trên đầu của Hồng Hài Nhi. Rõ ràng Hắc Hùng Tinh, Hồng Hài Nhi đều đi theo Bồ Tát, thực ra đều ở trên thân của Đường Tăng. Hắc Hùng Tinh ở sau núi Lạc Già, chỗ này là chỉ mặt lưng thận tạng của thân thể người, Hồng Hài Nhi theo gót Bồ Tát, chính là chỉ trong tâm của Đường Tăng.
Chương nói về Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi núi Ngũ Hành Sơn, phần mở đầu viết rằng “Phật tức tâm hề tâm tức Phật”; trong hồi thứ 85 “Tâm viên đố mộc mẫu, Ma chủ kế thôn thiền”, Ngộ Không nói với Đường Tăng: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp, Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.” (Phật tại Linh Sơn không cầu đâu xa, Linh Sơn chính ở trong tâm của thầy. Mỗi người đều có một tháp Linh Sơn, Hướng vào tháp Linh Sơn ấy mà tu). Đường Tăng nói: “Đệ tử, sao ta không biết? Nếu dựa vào bốn câu này, thiên kinh vạn điển, cũng chỉ là tu tâm.” Cho nên từ góc độ này mà nói, Linh Sơn và Linh Đài Phương Thốn sơn có gì khác biệt? Phật Như Lai ở Linh Sơn xa xôi, lại nằm ngay tại trong tâm của chính bản thân mình. Đường Tăng trải qua mười vạn tám ngàn dặm, một cân đẩu vân của Ngộ Không cũng là mười vạn tám ngàn dặm. Với Tôn Ngộ Không mà nói việc đến Linh Sơn cũng chỉ là một niệm. Trong truyện cũng có câu: “Nếu có thể một niệm hợp với chân tu, diệt tận biết bao tội nghiệp dơ bẩn; còn có một niệm thiện từ, làm chấn động trời cao; trở về trời chỉ giống như một niệm.”
Là một tác phẩm văn học mà nói, chỉ có viết dài dòng như thế này thì mới có thể triển hiện ra quá trình cùng sự tuyệt vời sinh động của tu luyện. Tôn Ngộ Không tranh đấu với Lục Nhĩ Mi Hầu (khỉ sáu tai), thực ra chính là chân ngã và giả ngã đấu tranh với nhau. Bản tính tiên thiên đó là tự kỷ thuần chính, nhưng con người nơi trần thế hình thành các loại quan niệm và cảm thụ, nó cấu thành tự kỷ, nhưng được gọi là tự kỷ hậu thiên. Đối với một việc tốt và xấu, người ta thường cân nhắc đắn đo, đây cũng là quá trình tự kỷ tiên thiên và tự kỷ hậu thiên đang thuyết phục nhau. Với người mà quan niệm hậu thiên quá mạnh, người đó đã hoàn toàn bị quan niệm hậu thiên che đậy rồi, cũng chính là đã đánh mất tự kỷ hậu thiên rồi, loại người này về cơ bản không tin vào tu luyện. Người ta trong quá trình tu luyện chính là phải trừ bỏ tất cả những quan niêm hậu thiên hình thành. Nhưng có khi quan niêm hậu thiên lại ngoan cố chiếm cứ tư tưởng của người đó. Chỉ khi nào bản thân hoàn toàn tĩnh lặng lại, bản tính tiên thiên mới có thể trừ bỏ quan niệm hậu thiên. Cho nên Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không đại chiến tới mức không phân được thật giả, chỉ có thể dưới sự giám chiếu của bản tính đại giác mới có thể phân biệt ra được. Lúc này Phật Như Lai xuất hiện, cũng có thể coi là sự thể hiện chân thực Phật tính của Tôn Ngộ Không.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128190
Ngày đăng: 10-04-2014

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thử giải “Tây Du Ký” (4)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
7. Sự an bài các ma nạn và nguyên do

Thầy trò Đường Tăng trải qua 81 nạn mới đến được Tây Thiên. Sự an bài những ma nạn này nhìn bề ngoài là đi qua những nơi nào đó, gặp phải những ma nạn như thế nào đó, nhưng các an bài này lại đều không phải là không có căn cứ, mà là căn cứ vào sự tu luyện của con người và việc tu luyện tâm tính mà an bài. Những nơi đi qua và các ma nạn gặp phải đều có liên quan đến tâm tính của bản thân và nội tạng hoặc huyệt vị của thân thể. Lấy một vài ví dụ từ khi Tôn Ngộ Không quy thuận Đường Tăng trở về sau thì có thể thấy được rất rõ ràng.
Ngộ Không thuộc tâm, một khi tâm quy chính, tự nhiên sẽ cần phải thanh trừ lục căn, cho nên mới gọi là “lục căn thanh tịnh”. Lục căn trong Phật giáo là chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong truyện lần lượt dùng tên của sáu tên cướp (lục tặc) để hình dung lục căn, đó là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn). Ngộ Không đánh chết sáu tên cướp này, thực ra là miêu tả hình tượng hóa về cách làm cho lục căn được thanh tịnh.
Ngộ Không làm “tâm viên” đương nhiên phải chịu sự quản thúc của chủ nguyên thần là Đường Tăng, cho nên Đường Tăng mới được Bồ Tát truyền thụ cho “Khẩn cô nhi chú” (thần chú xiết chặt), “Khẩn cô nhi chú” này cũng được gọi là “Định tâm chân ngôn”, hiển nhiên là nhắm vào Tôn Ngộ Không. Khóa chắc được tâm viên rồi, tiếp theo là thu phục Bạch Long Mã. Đề mục của hồi này có câu “Ý mã thu cương”. Khóa chắc được tâm thì cũng là nắm được ý rồi, chính là “tỏa tâm viên thuyên ý mã” (khóa tâm vượn, buộc ý ngựa). Ý chịu sự quản thúc của tâm, Tôn Ngộ Không trước kia xuất thân là chức quản mã (Bật Mã Ôn), tâm ý tương hợp, tự nhiên như một.
Sau khi tâm ý tương hợp, cả Tôn Ngộ Không và Bạch Long Mã cùng chủ nhân (Đường Tăng) đi Tây Thiên thỉnh kinh, cũng là bắt đầu chân chính tu luyện. Vậy thì lúc này điều phải làm được là cấm dục, đây cũng là dụng ý của việc đeo “Cấm cô chú” (thần chú vòng cấm) cho Hắc Hùng Tinh. Cấm được dục rồi, đương nhiên phải thu phục việc tham luyến mỹ sắc của Trư Bát Giới. Người ta khi chiểu theo giới luật mà tu luyện, thì tâm tính tự nhiên sẽ được nâng cao, khi này Đường Tăng cũng đã đến lúc chiểu theo điều cốt lõi trong kinh điển Phật giáo, tức “Tâm Kinh” mà tu trì bản thân rồi.
Phần trước đã nói, tu luyện trên đường đi thỉnh kinh, rất nhiều đều là dựa vào lý luận tu luyện của Đạo gia. Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đại biểu cho sự hòa hợp của âm dương trong cơ thể, là không rời khỏi tác dụng của tì tạng, Sa Hòa Thượng chính là khởi tác dụng của tì tạng. Bởi vì tì (lá lách) trong ngũ hành thuộc về thổ, màu sắc là màu vàng, thêm nữa Sa Hòa Thượng về thuộc tính lại là nhân hậu và hài hòa, ông còn được gọi là ‘hoàng bà’, tức có ý là ‘người mai mối’. Trước khi thu phục Sa Hòa Thượng, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hợp tác cùng đại chiến với Hoàng Phong quái, bởi vì ‘kim công’ và ‘mộc mẫu’ thiếu mất sự điều hòa của ‘hoàng bà’, nên mới có trận đại chiến với Hoàng Phong quái. Yêu quái Hoàng Phong bị thu phục rồi, cũng là đến lúc thu phục Sa Hòa Thượng.
Thầy trò Đường Tăng và Bạch Long Mã, năm vị tập hợp đầy đủ rồi, thì bắt đầu quan khảo nghiệm đầu tiên của việc chân chính tu luyện, cũng là khảo nghiệm về tâm sắc dục, đây chính là nguồn gốc của “Tứ thánh thí thiện tâm” (thử thiện tâm của bốn vị thánh tăng). Quan ải này qua rồi, ngũ tạng của thân thể cũng tự nhiên an định yên ổn; đối với người tu luyện mà nói, tại tầng thứ này đã bắt đầu xuất nguyên anh. “Ngũ Trang” trong “Ngũ Trang quán” thực chất là chỉ ngũ tạng trong thân thể người. Quả nhân sâm có hình dáng giống như đứa trẻ, chính là nói về nguyên anh. Bởi vì nguyên anh được sinh ra ở bộ vị đan điền khi người ta tu luyện đến một tầng thứ nhất định, là thứ thuộc về tiên thiên, cho nên nói rằng thuộc tính của nguyên anh và ngũ hành là thuộc tính tương úy (thuật ngữ trong Trung y, chỉ độc tố hoặc tác dụng phụ của một vị thuốc có thể hạ thấp hoặc loại bỏ bởi một vị thuốc khác).
Trong Phật gia nguyên anh được gọi là Phật thể, cũng được gọi là thân kim cương bất hoại. Sau khi nguyên anh được sinh ra, tự nhiên cần phải thanh trừ thây ma trên người, đó chính là chương tiết nói về ba lần đánh chết Bạch Cốt Tinh.
