- Tham gia
- 26/10/06
- Bài viết
- 1,343
- Điểm tương tác
- 592
- Điểm
- 113
Ngộ chân tâm là ngộ chân tâm, tìm quả vị tu hành tức là chưa ngộ chân tâm. Giống như gà con đã nở rồi thì lại hỏi gà mẹ rằng "Vỏ trứng của con đâu" !!!
Ngộ chân tâm tương ưng Thường tịch quang tịnh độ, dich nghĩa là "vắng lặng". Thì tìm cái gì? Cái gì tìm?
Mới biết các vị thôi vào diển đàn đi !
Dành thời gian quán chiếu.
Ngộ chân tâm tương ưng Thường tịch quang tịnh độ, dich nghĩa là "vắng lặng". Thì tìm cái gì? Cái gì tìm?
Mới biết các vị thôi vào diển đàn đi !
Dành thời gian quán chiếu.
14. Tuyết Nham Khâm Thiền sư dạy:
Thời giờ không đợi người, một chớp mắt đã qua đời khác, lúc thân thể còn tráng kiện sao không dốc chí học hỏi cho thấu nguồn tột đáy. Chúng ta có cái diễm phúc gì mà ngày nay được ở trong Tăng đường ấm cúng, tại pháp hội của Tổ sư, trên ngọn danh sơn Đại trạch Thần long thế giới này. Ăn thì cơm cháo ngon lành, uống thì nước nôi ấm áp. Nếu không dốc chí học hỏi giáo lý cho tận cùng, triệt để, là các ông tự thả trôi đời mình cam chịu trôi lăn, thật là kẻ hạ liệt ngu si! Nếu thật là mờ mịt không biết, sao không thưa hỏi các bậc tiên tri ? Phàm những khi có người hỏi đạo, các bậc Trưởng lão chỉ dạy, hoặc nói ngang nói dọc sao không ghi nhớ xét nghĩ rốt ráo thử cái đó là cái gì ?
Sơn tăng (Ngài tự xưng) xuất gia lúc năm tuổi, làm thị giả thượng nhơn, mỗi khi Ngài cùng khách luận đạo đều lặng tâm lóng nghe, liền biết có việc này, lòng tin chắc chắn khởi sự học tọa thiền. Năm 16 tuổi làm Tăng, 18 tuổi đi hành khước. Đến chỗ Hòa Thượng Song Lâm Viễn, thực tập công phu từ sáng đến chiều không ra khỏi ngõ, dù vào liêu của chúng cũng chỉ đi đến giá phía sau. Vòng tay trước ngực, không ngó hai bên, chỉ nhìn trước không hơn ba thước. Ban đầu khán chữ KHÔNG, chợt niệm đầu phát khởi, liền phản quán trở lại, bỗng được một niệm như băng lạnh, tâm lóng lặng trong trẻo không diêu động, hơn một ngày và khoảng một khắc (15 phút) không nghe tiếng chuông trống.
Năm tôi 19 tuổi dừng tại Linh Ẩn, được thơ Xử Châu gởi đến. Trong thơ nói : "Nghe ông thực tập công phu như nước lạnh, việc ấy không hay, hai tướng động và tịnh phải đoạn dứt. Phàm tham thiền phải khởi nghi tình, nghi ít ngộ ít, nghi nhiều ngộ nhiều…". Được Xử Châu chỉ bảo, tôi liền đổi thoại đầu khán "càn niệu quyết" [Càn niệu quyết : có người hỏi Tổ Vân Môn : "Thế nào là Phật ?" Tổ đáp: "Càn niệu quyết" (đồ hốt phẩn)]. Một bề đông nghi tây nghi, khán ngang khán dọc, lại bị hôn trầm, tán loạn giao công, không được một khắc yên tịnh. Tôi bèn dời sang Tịnh Từ. Được bảy huynh đệ kết bạn tọa thiền, giao ước không đấp mền và không kề lưng xuống chiếu. Ngoài ra, có Tu Thượng tọa mỗi ngày ngồi trên bồ đoàn in tuồng "thiết quyết tử" [Thiết quyết tử : Dáng sừng sừng chăm chăm đáu đáu in tuồng cây giá áo sắt.] khi bước xuống đi mở đôi mắt, xuôi hai tay cũng tợ "thiết quyết tử". Muốn gần gũi Ngài để hỏi thoại đầu, mà không được. Nhơn hai năm thân không nằm, bị hôn trầm hành rất khổ sở. Bèn một buông, tất cả đều buông. Sau hai tháng, mới chỉnh đốn được sự tu tập trước, lần lần tinh thần hồi phục. Lâu nay cốt mong đạt được bản hoài, nên không nằm quên ngủ ; nhưng không ngủ không được, đến giữa đêm buồn ngủ muồi phải ngủ một giấc, thức dậy mới có tinh thần.