Ở trên nói về những lý luận trong tu luyện của Phật gia, những lý luận của Đạo gia còn có nhiều hơn. Đạo gia tu luyện giảng về thông chu thiên, chu thiên của Đạo gia cũng được gọi là “hà xa chu thiên” (chạy xe vòng quanh sông), trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện (chẳng hạn đoạn nói về đấu phép tại Xa Trì quốc). Khi Ngộ Không đến Nam Hải mời Bồ Tát đi hàng phục Hồng Hài Nhi, Ô Quy hành lễ với Bồ Tát, Bồ Tát nói không cho Thiện Tài Long Nữ và Ngộ Không cầm bình tịnh thủy đi cùng nhau, bởi vì Long Nữ tướng mạo xinh đẹp, Bồ Tát sợ Ngộ Không khởi tà niệm, Ngộ Không nói: “Từ trước đến nay không làm việc như vậy”. Sau đó Bồ Tát cho Ngộ Không đi trước, Ngộ Không nói: “Đệ tử không dám trổ tài trước mặt Bồ Tát. Nếu lộn cân đầu vân, lộ ra thân thể, sợ Bồ Tát mắng con bất kính.” Những lời này làm cho người đọc không nhịn được cười, nhưng lại ẩn chứa thời gian thông chu thiên, hiện tượng dương khởi khi chân khí đi qua âm bộ. Đồng thời cũng thuyết minh rằng, chỗ Bồ Tát ở chỉ có Thiện Tài Long Nữ, để lại “phục bút” cho việc thu Hồng Hài Nhi làm Thiện Tài Đồng Tử sau này.
Tiếp theo là bắt Đà Long tại sông Hắc Thủy, chính là nói về quá trình nguyên khí đi qua mệnh môn. Bởi vì màu sắc đối ứng với thận tạng trong ngũ hành là màu đen, mệnh môn ở giữa hai thận, thầy trò Đường Tăng đi qua sông Hắc Thủy cũng chính là đi qua huyệt mệnh môn. Do mạch đốc thuộc dương, khí hậu được miêu tả trong truyện cũng là “tam dương chuyển vận, mãn thiên minh mị khai đồ họa”(ba mạch dương vận chuyển, khắp trời mở ra đẹp đẽ như tranh vẽ). Tiếp theo là qua quan giáp tích. Vị trí của giáp tích là ở phía lưng hai bên cột sống, từ mỏm gai đốt sống cổ thứ nhất đến mỏm gai đốt sống lưng thứ năm, mỗi mỏm gai đều sang hai bên khoảng một đốt ngón tay. Trong truyện dùng ‘tiểu lộ’ (con đường nhỏ) để ví về huyệt giáp tích, nói rằng tiểu lộ nằm ở giữa hai cửa ải lớn, đường ở dưới ải đều là dốc thẳng đứng, 500 vị hòa thượng không kéo được chiếc xe chở đầy ngói qua. Tôn Ngộ Không dùng thần thông, kéo chiếc xe qua hai cửa ải, xuyên qua huyệt giáp tích.
Khi qua quan này, ba con yêu quái Hổ Lực Đại Vương, Lộc Lực Đại Vương và Dương Lực Đại Vương đấu phép thuật cùng Tôn Ngô Không và bị diệt trừ, điều này nói lên ý nghĩa thực sự, đó là: khi chu thiên vận hành qua huyệt giáp tích, không thể dùng ngoại lực, dùng ý quá nhanh, quá mạnh, quá yếu đều không được, mà chỉ căn cứ một niệm của bản tính, tự nhiên sẽ qua. Nếu không sẽ nhập sang bàng môn.
Qua được huyệt giáp tích, theo đường đi của chu thiên thì sẽ tiếp tục đi lên, trong truyện miêu tả là đến sông Thông Thiên. Sông Thông Thiên ý nói là huyệt bách hội trên đỉnh đầu, tả về sông Thông Thiên trong truyện có câu thơ “Trường lưu quán bách xuyên” (dòng chảy dài thông suốt trăm con sông), mà huyệt bách hội trên thân thể chính là nơi kinh mạch giao hội, huyệt vị này lại nằm ở ngay trên đỉnh đầu, có thể nói đây là nơi tương thông với trời. Nê Hoàn Cung lại là nơi đối ứng với huyêt bách hội trong đại não, cũng chính là nơi chủ nguyên thần trú ngụ, tên của yêu quái kia là “Linh Cảm Đại Vương” cũng đã nói rõ hơn về điểm này. Đến sông Thông Thiên, thì con đường thỉnh kinh đi được một nửa rồi, tức là đã đi được năm vạn bốn nghìn dặm. Nơi này lại chính là đỉnh đầu của con người, cũng chính là điểm giao hội của hai mạch nhâm và đốc. Bên bờ sông Thông Thiên có Trần Gia trang, có anh em Trần Trừng và Trần Thanh; Trần Trừng có một cô con gái tám tuổi tên Nhất Xứng Kim; Trần Thanh có một cậu con trai bảy tuổi tên là Trần Quan Bảo. Thầy trò Đường Tăng cứu được cũng chính là đôi trai gái này. Đương nhiên, đây cũng là một cách ví von, một nam một nữ này chính là chỉ “anh nhi sá nữ phối âm dương”. Trương Tam Phong từng có câu: “Hoàng bà dẫn khứ anh nhi, thượng nê hoàn, thấu huyền quan, anh nhi sá nữ lưỡng đoàn viên”. Còn có người nói: “Huyệt giáp tích trên thân người, ví như sông Ngân trên trời. Sông Ngân ngăn cách nhưng lại có Linh Thước làm cầu, còn có cách nói là bắc cầu Hỉ Thước. Lưỡi của người cũng gọi là cầu Hỉ Thước. Phàm khi tạo đan, thì lấy hoàng bà dẫn nguyên anh lên nê hoàn, cùng sá nữ giao hội, nên cũng nói là lên cầu Hỉ Thước.”
Khi qua quan này, có chương tiết nói về Linh Cảm Đại Vương dùng thần thông làm tuyết rơi đông cứng sông Thông Thiên. Trong “Cửu chuyển kim đan tu luyện pháp”, khi tu luyện đến bước xuất nguyên anh này, trong định sẽ phát hiện vùng nê hoàn cho đến bách hội giống như là khoảng trống hư không, nhưng lại có cảnh tượng nhiều hoa tuyết bay. Trong “Tây Du Ký” nhiều lần nhắc đến tu luyện “Cửu chuyển kim đan thuật”, ví dụ, sau khi Tôn Ngộ Không lấy trộm kim đan của Thái Thượng Lão Quân, Lão Quân nói với Ngọc Đế: “Trong Đạo cung của Thần, luyện được một ít ‘cửu chuyển kim đan’, để Bệ Hạ làm ‘Đan nguyên đại hội’, không ngờ bị kẻ trộm lấy mất.” Ngay cả Trư Bát Giới tự kể lại với Tôn Ngộ Không về kiếp trước của mình cũng nói: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời khuyết”; Tôn Ngộ Không còn nói khoác về Kim Cô bổng của mình: “Bổng thị cửu chuyển tấn thiết luyện, Lão Quân thân thủ lư trung đoàn” (gậy sắt là thép tinh luyện qua chín lần, do đích thân Lão Quân luyện trong lò). Cuối cùng một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng cũng là tại sông Thông Thiên, có câu thơ như sau: “Bỉnh chứng tam thừa túy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhâm chu toàn”.
Qua được sông Thông Thiên rồi, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng vì tâm trộm cắp nên mới dẫn đến tai họa. Yêu quái là con trâu xanh của Lão Quân đã trộm Kim Cương trác của ông rồi xuống nhân gian tác quái. Kim Cương trác này cũng là vật Thiên Linh Cái năm xưa Lão Quân dùng để đánh Ngộ Không; vật này xuất hiện ở đây, chính là ý nói chu thiên cần phải thông qua đỉnh đầu rồi.
Độc giả khi đọc đến đoạn Tôn Ngộ Không đại náo Thiên Cung đều biết, Thần tướng khắp trời nhưng không làm gì được Ngộ Không, đó là biểu hiện hình tượng hóa một người khi tu luyện đến bộ phận đầu, tại vị trí này cần thông khiếu quá quan (thông huyệt vị). Ví dụ “Minh Thiên cổ” (đánh trống trời) trong tu luyện truyền thống, chính là dùng hai tay bịt kín hai tai lại, ngón tay đặt tại huyệt ngọc chẩm gõ nhẹ; mà Lôi phủ trong Thiên Cung chính là chỉ mũi người. Nơi ở “cung Đâu Suất” của Thái Thượng Lão Quân là ở bên trên ba mươi ba tầng trời. Khi xưa Tôn Ngộ Không tại nơi đây đã bị đẩy vào lò Bát Quái, về bản chất là chỉ đỉnh đầu của con người. Tê Giác Đại Vương cản trở thầy trò Đường Tăng là do con Thanh Ngưu (trâu xanh) của Thái Thượng Lão Quân biến hóa thành, nơi ở của nó là động Kim Đâu thuộc núi Kim Đâu, có thể coi là tên gọi khác của cung Đâu Suất. Tôn Ngộ Không mời Thiên Vương, Lôi Công, Hỏa Đức, Thủy Bá, gặp Phật Như Lai, mời thập bát La Hán, giống như năm xưa Ngộ Không đại náo Thiên Cung, thực chất là miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành quá quan thông khiếu. Cuối cùng Lão Quân dùng Kim Cương trác xỏ mũi trâu xanh và chế phục được nó, việc này được ví von như khi chu thiên vận hành đến mũi vậy.
Trên đường thỉnh kinh đi qua Tây Lương nữ quốc, bởi vì Đường Tăng và Bát Giới đã uống nước sông Tử Mẫu mà có thai khí, đây là chỉ trong tu luyện đã nhập bàng môn. Đường Tăng và Bát Giới trong ngũ hành đều thuộc tính thủy, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘hống’ (thủy ngân), Tôn Ngộ Không là “kim công”, thuật ngữ trong tu luyện cũng gọi là ‘diên’ (chì). “Chân diên hợp chân hống” (chì tinh khiết kết hợp với thủy ngân tinh khiết), tự nhiên sẽ sinh ra tiên đan. Nhưng Đường Tăng và Bát Giới lại uống nước, cho nên mới có tà thai. Có tà thai rồi thì làm thế nào? Chính là dùng nước suối Lạc Thai ở động Phá Nhi núi Giải Dương để phá giải. Nước suối này chính là chỉ nước bọt của người, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘kim tân ngọc dịch’. Động Phá Nhi bị Như Ý chân tiên đổi tên thành Tụ Tiên am. Am là nơi cư trú của ni cô, Như Ý chân tiên là thân nam, cớ sao lại đổi tên như vậy? Bởi vì thủy trong Bát Quái có quẻ tượng đối ứng là Khảm (☵) với một hào dương ở giữa hai hào âm, chính là ý nói trong am có một thân thể nam cư trú. Tôn Ngộ Không vì sao không dùng phân thân để chống lại Như Ý chân tiên, để chân thân đi lấy nước? Bởi vì ‘chân diên chân hống’ bắt buộc phải qua sự điều hòa của thổ mẫu, do đó ắt phải là Sa Hòa Thượng đi lấy nước mới giải được tà thai. Trong “Tây Du Ký” có câu thơ viết: “Chân diên nhược luyện tu chân thủy, Chân thủy điều hòa chân hống can. Chân hống chân diên vô mẫu khí, Linh sa linh dược thị tiên đan. Anh nhi uổng kết thành thai tượng, Thổ mẫu thi công bất phí nan. Thôi đảo bàng môn tông chính giáo, Tâm quân đắc ý tiếu dung hoàn.”
Hai nạn theo sau của thầy trò Đường Tăng ở Nữ Nhi quốc xem ra có liên quan đến việc vượt qua quan sắc, đương nhiên đây cũng chỉ là một phương diện, thực chất lại là sự miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành đến bộ vị tâm tạng.
Tình tiết câu chuyện Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu rất hấp dẫn người đọc, nếu đặt trong kết cấu chỉnh thể của “Tây Du Ký” và sự sự an bài việc tu luyện thân thể người, thì đó chẳng qua chỉ là thông qua điều tức để đạt được sự điều chỉnh của các tạng trong thân thể. Uy lực của quạt Ba Tiêu lớn như thế, miêu tả như vậy kỳ thực cũng là chỉ bộ phận lưỡi của người. Trong tu luyện truyền thống, có một cách hô hấp nạp thải khí gọi là “lục tự ca quyết”, sáu chữ này lần lượt là “hư, ha, hô, xi, suy, hi”, ứng với tạng phủ kinh lạc lần lượt là ‘can, tâm, tì, phế, thận, tam tiêu’. Khi tu luyện yêu cầu mũi hít vào mồm thở ra. Sáu chữ này dường như hoàn toàn tương đồng với khẩu quyết của bà La Sát dùng để biến lớn quạt Ba Tiêu là “xi, hư, a, hấp, hi, suy, hô”. Trong tu luyện đều cần phải “đáp Thước Kiều” (nối cầu Hỉ Thước), chính là lưỡi đặt hàm trên. Lúc thổ nạp hô hấp, khi hít khí vào lưỡi chạm hàm trên, khi thở khí ra bởi vì phải làm khẩu hình tương ứng với âm thanh phát ra, nên đầu lưỡi tự nhiên cũng rời khỏi vị trí hàm trên. Đây cũng là nguyên do dẫn đến việc Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu. Mà lưỡi lại là ‘tâm chi miêu’ (gốc của tâm), trong ngũ hành thuộc tâm, thuộc tính hỏa, do đó nói dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa Hỏa Diệm Sơn chính là mượn điều tức để đạt đến ‘bình tức tâm hỏa’ (khiến lửa giận lắng lại).
Ngộ Không nói “Ngưu Vương bản thị tâm viên biến” (Ngưu Ma Vương vốn do tâm viên biến thành); con trai Ngưu Ma Vương là Hồng Hài Nhi cũng tượng trưng cho tâm hỏa; vợ của Ngưu Ma Vương là La Sát phu nhân giữ Hỏa Diệm Sơn cũng là chỉ về tâm hỏa. Có thể thấy gia đình nhà Ngưu Ma Vương đều có liên qua đến tâm. Dùng quạt Ba Tiêu để quạt nước mưa dập tắt lửa Hỏa Diêm Sơn, điều này lại vừa phù hợp với câu nói trong tu luyện của Đạo gia là “thủy hỏa ký tế” (nước lửa đã xong). Cho nên khi câu chuyện này kết thúc, trong “Tây Du Ký” có viết rằng: “Bốn thầy trò Đường Tam Tạng đi riêng một con đường, nước lửa đã cứu xong, tiết trời trở nên mát lạnh, mượn được quạt quý thuần âm, quạt hơi lửa nóng để qua núi.
Câu chuyện này còn có ngụ ý khác nữa, đó chính là chu thiên trong khi vận hành đi qua “tam tiêu”. Tam tiêu phân chia thành thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu, dường như bao gồm tất cả lục phủ ngũ tạng của thân thể người. Tam tiêu là một phủ đặc thù, nó là con đường thủy cốc trong thân thể, có đường nước khai thông, có tác dụng vận hành thủy dịch. Tam tiêu trong ngũ hành thuộc về hỏa. Nhưng đối ứng với mật quyết điều tức của bà La Sát cũng không chỉ để chỉ tâm. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến, nói rằng chỉ có dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa, quạt đến khi có mưa, mới có thể trồng trọt có thu hoạch, từ đó mới có được ngũ cốc để dưỡng sinh.
Tác giả rất chú ý đến việc sắp xếp tình tiết câu chuyện, phần trước có nói đến người tu luyện tu đến tầng thứ nhất định sẽ xuất nguyên anh, sau đó mấy phần tiếp đều viết về những gì có liên quan tới nguyên anh hoặc liên quan đến tâm, cho đến khi viết về thông chu thiên. Tiếp về sau, phần cuối lại viết về thất tình. Bởi vì không thỏa mãn được tình, liền sinh ra hận. Rồi lại viết về lục dục. Những điều này đều là có quy luật tuần hoàn.
Khi chu thiên vận hành, lúc thầy trò Đường Tăng lần đầu tiên vượt quan về tâm, chính là dùng Hồng Hài Nhi; lần thứ hai là mẹ của Hồng Hài Nhi – Thiết Phiến công chúa; từ đó về sau, khi vượt qua mỗi quan thì trong tiêu đề đều dùng “sá nữ cầu dương”. Từ nam đến nữ, từ già đến trẻ, trong tu luyện thì càng ngày càng trở nên thuần tịnh.
Có thể thấy sự sắp xếp tình tiết trong “Tây Du Ký” là vô cùng độc đáo, không chỉ là chu thiên vận hành, mà một số bộ phận đặc thù của thân thể cũng cần phải luyện, ngay cả thân thể cũng cần phải thanh lý. Ví dụ hồi 65 và hồi 66 viết về Hoàng Mi quái, chính là chỉ hệ sinh sản của con người. ‘Đoản nhuyễn lang nha bổng’ (gậy răng sói mềm ngắn) mà Hoàng Mi quái sử dụng chính là chỉ dương vật của nam giới, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà hắn sử dụng rõ ràng chính là âm nang người. Phật Di Lặc nói đây là “Hậu thiên đại tử, tục danh hoán tố nhân chủng đại” (cái túi của sau này, tục danh gọi là túi đựng giống người). Phật Di Lặc bảo Tôn Ngộ Không dụ Hoàng Mi quái ra, “Ngài viết lên lòng bàn tay của Hành Giả một chữ ‘cấm’, bảo Hành Giả nắm tay lại, nhìn thấy yêu tinh hãy giơ tay trước mặt nó, nó liền đi theo.” Ý nghĩa của chữ ‘cấm’ này, với chữ ‘cấm’ ở phần trước nói về việc đeo ‘Cấm cô chú’ cho Hắc Hùng Tinh là giống nhau.
Hồi thứ 67, trong truyện viết về hẻm Hi Thị (con đường nhỏ có nhiều hồng rụng bị thối nát) ở Đà La trang (thôn Đà La), thực ra chính là chỉ ruột người, gọi là ‘Hi Thị’ chẳng qua là đồng âm với ‘hi thỉ’ (phân lỏng). Trong hẻm Hi Thị có Hồng Lân Đại Mãng (con mãng xà lớn có vảy màu đỏ), chính là nói về hồi trùng (giun sán trong ruột người). Đương nhiên cần phải giết chết nó. Qua quan này may là nhờ Bát Giới biến thành cái đầu lợn lớn đi trước ủi để mở đường mới qua được.
Đến cuối cùng, tới được Linh Sơn rồi, còn phải qua bến đò Lăng Vân. Khi Ngộ Không đẩy Đường Tăng lên thuyền không đáy, thân thể nơi trần thế (nhục thân) của đường Tăng liền tự nhiên thoát rơi ra, chính là ứng với ý “Kim Thiền thoát xác”.
8. Những câu thơ, hồi mục và ẩn dụ hình tượng hóa tiết lộ nội hàm tu luyện
Nhiều người đọc “Tây Du Ký” chỉ chú trọng tình tiết, gặp thơ từ liền bỏ qua, gặp tiêu đề mỗi hồi cũng bỏ qua không chú ý. Thực ra trong đó thật sự tiết lộ mối liên hệ giữa câu chuyện và đạo lý tu luyện. Hồi thứ 14 “Tâm viên quy chính, Lục tặc vô tung” (Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi), chỉ Tôn Ngộ Không là tâm đã quay trở về trong tâm của chủ nhân, “lục tặc” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã bị đoạn đứt gốc rễ. Hồi thứ 72 “Bàn Tơ động thất tình mê bản, Trạc Cấu tuyền Bát Giới vong hình” (Động Bàn Tơ bảy tình mê gốc, Suối Trạc Cấu Bát Giới mất hình). Trong hồi này viết về bảy con nhện tinh, tác giả dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để ví thất tình của của con người. Câu kết hồi thứ 40 “Vị luyện anh nhi tà hỏa thắng, Tâm viên mộc mẫu cộng phù trì”, ở đây dùng ‘tâm viên’ mà lại không dùng ‘kim công’ để đối ứng với ‘mộc mẫu’, bởi vì mộc khắc kim, Hồng Hài Nhi đại biểu cho tâm hỏa (lửa giận, tâm oán hận), tâm hỏa đang vượng, cho nên không dùng ‘kim công’ mà dùng ‘tâm viên’ để chỉ Tôn Ngộ Không. Câu “cộng phù trì” nói rất hay, nhưng không phải là trừ dứt Hồng Hài Nhi không cần nữa, mà là cần phải giúp đỡ Hồng Hài Nhi quy chính, bởi vì Hồng Hài Nhi cũng là một phần tâm của người tu luyện.