Một hôm, bên hành lang gặp Tu Thượng-tọa, mới một lần được gặp Ngài. Tôi liền hỏi : "Năm rồi, muốn nhờ thầy dạy câu thoại đầu, tại sao thầy cứ tránh tôi ?". Thượng tọa bảo : "Người chơn chánh biện đạo không có rảnh mà cắt móng tay, huống là dạy thoại đầu". Tôi hỏi : "Hiện giờ tôi bị hôn trầm, tán loạn đuổi không đi, phải làm sao ?". Thượng tọa dạy : "Tại ông không mãnh liệt, phải lên Bồ đoàn ngồi thẳng xương sống, gom toàn lực vào câu thoại đầu, không màng đến hôn trầm, tán loạn". Tôi y lời dạy của Thượng tọa thực hành công phu, bỗng nhiên quên cả thân tâm, trong trẻo sáng suốt cả ba ngày đêm, hai con mắt không nhắm. Ngày thứ ba, sau buổi ngọ trai, tôi kinh hành ngoài tam môn, chợt gặp Thượng tọa. Thượng tọa hỏi : "Ông thực hành công phu thế nào ?". Tôi thưa : "Được đạo". Thượng tọa hỏi : "Ông nói thế nào được đạo ?". Tôi lặng thinh không thể trả lời, lại tăng thêm mê muội. Toan quay vào thiền đường tọa thiền, chợt gặp Thủ tọa. Thủ tọa bảo : "Ông chỉ mở sáng đôi mắt, xem thử cái ấy là cái gì ?". Tôi lại bị đề thêm một câu thoại đầu, vội vã vào Thiền đường tọa Thiền. Vừa lên ngồi Bồ đoàn, bỗng nhiên trước mặt mở sáng như tuồng đất lỡ. Trạng thái này không thể trình bày cho người hiểu được, không thể lấy các tướng thế gian thí dụ được. Tôi bèn bước xuống đơn tìm Thượng tọa. Thượng tọa thấy, liền bảo : "Tốt lắm ! tốt lắm". Rồi nắm tay tôi dẫn đi một vòng trên bờ liễu trước cửa chùa. Ngước nhìn trời đất xum la vạn tượng, những vật mắt thấy tai nghe xưa nay là đáng chán, đáng bỏ, cho đến vô minh, phiền não từ trước đến giờ đều là Diệu minh của mình, lưu xuất từ chơn tánh. Hơn nửa tháng không khởi xao động. Rất tiếc ! không gặp bậc Tôn túc sáng suốt hướng dẫn nên không tiến lên được, phải dừng trụ nơi đây. Không thể vượt được chỗ thấy biết, làm ngăn ngại chánh tri kiến, mỗi khi ngủ cảnh khác lúc thức. Chỉ thú của công án thì lý hội, còn "núi bạc vách sắt" [Núi bạc vách sắt : Linh tánh cao vút khó với tới, thí dụ như núi bạc vách sắt khó vịn được.]thì không hiểu. Tuy gần gũi những vị Tiên sư chưa đạt đạo, cũng nhiều năm nhập thất, thăng tòa, mà không có một lời nào giải quyết được sự nghi ngại trong tâm. Trong kinh giáo và những lời Ngữ lục cũng không cứu được bệnh này. Ôm ấp cái nghi này trong lòng ngót 10 năm.
Một hôm, ở Thiên mục, tôi kinh hành trên điện Phật, mắt chợt thấy một gốc Bá cổ, vừa thất liền phát tỉnh, cảnh giới được lâu nay là vật ngăn ngại, chợt nhiên tiêu tán, như trong nhà tối hiện mặt trời. Từ đây không còn nghi sanh, nghi tử, nghi Phật, nghi Tổ mới được thấy chỗ đứng của Kính Sơn Lão Nhơn, vui vẻ an trụ nơi đây 30 năm.