Hồi thứ 55 viết về một con bọ cạp độc trêu đùa dâm dục Đường Tăng, bị Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến tiêu diệt. Tiếp theo, hồi thứ 56 có bài thơ mở đầu, “Linh Đài vô vật vị chi thanh, Tịch mịch toàn vô nhất niệm sinh. Viên mã lao thu viên phóng đãng, Tinh thần cẩn thận mạc tranh vinh. Trừ lục tặc, ngộ tam thừa, Vạn duyên đô bãi tự phân minh. Sắc tà vĩnh diệt siêu chân giới, Tọa hưởng Tây phương Cực Lạc thành.” Sau khi thầy trò nhận sắc phong của Phật Như Lai có câu thơ thế này: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận. Chính quả chiên đàn quy Đại Giác, Hoàn thành phẩm chức thoát trầm luân. Kinh truyền thiên hạ ân quang khoát, Ngũ thánh cao cư bất nhị môn.”
Tôn Ngộ Không đánh chết mấy tên cướp, Đường Tăng liền đuổi Ngộ Không đi. Dẫn đến cuộc tranh đấu giữa Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không, thực chất là cuộc tranh đấu giữa chân ngã và giả ngã. Sau khi Lục Nhĩ Mi Hầu bị đánh chết, có câu thơ như thế này: “Trung đạo phân ly loạn ngũ hành, Hàng yêu tụ hội hợp nguyên minh. Thần quy tâm xá thiền phương định, Lục thức khư hàng đan tự thành”. Lời mở đầu hồi tiếp theo là một bài tụng, viết rằng: “Tam Tạng vâng lệnh Bồ Tát, thu nhận Hành Giả, cùng Bát Giới Sa Tăng cắt đứt ‘nhị tâm’, khóa chặt viên mã, đồng tâm hiệp lực, nhanh bước đến Tây Thiên.” Chỗ này người đọc có thể hiểu được, hơn nữa cách nói ‘nhị tâm’ trong câu đề mục ở hồi này “Nhị tâm giảo loạn đại càn khôn, Nhất thể nan tu chân tịch diệt” đã nói rất rõ ràng ‘nhị tâm’ là thế nào.
Những điều được ví von trong “Tây Du Ký” có rất nhiều, từ đầu truyện đến cuối truyện đều có. Viết về yêu quái, có rất nhiều là dùng để ví tâm chấp trước của con người, chẳng hạn dùng sợi tơ nhện để ví về sợi tơ tình của con người, dùng Lục Nhĩ Mi Hầu để ví về các quan niệm hậu thiên hình thành nên nhân tâm của con người. Ngay cả nơi ở của yêu tinh phần lớn cũng được dùng để ví von, ví như động Bàn Tơ, thôn Đà La, động Ba Tiêu ở Hỏa Diệm Sơn, động Không Đáy ở núi Hãm Không, động Ba Nguyệt ở núi Uyển Tử, v.v.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128191
Ngày đăng: 17-04-2014

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thử giải “Tây Du Ký” (5)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
III. Hiểu “Tây Du Ký” từ nhiều góc độ khác nhau

Bài trước phân tích về “Tây Du Ký” là dựa trên cơ sở người tu luyện thuần túy mà tiến hành phá giải. Cũng chính là nói, bề ngoài viết về cuộc chiến giữa thầy trò Đường Tăng và yêu ma quỷ quái, nhưng thực chất lại là đang thanh trừ ma tính của chính bản thân mình. Đây là giải ở góc độ tu nội thuần túy. Phân tích như vậy cũng đủ để vén bức màn bí ẩn về nội hàm của “Tây Du Ký”, đằng sau sự ly kỳ hấp dẫn này chính là quá trình một người tu tâm đoạn dục.
Nhưng người tu luyện chân chính vẫn có một góc độ quan sát nữa. Người chân tu biết rằng, nếu muốn chân chính tu luyện mà không có sư phụ chỉ dạy, không có sư phụ dẫn dắt, thì về cơ bản là không tu thành được. Mà vị sư phụ này ắt phải là một Giác Giả có trí huệ và thần thông to lớn. Đương nhiên người tu luyện thông thường, căn cơ không đủ, tâm cầu Đạo không kiên trì, trong khi đọc kinh sách mà tu luyện, thì có hay không có sư phụ cũng không sao cả. Bởi vì tu luyện môn nào thì sư phụ của môn đó liền biết ngay, ông thấy người này cần đề cao tầng thứ rồi, liền ở phía sau giúp đỡ một chút. Người này thật sự có thể tu luyện được, thì ông liền giúp đỡ. Bởi vì Giác Giả độ nhân không nói điều kiện. Nhưng những người như thế này thật sự quá ít, quan niệm của người thường lại quá nhiều quá phức tạp, khi tu luyện hễ gặp khó khăn ma nạn liền dùng nhân tâm mà đối đãi, họ cũng sẽ bị đình trệ ngay ở ma nạn đó. Do đó từ góc độ này mà xét, người chân tu hướng nội tu là một phương diện, cũng là một phương diện chủ yếu, nhưng không tách rời khỏi sự bảo hộ của sư phụ, khi cần thiết thật sự phải có sư phụ đến giúp đỡ.
Chân tu ắt phải có sư phụ, đường đời của người chân tu đã được sư phụ an bài và thay đổi rồi, từng nạn đều là nhắm vào chấp trước của người tu luyện mà an bài. Điều này cũng được thể hiện ngay trong “Tây Du Ký”. Ví dụ khi Tôn Ngộ Không thu phục Kim Giác Đại Vương và Ngân Giác Đại Vương, Thái Thượng Lão Quân nói: “Vật này Hải Thượng Bồ Tát đã hỏi mượn ta ba lần, lần này đưa cho ngài ấy hóa thành yêu ma, để thử xem thầy trò ngươi có thật sự muốn đi Tây Thiên thỉnh kinh hay không.”
Chúng ta nói các nạn mà Đường Tăng trải qua là nạn của bản thân ông, điều này đương nhiên là đúng. Tuy nhiên an bài có thứ tự, từng bước từng bước lại không phải là ông tự an bài cho mình. Trong truyện nói rõ rằng có những ma nạn là do Phật Thích Ca Mâu Ni an bài; vị Phật Thích Ca Mâu Ni này lại không phải giống như phân tích ở phần trước là chỉ ở trong tâm người ta, mà Ngài ở tại thế giới của Ngài; chỉ cần có người thật sự tu luyện theo kinh mà Ngài truyền, Ngài đương nhiên sẽ biết, và đương nhiên sẽ quản người đó; cách giúp đỡ của Ngài là an bài sẵn con đường để người đó tu luyện. Trên con đường Ngài đã an bài, vào mọi thời khắc Ngài đều đang chăm nom bảo hộ người đó. Đương nhiên người ta trong tu luyện, khi đối chiếu với kinh Phật để hướng nội mà tu, mặt bản tính của chính mình, cũng chính là phía mặt tu thành kia đã biết phải làm thế nào rồi. Nhưng chỉ biết được làm thế nào thì vẫn chưa đủ, đó là quan niệm hậu thiên hình thành, ở không gian khác mà nhìn, đó là những vật chất vô cùng ngoan cố, không có sự giúp đỡ của sư phụ thì về cơ bản không thể nào trừ bỏ đi được. Chúng ta hãy lấy một ví dụ, tại sao một số người xấu muốn học điều tốt lại khó như vậy? Đó là vì họ không vứt bỏ được quan niệm mà họ đã hình thành, quan niệm đó là tự kỷ hậu thiên, nó ngăn cản con đường người ta phản bổn quy chân. Đây cũng là một nguyên nhân chủ yếu mà người hiện đại ngày nay khó có thể tu luyện. Đương nhiên, nếu xét từ góc độ này, kết hợp thêm tại góc độ người tu luyện thuần túy để hiểu “Tây Du Ký”, thì sẽ toàn diện hơn.
Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, từ trong Pháp Sư phụ Lý Hồng Chí giảng rằng con người có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, trong khi đọc “Tây Du Ký”, tôi phát hiện rằng từ góc độ này mà hiểu về thầy trò Đường Tăng thì vô cùng hợp lý. Đường Tăng đương nhiên là chủ nguyên thần; Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã chính là các phó nguyên thần. Tu luyện là lấy chủ nguyên thần làm chủ, chủ nguyên thần mê trong nhân thế, nếu muốn tu luyện vượt ra khỏi chốn hồng trần, thì đương nhiên sẽ có nhiều nạn, sẽ có nhiều khổ, nhưng càng như vậy, sẽ tu luyện được càng cao. Phó nguyên thần điều gì cũng biết, đương nhiên sẽ dễ tu hơn một chút. Cho nên, năm vị tuy cùng một thể, nhưng lại đều có thể tu đến quả vị tương ứng của bản thân.
Có một vị tu luyện khai mở thiên mục ở tầng thứ rất cao khi chia sẻ đã nói: “Câu chuyện Đường Tăng thỉnh kinh là có thật, hình tượng thầy trò Đường Tăng cũng là sự thật, chẳng qua là ở tại không gian khác mà thôi.” Như vậy từ góc độ này mà nói, “Tây Du Ký” là một câu chuyện tu luyện phát sinh tại không gian khác, trải qua gia công chỉnh lý đã trở thành bộ tác phẩm mà chúng ta thấy như hiện nay.
Đương nhiên dùng tư tưởng của người thường thì không lý giải nổi sự an bài của các sinh mệnh cao tầng đối với sự việc này. Đối với những sinh mệnh cao tầng tham dự trong đó mà nói, không phải là họ muốn diễn giải câu chuyện như thế nào thì liền có thể làm như thế. Lấy Trư Bát Giới làm ví dụ, xét từ góc độ người thường, có ai muốn làm Trư Bát Giới? Nhưng nếu từ góc độ lưu lại văn hóa Thần truyền chính thống cho nhân loại và trải thảm cho tu luyện chính Pháp của đời sau mà nói, đó là công lao và thành tích vĩnh viễn bất diệt trong vũ trụ, là điều mà bao vị Thần ngày nay đều ngưỡng mộ. Nói thẳng ra, không phải sinh mệnh nào muốn diễn vai diễn này thì liền được phép diễn.
Từ truyện mà xét, các ma nạn thầy trò Đường Tăng trải qua, những người tham dự trong các ma nạn đó rất nhiều đều là có lai lịch, có những nạn là do Phật Như Lai và Bồ Tát trực tiếp an bài. Người tu luyện thông thường cũng không xứng có những ma nạn như thế này. Theo cách nói của Phật Di Lặc thì: “Là do thầy trò ngươi chưa hết nạn, cho nên nhiều loài hạ thế đón đường, khiến các ngươi chịu ma nạn.”
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128192
Ngày đăng: 23-04-2014

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Thử giải “Tây Du Ký” (6)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
IV. Ngụ ý và ý nghĩa của “Tây Du Ký”

Kết cấu và bố cục của “Tây Du Ký” đồ sộ mà lại nghiêm ngặt. Mở đầu là Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tam Hoàng Ngũ Đế trị thế. Được phân làm hai phần: phần đầu là bảy chương tiết đầu lấy Tôn Ngộ Không làm chủ thể; phần hai là lấy thỉnh kinh làm chủ thể. Cuối cùng là năm thầy trò mỗi người đều đắc quả vị, được sự kính trọng và ca tụng của chư Phật và Bồ Tát.
Trong “Tây Du Ký” một số từ ngữ có ẩn ý tương đối sâu xa, nhưng chỉ cần đứng tại góc độ người tu luyện mà xét, thì có thể thấy được đầu mối, chỉ là có những điều ẩn giấu quá sâu mà thôi. Ví dụ: Bồ Đề Tổ Sư dạy Ngộ Không phép biến hóa tránh tam tai, trong đó nhắc tới ba lần 500 năm, cũng chính là 1.500 năm, nếu nhân với 72 phép biến hóa của Tôn Ngộ Không, thì chính là 10.800, đó chính là quãng đường mười vạn tám nghìn dặm mà Đường Tăng đi thỉnh kinh. Nếu nhân với số dương lớn nhất là 9, bởi vì vật cực tắc phản, cho nên 9 là con số lớn nhất, thì được 13.500, vừa khớp với trọng lượng Kim cô bổng của Tôn Ngộ Không. Mà con số này lại ngầm hợp với điều nói trong “Hoàng Đế bát thập nhất nạn kinh” là “nhân trú dạ hô hấp nhất vạn tam thiên ngũ bách tức” (trong một ngày đêm người ta hô hấp 13.500 lần).
Đường Tăng thỉnh kinh trải qua 80 nạn, đến được Linh Sơn rồi, bởi vì còn thiếu một nạn nữa, nên phải bổ sung thêm. Tổng cộng trải qua 14 năm, theo lịch cũ thì một năm có 360 ngày mà tính, tổng cộng mất 5.040 ngày. Nhưng còn thiếu 8 ngày nữa so với ẩn số, lại vừa khớp với một nạn bổ sung 8 ngày, hợp thành con số 5.048 bí ẩn, con số bí ẩn này lại là con số giống với trọng lượng binh khí của Bát Giới và Sa Tăng.
Nói về một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng, trong truyện tác giả đã sớm để lại “phục bút” rồi. Bề ngoài là lão rùa trắng Bạch Ngoan hỏi Đường Tăng là khi nào lão mới thoát xác để đắc được thân người, thực chất biểu hiện ra là Đường Tăng đã thoát khỏi thân người đắc được Phật thể rồi. Ngoài ra, nạn này chính là khi Đường Tăng đã trải qua hơn một nửa con đường mười vạn tám nghìn dặm, cũng chính là tại vị trí huyệt bách hội của con người, mà nơi đây lại chính là nơi sở tại của Nê Hoàn Cung, trong giới tu luyện Nê Hoàn Cung cũng được coi là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần. Tại nơi đây họ đã cứu được Trần Quan Bảo và Nhất Xứng Kim. Thực ra ngụ ý trong đó chúng ta cũng dễ dàng có thể thấy được: người trong thôn có cùng họ Trần với Đường Tăng, có thể coi là phản bổn quy chân; năm đó bởi vì đi được nửa đoạn đường, sá nữ và anh nhi đại biểu cho âm dương lúc hòa hợp. Trần Quan Bảo 7 tuổi và Nhất Kim Bình 8 tuổi cộng lại là 15, chính là một nửa của ba mươi cân. Cái tên “Quan Bảo” được đóng lại và được bảo vệ ở bên trong Nê Hoàn. Ai là người bảo vệ đây? Đương nhiên chính là Nhất Xứng Kim. Trong Phật giáo coi ‘Trượng lục kim thân’ là một trong ba thân thể của Phật, là thân thể nhỏ trong thân thể biến hóa của Phật. Trong tu luyện Toàn Chân Đạo có khẩu quyết kim đan như thế này: “Nội hữu kim đan thập lục lưỡng, Tống tại tây nam khôn địa thượng. Thùy tri thử vật thị hoàn đan, Chỉ tại Nê Hoàn Cung lý dưỡng.” Lưỡng và xích ở đây nếu tính là ngang nhau, thì kim đan chính là chỉ kim thân. Nhất Xứng Kim ở đây chính là chỉ kim thân của Đường Tăng sau khi ông tu thành.
Lúc trước khi Đường Tăng thỉnh kinh đến sông Thông Thiên, bị yêu ma đóng băng sông Thông Thiên, sau đó Đường Tăng bị bắt đi. Bát Giới nói Đường Tăng, “Đừng gọi là Tam Tạng nữa, mà nên đổi thành Trần Đáo Để” (lối chơi chữ, nghĩa là “Trầm Đáo Để”, chìm đến đáy). Đường Tăng rốt cuộc chìm đến nơi nào? Trong truyện nói là chìm đến “Thủy ngoan chi đệ” (phủ đệ của lão rùa), thực ra đây là Nê Hoàn của con người. Từ huyệt bách hội hướng xuống vào trong đại não, là vị trí sở tại của Nê Hoàn, Nê Hoàn cũng được gọi là ‘Tổ khiếu’, cũng là thể tùng quả mà y học hiện đại nhận thức được. Nó cũng là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần của con người. Mà lần này, Bạch Ngoan (lão rùa trắng) muốn hất Đường Tăng xuống nước, thân thể của Đường Tăng đã là thân thể đắc Đạo, cho nên có thể ở trong chân không được và ở dưới nước được.
Ngoài ra, từ thọ mệnh của Bạch Ngoan cũng có thể thấy được mối quan hệ giữa Bạch Ngoan và Đường Tăng. Bạch Ngoan nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai xem khi nào ông mới thoát xác, ông nói rằng bản thân ông “đã tu hành hơn một ngàn ba trăm năm”. Hơn một ngàn ba trăm năm này, nếu tính theo thời gian trước khi Đường Tăng đi thỉnh kinh, thì chính là thời đại mà Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, đương nhiên cũng là thời đại Tu Bồ Đề hay Kim Thiền Tử còn tại thế.
Vậy thì Lão Ngoan này là ai? Đó chẳng qua chỉ là một bộ phận của nhục thân, là vật chất cấu thành từ ngũ hành mà thôi, có thể nói là một tải thể của Kim Thiền Tử tại nhân gian. Trong truyện dùng Lão Ngoan thực chất là nói về bản lai diện mục của Đường Tăng, cũng tức là ý nói “hoàn nguyên” (“ngoan” [鼋] với “nguyên” [元] là đồng âm), đây cũng chính là câu thơ trong truyện: “Bất nhị môn trung Pháp áo huyền, Chư ma chiến thoái thức nhân Thiên. Bản lai diện mục kim phương kiến, Nhất thể nguyên nhân thủy đắc toàn. Bỉnh chứng tam thừa tùy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhậm chu toàn. Khiêu bao phi trượng thông hưu giảng, Hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan.”
“Ma ha bàn nhược ba la mật đa tâm kinh” gọi tắt là “Tâm kinh”, là kinh sách kinh điển trong Phật giáo. Năm xưa khi Ô Sào Thiền Sư truyền thụ cho Đường Tăng, lại nói là “Đa tâm kinh”, về sau khi Đường Tăng gặp ma nạn hay có chấp trước trong tâm của bản thân, mặc dù nói là niệm “Tâm kinh”, nhưng tác giả lại viết thành “Đa tâm kinh”. Ví dụ trong hồi thứ 20 “Hoàng Phong lĩnh Đường Tăng hữu nạn, Bán sơn trung Bát Giới tranh tiên”, khi Bát Giới và Ngộ Không đại chiến với hổ quái, trong truyện có viết: “Tam Tạng ngồi xuống, sợ đến rét run lập cập, miệng niệm‘Đa tâm kinh’ mà không lên tiếng.” Trong tâm nếu sợ hãi như thế này, đương nhiên là tâm sợ hãi rồi, Đương Tăng niệm cũng chỉ có thể là “Đa tâm kinh” thôi. Mãi đến lúc sau khi đến nước Thiên Trúc, tâm chấp trước của Đường Tăng về cơ bản đã trừ sạch rồi, lúc này tác giả mới viết rằng Đường Tăng niệm chính là “Tâm kinh” .
Từ đây có thể thấy, khi sáng tác “Tây Du Ký” là tương đối khắt khe, tuyệt không phải là nghĩ lung tung từ không thành có mà viết ra. Trong việc bố trí tình tiết và dùng từ dùng câu, miêu tả hình tượng nhân vật cũng là như vậy. Hình tượng thầy trò Đường Tăng ai ai cũng thích, và đã đi sâu vào lòng người. Thực ra tác giả đã viết ra tính chất chung của của con người, cũng chính là tâm lý và tính tình thuần khiết của con người; từ hình tượng Tôn Ngộ Không, người ta có thể nhìn thấy được sự thông minh, hoạt bát, cơ trí, tinh nghịch, tâm lý không bị gò bó cho đến sự hướng về của chính mình. Từ hình tượng Trư Bát Giới người ta có thể nhìn ra mặt lười biếng, đố kỵ, tham lam, vụng về mà lại đáng yêu của bản thân; từ hình tượng của Sa Hòa Thượng có thể nhìn thấy mặt nội tâm an định, không oán hận, nhẫn nhượng, sạch sẽ của bản thân; từ hình tượng của Đường Tăng, chúng ta nhìn thấy được sự kiên định vì đi tìm chân lý mà không bao giờ bỏ cuộc của bản thân.
Là một bộ trường thiên tiểu thuyết, tuy tác giả miêu tả nhân vật chính không nhiều, nhưng điều viết ra lại là tính chất chung của con người, đạt được sự đồng cảm về tâm lý của mọi người. Đương nhiên, tác giả miêu tả về đặc trưng của các vị thần tiên, cho đến việc miêu tả hình thể dung mạo khác thường của yêu ma quỷ quái cũng đều có những nét độc đáo; miêu tả về sự mỹ hảo, thù thắng tráng lệ của Thiên Cung, cho đến địa phủ và động phủ của yêu ma làm cho độc giả cảm thấy chân thực đáng tin. Những điều này rất khó để miêu tả được, nó mở ra cho con người sự tưởng tượng vô hạn về không gian và cảm thụ, làm cho người ta có sự tưởng tượng thiết thực mà có thể cảm nhận được về không gian và trải nghiệm bản thân đối với thế giới thiên quốc. Đương nhiên, đây cũng là tác giả viết về những thể hiện chân thực tại không gian khác, thì mới có tác dụng như thế.
Mỗi một hình tượng trong “Tây Du Ký” đều được đưa vào đó nội hàm tu luyện, cho dù là một tiểu yêu, cũng là thể hiện suy nghĩ của người tu luyện. Khi người ta xem “Tây Du Ký”, bao gồm tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình, kịch, sách bình luận văn học, các cố sự, đều không tránh được việc hòa những nhân tố tu luyện vào nơi sâu thẳm trong tư tưởng của bản thân. Cho nên, đối với người Trung Quốc mà nói, nhắc tới tu luyện, Thần Phật, thần thông, Pháp thân, Pháp khí, thiên quốc, long cung, địa phủ, yêu ma, v.v. trong đầu họ đều có những nội hàm tương ứng, mà những điều này đều là chính diện. Không giống như câu chuyện về Pháp Hải hòa thượng trấn áp Bạch Xà, vốn là truyền thuyết mang theo nội hàm tu luyện chính diện, nhưng lại bị người ta diễn dịch thành câu chuyện tình đúng-sai lẫn lộn. Người đời khi hứng thú và chú tâm xem, hoặc nghe, hoặc kể về “Tây Du Ký”, thì nhân tố tu luyện đã dần dần đi vào và thay đổi một cách vô tri vô giác tư tưởng cùng nhận thức của họ. Do đó từ góc độ nhận thức, về phương diện phổ cập văn hóa tu luyện thì “Tây Du Ký” có tác dụng không gì sánh bằng!
Vậy điều này có chỗ tốt nào? Người tu luyện chân chính đều biết rằng, con người đến thế gian, không phải vì để làm người, mà là vì để phản bổn quy chân. Đây là điều các tôn giáo trên thế giới đều giảng. Đặc biệt là trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nhân tố tu luyện có thể nói là không nơi nào không có. Ngôi nhà thật sự của con người không phải là nơi thế gian, mà là ở các thiên quốc khác nhau. Con người đến thế gian này là vì để đắc được Chính Pháp để tu luyện quay trở về, từ đó thoát khỏi sự đau khổ trong luân hồi sinh tử. Về điểm này, trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện. Ví dụ như hồi thứ 64 “Kinh Cức lĩnh Ngộ Năng nỗ lực, Mộc Tiên am Tam Tạng đàm thơ” Đường Tăng nói: “Phu nhân thân nan đắc, Trung Thổ nan sinh, chính Pháp nan ngộ; toàn thử tam giả, hạnh mạc đại yên” (Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!)Hồi thứ 91 “Kim Bình phủ nguyên dạ quan đăng, Huyền Anh động Đường Tăng cung trạng”, một vị hòa thượng nghe thấy Đường Tăng đến từ Trung Hoa, liền cúi người xuống bái, chắp tay mà nói: “Tôi đây là người hướng thiện, đọc kinh niệm Phật, cũng chỉ mong tu luyện để được thác sinh đến đất Trung Hoa của ngài.”
Trong truyền thuyết lịch sử xa xưa, Đông Thổ là nơi mà thế nhân hướng về, không chỉ là văn minh Trung Hoa cổ xưa thu hút con người trên khắp thế giới, mà có dự ngôn thế này: “Nhân loại thời kỳ mạt kiếp sẽ có Chuyển Luân Thánh Vương lấy hình tượng Phật Di Lặc tại Đông Thổ truyền chính Pháp mà cứu độ thế nhân”. Trong “Tây Du Ký” cũng có ẩn dụ về điều này. Trong truyện, Phật Di Lặc được gọi là “Đông Lai Phật Tổ” (Phật Tổ đến từ phương Đông). Mà khi Phật Di Lặc thu phục Hoàng Mi quái đã nói với Tôn Ngộ Không, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà yêu tinh sử dụng chính là “nhân chủng đại” (túi đựng giống người). Điểm này ở bài viết trước đã nói rồi. Vậy thì túi “nhân chủng đại” này nói lên điều gì? Bởi vì Phật Di Lặc cần đến nhân gian để độ nhân, nên phải có mối quan hệ thế nào đó với nhân loại. Trong Phật gia mối quan hệ này được gọi là “duyên phận”. Nếu không có duyên phận, đến thời kỳ mạt pháp mạt kiếp thì những người không có duyên sẽ không thể được cứu độ. Người trong giới tu luyện giảng, trong lịch sử Phật Di Lặc tại thế gian, từ mấy lần lịch sử văn minh nhân loại xa xôi lần trước rồi Ngài đã đến rồi. Thời kỳ mới bắt đầu nền văn minh nhân loại lần này, Ngài đã từng đến nhân gian rồi. Sau đó Ngài dùng các phân thân khác nhau chuyển sinh đến các nơi khác nhau tại các thời kỳ khác nhau, cùng người thế gian tạo nên các loại duyên phận. Mục đích chính là đợi đến khi chính Pháp khai truyền, người có duyên phận sẽ đắc được chính Pháp. Ở Trung Quốc, Phật Di Lặc được gọi là “Vị lai Phật” (vị Phật tương lai), chính là vị Phật Tổ trong tương lai sẽ cứu độ nhân loại. Thậm chí trên tượng Phật Di Lặc người ta còn khắc lên đó 18 tiểu hài tử (gọi là “Di Lặc thập bát tử”), dùng để ẩn dụ rằng tương lai Phật Di Lặc đến nhân gian truyền Pháp sẽ lấy họ là họ “Lý” (“thập bát tử” [十八子] ghép lại thành chữ “Lý” [李]).
Thực ra rất nhiều người trong các tôn giáo cũng như nhiều người trong giới tu luyện đều biết rằng xã hội nhân loại hiện nay chính là đang trong thời kỳ mạt pháp mạt kiếp. Đạo đức nhân loại hiện nay đã bại hoại đến mức độ xưa nay chưa từng có, nhân tâm đã hoàn toàn bại hoại rồi, hơn nữa ở Trung Quốc lại là đang trong thời kỳ một đảng chính trị theo thuyết vô thần cai trị. Cái đảng này tàn hại thế nhân, bức hại người tu luyện đến mức cực kỳ nghiêm trọng. Cho nên sau khi chính Pháp được truyền xuất, cũng gặp phải sự bức hại của ác đảng này. Đương nhiên, đây đều là sự an bài của lịch sử. Nếu ai đắc được chính Pháp trong thời kỳ lịch sử này, hơn nữa lại bước qua được giai đoạn này, thì người đó thật vô cùng may mắn. Mặc dù điều này không được tiết lộ trong “Tây Du Ký”, nhưng trong ý nghĩa hàm ẩn của nó lại có điều này.
Kỳ thực, trong “Tây Du Ký” vẫn còn ẩn chứa một thiên cơ nữa chưa được người ta tiết lộ ra. Khi Tôn Ngộ Không học Đạo, Bồ Đề Tổ Sư vừa giảng về Đạo lại vừa giảng về Thiền, Phật và Đạo này vốn không thể trộn lẫn mà cùng tu luyện. Chính là nói một người, nếu người đó tu Phật thì là tu Phật, tu Đạo thì chính là tu Đạo, tuyệt đối không thể trộn lẫn vào mà tu. Bởi vì tu luyện Phật gia và Đạo gia thì công trên thân thể đều có hình thức tu luyện diễn hóa của bản thân, mà điều này lại đều là do sư phụ giúp đỡ diễn hóa cho. Ví dụ, Đạo gia tu luyện giảng tiểu chu thiên đại chu thiên, là chỉ việc đả thông hai mạch nhâm đốc, ba mạch âm ba mạch dương nơi tay, ba mạch âm ba mạch dương nơi chân. Nhưng mạch trong Phật gia lại chạy theo cách khác. Lấy mạch trong Mật tông mà nói, trong Đạo gia cơ bản không có cách nói này, cũng không tìm được căn cứ về phương diện này, vậy họ luyện như thế nào? Hơn nữa Phật Thích Ca Mâu Ni cơ bản không hề giảng về bộ phận công, mà bảo người tu luyện ngay cả thân thể cũng đều vứt bỏ.
Trong lịch sử Trung Quốc quả thực có một số người muốn kết hợp tu luyện Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo; có một số người còn làm cái gì là đội mũ của Đạo sỹ, mặc áo cà sa của Phật giáo, chân đi giầy của Nho sinh, nhưng không đạt được thành tựu gì, cũng không hình thành nổi, càng không cần nói đến có những người như thế này có thể tu thành Phật hoặc thành Đạo. Đây chỉ là biểu hiện của tâm công danh lợi lộc mà thôi. Văn hóa của Nho gia, Phật gia, Đạo gia trong lịch sử phát triển không thể tránh khỏi có một số điều bị dung hợp, nhưng người tu luyện chân chính lại không thể trộn lẫn vào để cùng tu luyện. Vậy làm sao trong “Tây Du Ký” lại có thể dung hợp cả ba nhà lại, đặc biệt là dung hợp Phật và Đạo lại để sáng tác? Đây không chỉ là yêu cầu suy xét đến tình tiết để sắp xếp kết cấu theo trình tự, mà là dự ngôn ở mức độ tương đối lớn, về việc Đại Pháp của vũ trụ truyền ra trong tương lai bao hàm cả Phật gia và Đạo gia. Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, mới nhận thức được một cách chân chính rằng những câu chuyện tu luyện được kể đến trong “Tây Du Ký” là vì để trải thảm sẵn cho Pháp Luân Đại Pháp.
Trong phần đầu của loạt bài viết này chúng ta đã nói về Tu Bồ Đề, Tôn Ngộ Không, Đường Tăng; đó chỉ là cách nói về cùng một người. Bây giờ chúng ta thảo luận về nội dung được ẩn giấu trong truyện, khi Tôn Ngộ Không ‘minh tâm kiến tính’, Tu Bồ Đề (Bồ Đề Tổ Sư) dạy Tôn Ngộ Không là nội dung tu luyện của Đạo gia. Điều này thuyết minh rằng, sau khi Tu Bồ Đề tu luyện Phật Pháp nhưng rốt cuộc lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, cho nên mới có sự ngạo mạn khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, cũng từ đó mà bị đọa xuống hạ giới, tu luyện lại từ đầu. Vì sao Tu Bồ Đề không cho Ngộ Không nhắc đến ông? Bởi bản thân ông là đệ tử của Phật, nhưng trong tâm lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, do đó ông cố hết sức giấu kín việc này.
Ở đây lại có một vấn đề đưa ra là, Phật Thích Ca Mâu Ni quản chính là đệ tử chân tu trong Pháp môn của Ngài, người tu Đạo về cơ bản là không thể quản được. Vậy tại sao trong “Tây Du Ký” thầy trò Đường Tăng lại tu thành? Đạo gia giảng âm dương ngũ hành; coi kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là yếu tố cơ bản cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vụ trụ; Phật giáo giảng tứ đại: đất, nước, lửa, gió cấu thành nên vạn sự vạn vật. Lý luận tu luyện về cơ bản là khác nhau. Điều này chỉ có thể nói rõ một vấn đề, việc an bài quá trình tu luyện của thầy trò Đường Tăng là do một vị Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni an bài tất cả. Chỉ là trong lịch sử Ngài không tạo ra ảnh hưởng gì, nói ra thì tư tưởng của người ta cũng không tiếp thu được, cho nên mới mượn danh nghĩa là Phật Thích Ca Mâu Ni an bài cho thầy trò Đường Tăng tu luyện.
Do đó từ góc độ này mà nói, Bồ Đề Tổ Sư che giấu thân phận tu Đạo của bản thân mình không chỉ là vấn đề ông kiêng kỵ. Ông đang chờ đợi, chờ đợi khi Đại Pháp chân chính của vũ trụ khai truyền sẽ có thể làm cho người ta hiểu được nỗi khổ tâm của ông. Ông biết rằng, Đại Pháp chân chính của vũ trụ sẽ bao hàm cả Phật gia và Đạo gia mà tu luyện. Con đường tu luyện nơi trần thế của ông là để làm bằng chứng cho việc đắc chính Pháp trong tương lai. Đó chính là, tu Đạo cũng vậy mà tu Phật cũng vậy, nếu tu luyện trong Đại Pháp của vũ trụ thì đều có thể giữ lại những thứ vốn có của chính mình, từ đó tiến tới tu luyện trở về bản chất tiên thiên của sinh mệnh bản thân, và có thể đạt được đến tầng thứ cao hơn.
Một nạn được bổ sung thêm cho Đường Tăng, có thể nói là Đường Tăng “hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan” (may mắn trở lại gặp lão rùa), ý nghĩa trong đó là nói Đường Tăng trải qua tu luyện thì vẫn là trở về bản nguyên của chính mình, nhưng “nguyên” trong hoàn nguyên lại là cùng tuổi với Lão Ngoan, chỉ là mới có lịch sử hơn 1.200 năm, cũng chính là bản nguyên của Kim Thiền Tử hạ xuống phàm gian. Bởi vì Đường Tăng đã trở về trạng thái bản tính lúc mới đến nhân gian, đương nhiên cũng là tu luyện viên mãn rồi, cũng là điều mà Phật giáo giảng “kiến tính thành Phật”.
Sư phụ Lý Hồng Chí trong “Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2007” đã giảng:“Miễn là chư vị đến nơi người đây, ai cũng không lên được thiên thượng; đó là tuyệt đối, chưa có ai từng có thể lên thiên thượng.” “Nói cách khác, ai tiến nhập vào tam giới, ai đã đến [cõi] người nơi đây rồi, thì là đã rớt xuống rồi, chính là không thể lại quay trở về trên nữa, vì nhân loại quá khứ không có chân Pháp có thể khiến con người quay về thiên thượng.” Vậy thì những sinh mênh tầng thứ cao như vậy vì sao lại đến nhân gian? Là họ đang chờ đợi, chờ đợi đến khi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền, thì họ sẽ lại đến nhân gian để tu luyện theo Đại Pháp của vũ trụ. Chỉ có như thế này thì họ mới có thể thật sự vượt khỏi tam giới để trở về nơi thế giới của chính mình. Điều này cũng phù hợp với điều Đường Tăng nói: “Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!” Đường Tăng đắc được thân người, lại là người Trung Thổ, vậy tại sao ông còn đi Tây Thiên thỉnh kinh? Hiển nhiên là vì chính Pháp của vũ trụ vẫn chưa được truyền xuất. Thế thì thầy trò Đường Tăng giờ ở nơi đâu. Có vị tu luyện có thiên mục khai mở ở tầng thứ rất cao nói rằng, họ hiện giờ đều đang tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.
Người ta nhất thời không thể nào tiếp thu được cách nói này. Thực ra chỉ cần chúng ta thay đổi góc nhìn thì sẽ minh bạch ngay thôi, Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, tu luyện có tám vạn bốn nghìn pháp môn. Ở Trung Quốc có rất nhiều pháp lớn của Phật gia lưu truyền trong dân gian, đơn truyền qua các thời đại khác nhau, Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni đương nhiên cũng đếm không xuể. Đây là điều ẩn chứa trong “Tây Du Ký” nhưng lại có thể tiết lộ một bí mật khác.
“Tây Du Ký” có kết cấu vô cùng đồ sộ, mở đầu là nói về nguồn gốc của trời, đất, con người. Nói “Số của trời đất, là 12 vạn 9 nghìn 6 trăm tuổi làm một nguyên” (một nguyên là 129.600 năm). Sự hình thành và xuất hiện của trời, đất, con người cũng chỉ là theo chu kỳ mấy vạn năm lịch sử. Nhưng trong truyện nói rằng Ngọc Hoàng Đại Đế đã trải qua 1.750 kiếp, mỗi kiếp là 129.600 năm. Hiển nhiên là Ngọc Hoàng Đại Đế tồn tại trước cả trời đất. Trong “Tây Du Ký” nói rằng Bồ Đề Tổ Sư cũng là “Lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư”. Nhưng không nói ông đã trải qua bao nhiêu kiếp, cũng là trải qua bao lần thành-trụ-hoại-diệt của trời đất và con người, cũng giống như Bồ Đề Tổ Sư đã tồn tại trước cả trời đất. Thực ra nhiều chính giáo trên thế giới đều giảng về lịch sử của Thần Sáng Thế, con người là do Thần tạo ra. Mục đích tạo ra con người là để Thần nơi thượng giới xuống đến phàm gian mà hoàn trả tội nghiệp của họ, đồng thời chờ đợi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền ở tầng thấp nhất trong vũ trụ – nhân gian, để có cơ duyên đồng hóa với Chính Pháp, từ đó làm cho chúng sinh nơi thiên thể mà họ đại biểu có thể được đắc cứu trong Chính Pháp của vũ trụ. Con người sinh ra là nhờ cha mẹ, cũng chỉ là một phương thức tồn tại và sinh sôi mà Thần thiết đặt ra cho con người mà thôi. Thần đến thế gian thì cũng chỉ có thể lấy phương thức sinh tồn thế này mà thôi. Tôn Ngộ Không lấy hình thức con khỉ sinh ra từ tảng đá là muốn nói với thế nhân rằng, con người có tiên thiên, có thông linh, bản tính tiên thiên của con người cùng với vũ trụ không có sự khác biệt. Thế còn tiên thiên của con người là gì? Có miêu tả thế nào cũng không thể miêu tả được rõ ràng. Lấy Tu Bồ Đề mà nói, ông là vị Đại Pháp Sư trải qua bao nhiêu kiếp, trước khi đến nhân gian ông đã tồn tại rồi. Nhưng một sinh mệnh cao cấp thế này, khi đến nhân gian cũng phải lấy hình tượng của con người để xuất hiện. Mà khi sáng tác “Tây Du Ký” yêu cầu bản tính tiên thiên của con người phải có hình thức sinh mệnh tồn tại để con người có thể tiếp thu được, lại lấy hình thức sinh ra đến thế gian này mà con người có thể tiếp thu thì mới được, đây chính là nguyên do Tôn Ngộ Không sinh ra từ tảng đá.
Nói về con người trên thế giới ngày nay, rất nhiều người họ không biết được rằng đã luân hồi chuyển sinh tại thế gian bao nhiêu lần rồi. Có lẽ nguồn gốc sinh mệnh của người đó đến từ tầng thứ rất cao, ban đầu chỉ có một mục đích duy nhất khi xuống nhân gian này, đó chính là để đắc được Đại Pháp của vũ trụ. Nhưng trải qua sự luân hồi dài đằng đẵng, họ đã bị mê mờ nơi nhân gian rồi. Không để cho nhân loại bị mê mờ đi chính là mục đích mà “Tây Du Ký” được truyền ra cho thế nhân, đó là vì để lưu lại cho con người thế gian một cơ hội khai mở bản tính khi Đại Pháp vũ trụ khai truyền, vì sự hồng truyền của Đại Pháp vụ trụ nơi thế gian mà đặt định nền móng. Trong “Chuyển Pháp Luân” bài giảng thứ chín có giảng: “Người ta nói: ‘Ta đến xã hội người thường, giống như đến khách sạn, tá túc vài ngày, rồi vội rời đi’. Một số người cứ lưu luyến nơi này mãi, quên cả nhà của bản thân mình.”
Miêu tả về Bồ Đề Tổ Sư trong “Tây Du Ký” thực ra chính là sự tái hiện bản tính của con người: “Không tịch tự nhiên tùy biến hóa, chân như bản tính nhậm vi chi; Dữ thiên đồng thọ trang nghiêm thể, lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư.” Người đắc đạo chân chính thì bản tính và thân thể hoàn toàn hợp nhất.
Nói đến đây, còn có một vấn đề nữa đã vô cùng rõ ràng, đó chính là mối quan hệ giữa Ngọc Hoàng Đại Đế cùng Tôn Ngộ Không, Bồ Đề Tổ Sư, và Đường Tăng. Từ góc độ tự thân tu luyện mà nói, họ là cùng một thân thể, bởi vì Ngọc Hoàng Đại Đế là chủ tể của thân thể, thì có chỗ nào khác với Đường Tăng? Như vậy thì số kiếp mà Bồ Đề Tổ Sư trải qua cũng chính là 1.750 kiếp mà Ngọc Hoàng Đại Đế trải qua.
Đây là chúng ta đứng từ góc độ tu luyện cá nhân mà nói. Đứng ở góc độ toàn nhân loại mà nói, tam giới là có tồn tại, Thiên Cung cũng là có tồn tại, Ngọc Đế tồn tại trong tam giới và Ngọc Đế trong tu luyện của Tôn Ngộ Không là không thể xem như tương đồng. Sự tu luyện cá nhân của Ngọc Đế nói là thật cũng được mà nói là hư cấu cũng được, rất nhiều là hình tượng hóa một cách ví von, trong “Tây Du Ký” có cách xử lý thế này, đó là từ góc độ truyền tải một tư tưởng đạo lý nhất định và sự giáo hóa của tác phẩm nghệ thuật mà suy xét cân nhắc. Tuy nhiên Thiên Cung và Ngọc Hoàng cùng chư Thần trong tam giới nữa, họ lại tồn tại thật sự, trong “Tây Du Ký” là mượn dùng từ góc độ tu luyện cá nhân để miêu tả. Cho nên nếu không nhìn từ góc độ tu luyện cá nhân, thì thắng cảnh nơi thiên quốc, chư Thần, Phật, Bồ Tát, cũng là độc lập không liên quan.
Văn hóa Trung Quốc là văn hóa Thần truyền, dường như những an bài trong lịch sử có biết bao ‘Thiên ý’ ở trong đó! Trung Quốc thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, mà hướng Nam đối ứng trong ngũ hành thuộc về hỏa. Theo quan hệ tương sinh tương khắc trong ngũ hành, mộc sinh hỏa, gọi là ‘mộc chi tử’, mộc (木) và tử (子) hợp lại chính là một chữ Lý (李), điều này cùng với điều tiết lộ ở phần đầu bài về danh tính của Phật Di Lặc đến thế thế gian truyền chính Pháp vào thời mạt pháp mạt kiếp là hoàn toàn giống nhau. Vào thời Đường, kinh mà Đường Tăng thỉnh là cho người dân triều Đường, danh tính của Đường Thái Tông là Lý Thế Dân đã bao hàm yếu tố này rồi.
Con người thế gian tiếp thu “Tây Du Ký” mà không có trở ngại nào. Điều này làm cho tôi nghĩ đến những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, bề ngoài thì người ở tất cả các tầng lớp đều có, từ những giáo sư đại học, quan viên chính phủ, người giàu có, cho đến công nhân, nông dân, trẻ nhỏ, rồi có những người lớn tuổi không biết chữ, đều có thể tiếp thu những Pháp lý mà Sư phụ Lý Hồng Chí giảng mà không có chút trở ngại nào. Trong Pháp Luân Đại Pháp xác thực là có những điều của Đạo gia như kinh mạch, âm dương, ngũ hành. Pháp Luân Đại Pháp là công pháp lấy Phật gia là chủ đạo, nhưng bề ngoài cơ bản không có liên quan đến ‘tứ đại’ giảng trong Phật giáo, điều này là nhất trí với “Tây Du Ký”. Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun Performing Arts) do những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp thành lập, được mệnh danh là “chương trình đệ nhất thế giới”, liên tiếp mấy năm liền đều lấy những nội dung trong “Tây Du Ký” để diễn. Trong vở múa “Kim Hầu xuất thế” năm 2012, hình tượng vị Phật nắm Tôn Ngộ Không trong lòng bàn tay chính là hình tượng người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp – Ngài Lý Hồng Chí. Hàm ý trong đó làm cho người ta phải nghĩ sâu xa hơn.
Mở màn chương trình dạ hội Thần Vận năm 2014 càng làm chấn động người ta hơn, tiết lộ một cách sâu xa hơn về bản tính của sinh mệnh. Nơi thiên quốc, Sáng Thế Chủ mở lời ở trên đỉnh của đại khung vũ trụ: “Ai nguyện theo ta hạ thế Chính Pháp?” Mà trải khắp khung thể vũ trụ từ nơi cao nhất cho đến nơi thấp nhất lại là từng tầng từng tầng thiên thê (thang lên trời), tầng tiếp cận gần với thế gian nhất là bốn chữ vàng: ‘địa, thủy, hỏa, phong’. Điều này thuyết minh rằng, Sáng Thế Chủ khi đến nhân gian đã sớm đặt định cơ sở để con người trong tương lai có thể đắc Pháp, tất cả lịch sử đều là vì Sáng Thế Chủ xuống nhân gian và sự trở về của nhân loại tương lai mà làm những chuẩn bị.
‘Đất, nước, lửa, gió’ là những vật chất cơ bản cấu tạo nên thế giới được giảng trong Phật giáo. Phật giáo truyền vào Trung Quốc trong những năm đầu thời Đông Hán. Trên vũ đài của Thần Vận, Thần Phật hạ xuống thế gian chuyển sinh thành người, người ta vừa hát vừa nhảy múa, trên các ngọn cờ tung bay trong gió có một chữ “Hán”, điều này nói rõ chính là triều Hán. Sau khi bài hát “Giá thị chân âm” (Đây là lời chân thật) kết thúc, tiếp theo là vở múa “Hán phong khởi lệ” (Cảnh sắc tươi đẹp triều Hán). Đối chiếu với việc chúng ta giải “Tây Du Ký”, kết hợp với lịch sử Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc, thì có thể nhìn ra, trong mười đời chuyển sinh của Kim Thiền Tử, lần chuyển sinh đầu tiên cũng chính là thời kỳ Phật giáo bắt đầu truyền nhập vào Trung Quốc. Nét đẹp của “Tây Du Ký” không thể diễn tả bằng lời. Chúng sinh của biết bao thế giới thiên quốc đã vì sự hồng truyền của Đại Pháp ngày hôm nay mà đặt định cơ sở từ rất lâu rồi!
Chúng ta cùng xem lại ca từ của bài hát “Đây là lời chân thật”: “Tôi không biết bạn là ai, cho dù bạn ở nơi góc phố nào, tôi biết rằng con người thế gian phần lớn là đến từ Thiên thượng, vì để chờ đợi Sáng Thế Chủ, Ngài giúp bạn trừ bỏ tội nghiệp thì bạn mới có thể trở về nơi Thiên Đường. Thần Phật đến thế gian ma quỷ tất sẽ trở nên điên cuồng, chớ có tin những lời dối trá của con ma đỏ, vì nó không cho bạn nối lại Thánh duyên, mau tìm đệ tử Đại Pháp để hiểu rõ sự thật, đó là điều mà bạn chờ đợi hàng nghìn vạn năm, đó là hy vọng cuối cùng của bạn.” Những lời ca của bài hát này chính là đang khai mở Phật tính bị chôn giấu sâu thẳm trong tâm hồn con người.
Cuối cùng, tôi tin rằng đoạn Pháp sau đây trong cuốn “Chuyển Pháp Luân” của Sư phụ Lý Hồng Chí có thể giúp bạn phá mê: “Bởi vì công của chúng ta luyện được rất lớn; [điều] luyện được tương đương với cả vũ trụ. Như vậy mọi người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai ‘gia’ lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất kỳ ‘gia’ nào cũng không cấu thành nên vũ trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây cũng có những điều trong Đạo gia.”
(Hết)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128193
Ngày đăng: 29-04-2014

(Sưu tầm)
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên