Hoa Nghiêm- Huyền Môn

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Kính Bạn Tham Trang, Bạn VNBN và các Bạn.
VQ xin sám hối với các Bạn, nhất là với Bạn VNBN. Vì mình chưa thấu triệt Pháp Thân Như Lai, mà vội nói về Pháp Thân Như Lai nên gây ra các Bạn khó hiểu được.

Vâng ! Có lẽ Bạn VNBN cũng có lý khi nói về Pháp Thân.(Vì Bạn ấy cũng rất siêng năng nghiêng tầm kinh điển).

Thôi thì Kính đề nghị Các Bạn: CHÚNG TA NÊN KIẾN HÒA ĐỒNG GIẢI. - Để cùng tiến bộ trong Chân Lý Phật Đà.(còn tốt hơn là tranh hơn thua để không ai được lợi ích.( Chắc cũng ít có ai dám tự hào mình thấu triệt tất cả tam tạng kinh điển nhà Phật !)

Vậy nếu hưởng ứng. Kính mời các Bạn trình bày về sự hiểu biết về Pháp Thân của mình. Và cũng yêu cầu chúng ta nên thảo luận trong tinh thần huynh đệ cùng là Đệ tử Phật.
Mô Phật.

Cũng nhân đây kính thưa Các Bạn:
Vấn đề Pháp Thân Phật có lẻ rất nhiều ý kiến, nhiều tài liệu, nhiều kinh điển nói đến. Chắc chắn sẽ rất nhiều bài cho đề mục này. Do đó VQ kính xin các Bạn Đề mục này VQ sẽ tách ra thành một Chủ đề riêng.- Lấy tên là

Tìm hiểu về Pháp Thân Phật.-

cũng ở Mục Giao Lưu tư tưởng này.

Mong các Bạn thông cảm cho phép.
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 20 * 3/. DUY TÂM HỒI CHUYỂN THIỆN THÀNH MÔN - Tịch & Chiếu.

Mọi sự vật hiện hữu trong cuộc đời đều bắt nguồn từ “Như lai tạng tính thanh tịnh Chân Tâm“mà kiến tạo nên.

Tâm làm chủ tất cả. Cho nên trong kinh nói: Tâm tạo chư Như lai, nhược bằng nghịch chuyển “tức thị sinh tử”; mà thuận chuyển thì “sinh tử thị niết bàn”.

* Thế nào là Thuận & Nghịch ?

  • Thuận chuyển: Là xoay Tâm về Bản Thể Chân Như.- Gọi là Hồi Quang phản chiếu.
  • Nghịch chuyển: Là xoay Tâm theo hiện tượng, thức tình Vọng động.(Trục sắc thinh nhi tham nhiễm.Thập triền thập sử,Tích thành hữu lậu chi nhơn.Lục căn lục trần,Vọng tác vô biên chi tội.)

+ Tổ dạy: Quy căn đắc Chỉ- Tuỳ Chiếu thất tông. Nghĩa là "về nguồn" (Thuận chuyển) được Tông chỉ. Mà chạy "theo Chiếu" (nghịch chuyển) thì mất Tông chỉ.

Chân Tâm (Phật tính- Bản Thể- chân như Tâm) vốn không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không nhơ, không sạch. Bản thể của ấy là trong sáng tròn đầy, chu biến khắp pháp giới bao la. Tâm ấy là chủ động tất cả.

Ví dụ như: Vàng và sư tử hoặc ẩn hoặc hiển tùy trường hợp, hoặc một hoặc nhiều, thật ra cả hai đều không có tự tánh, tất cả đều xoay quanh và biến chuyển theo tâm. Dù nói về sự hay về lý (bản thể hay hiện tượng) thì cả hai đều do tâm mà có sự thành lập và có cái vị trí của mình. Cái này gọi là Duy Tâm Hồi Chuyển Thiện Thành Môn.

* Ở ví dụ trên: Sư tử không có tự tánh mà vàng cũng không có tự tánh.- Tướng (sư tử), tánh (vàng ròng) là từ tâm chúng ta mà ra. Giống như khi ta chơi nhạc vậy, chơi ra một bản nhạc rồi thôi, bị vướng vào một bản nhạc thì tâm trạng bị kẹt.

Do Tâm mới có Lý và Sự. Do Tâm mới có vạn hữu sinh thành và biến dịch. Vậy Tâm là chính yếu.- Đây là lập trường căn bản của bộ kinh Hoa Nghiêm chủ trương “Nhất thiết duy tâm tạo”.

* Pháp môn “Duy Tâm thối chuyển thiện thành” cũng có ý nghĩa: Các pháp đều tương tức vô ngại hay Tâm tức Cảnh, Cảnh tức Tâm,

  • Khi Cảnh tịch thì Cảnh là Tâm,
  • khi Tâm chiếu thì Tâm là Cảnh.

+ Tịch và Chiếu chỉ là hai mặt của một đồng tiền.

* Tất cả mười huyền môn đều thiết lập bởi một nguyên lý của sự pháp hiện kỳ diệu của tâm, không ngoài giáo lý nhất tâm.

Thế giới bên ngoài là sự phóng hiện của tâm và từ thế giới này ta cũng trực ngộ được Chân tâm, đây là nguyên lý “tùng tướng hiển tánh”. Không có vấn đề vật chất ngoài tinh thần, hay tinh thần ngoài vật chất, cả hai yếu tố chung một bản thể.

* Chuyển Tâm (như bài kệ):

Kiến văn như huyễn uế,
Tam giới nhược không hoa.
Văn phục ế căn trừ,
Trần tiêu giác viên tịnh.

Nghĩa:
Thấy nghe như huyễn mộng
Ba cõi như không hoa
Điều phục tâm tan mộng
Sạch bụi trời trong xanh

Hoa Nghiêm- Huyền Môn Sinh_t10


Pháp môn “Duy tâm hồi chuyển thiện thành” tức là pháp môn tương tức vô ngại: Tâm tức cảnh và cảnh tức tâm. Khi cảnh “Tịch” thì cảnh là tâm, khi tâm “Chiếu” thì tâm là cảnh, nó không phải hai, mà chẳng phải một. (Vô Nhất - Bất Nhị).
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 21 * 3/. DUY TÂM HỒI CHUYỂN THIỆN THÀNH MÔN - Pháp Tạng - kim sư tử.- 4 Duyên khởi.

Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm.(rõ nét Môn Duy tâm hồi chuyển).

Kim Sư Tử Chương.- Nội dung sách này được chia làm 10 môn:
1. Minh duyên khởi: Vàng vốn không có tự tính, chỉ do bàn tay khéo léo của người thợ đúc chạm mà thành con sư tử, nghĩa là hình tướng sư tử tùy duyên mà hiện.
2. Biện sắc không: Thể tính của sư tử tuy là không nhưng cũng không trở ngại gì cho việc phô bày hình tướng sư tử.
3. Ước tam tính: Đem Sư tử tình hữu (về mặt tình thì có sư tử nhưng về mặt lí thì không), Sư tử tự hữu(sư tử có giả)và Kim tính bất biến (chất vàng không thay đổi) phối hợp với 3 tính Biến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên thành thực của Duy thức thì: - Sư tử tình hữu: Sự tồn tại của sư tử là do tư tưởng hư cấu chủ quan (Biến kế sở chấp). - Sư tử tự hữu: Sự tồn tại của sư tử là nhờ duyên bên ngoài mà hiện ra một cách giả có(Y tha khởi). - Kim tính bất biến: Người thợ khéo léo đúc vàng thành hình dáng sư tử, nhưng tính chất của vàng thì không thay đổi(Viên thành thực).
4. Hiển vô tướng: Về mặt thể tính mà nói thì tất cả đều là vàng, ngoài vàng ra không có sư tử cho đến tướng trạng của sư tử.
5. Thuyết vô sinh: Sư tử tuy có sinh diệt, nhưng bản thể của vàng thì không thêm, bớt.
6. Luận ngũ giáo: Về mặt duyên khởi của sư tử, tất cả đều bàn rõ yếu chỉ của Hoa nghĩa Ngũ giáo(Ngu pháp Thanh văn giáo, Đại thừa Thủy giáo, Đại thừa Chung giáo, Đại thừa Đốn giáo, Nhất thừa Viên giáo).
7. Lặc thập huyền: Lặc, nghĩa là thâu tóm tất cả. Tông Hoa nghiêm mượn bản chất, tướng trạng của sư tử làm thí dụ, để trình bày từng môn trong thập huyền môn của Pháp giới duyên khởi.
8. Quát lục tướng: Dùng 6 tướng tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại của sư tử để bàn rõ về lí Lục tướng viên dung .
9. Thành bồ đề: Nhờ vào các pháp môn nói ở trên, khi thấy sư tử liền thấu suốt được lí tất cả pháp hữu vi xưa nay vốn vắng lặng, đồng thời xa lìa thủ xả, vào biển Nhất thiết trí, rồi tiến lên được Nhất thiết chủng trí mà ngộ đạo.
10. Nhập Niết bàn: Nếu thấy rõ được tướng sư tử và vàng đều không còn, thì chẳng sinh phiền não, vĩnh viễn xa lìa gốc khổ, chứng nhập Niết bàn. Hệ thống tông Hoa nghiêm tuy phức tạp, sâu xa, khó hiểu, nhưng Kim sư tử chương đã tóm tắt được những điểm cốt yếu một cách rõ ràng, cho nên đã trở thành bộ sách nhập môn của học thuyết Hoa nghiêm. Về các bản chú sớ của sách này thì có: Hoa nghiêm kinh Kim sư tử chương chú, 1 quyển, của Thừa thiên; Vân gian loại giải, 1 quyển của Tịnh nguyên; Quang hiển sao, 2 quyển, của Cao biện. [X. Phật tổ thống kỉ Q.39; Phật tổ lịch đại thông tải Q.15; Hoa nghiêm tông kinh luận chương sớ mục lục; Chư tông chương sớ lục Q.1]

Thuở xưa- hoàng hậu Võ Tắc Thiên mời thầy Pháp Tạng vào cung, bà rất thích nghe thầy thuyết pháp. Hôm đó thầy giảng về kinh Hoa Nghiêm. Thấy trong cung có một con sư tử bằng vàng, thầy cầm lên và lấy nó làm ví dụ để giảng về giáo lý Hoa Nghiêm cho hoàng hậu nghe. Sau buổi giảng thầy về chùa và ghi chép lại những điều mình đã giảng. Và đó là tác phẩm : Hoa Nghiêm Kim Sư Tử Chương.
Với thí dụ con sư tử vàng .- 1. Minh duyên khởi:

Vàng không có tự tính, nhờ có thợ khéo mà tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên nên gọi nó là duyên khởi.

Duyên khởi là sự sinh khởi của các pháp tùy trên điều kiện. Duyên là Nhân duyên, khởi là sinh khởi, Vàng không có tự tính, nhờ có điều kiện là thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Chúng ta nên biết rằng con sư tử thầy Pháp Tạng cầm trên tay để thuyết pháp là một ví dụ thôi. Thầy dùng hai hình ảnh để nói chuyện là vàng và sư tử, thêm vào đó là ông thợ. Trong sự liên hệ giữa vàng và sư tử có ông thợ chen vô trong đó. Nếu không có ông thợ thì vàng không bao giờ thành sư tử.
Vàng chính nó không có tự tính, nhờ điều kiện có thợ giỏi mới có tướng sư tử hiện ra. Sự có mặt của sư tử chỉ do duyên mà thôi, không duyên thì không có sư tử. Đó gọi là duyên khởi.

Trong đoạn này, chính nhờ ông thợ nên tướng sư tử mới hiện. Nhờ quán sát nên chúng ta mới thấy vàng trong tướng sư tử. Nếu không
có sư tử thì làm sao thấy được vàng. Không thấy sóng thì làm sao thấy nước? Nói tới duyên sinh ta thấy có hai loại: ông thợ là duyên
khởi, vàng là tánh khởi. Tánh cũng là một loại duyên.
Bây giờ chúng ta dùng một ví dụ khác là nước và sóng. Giữa nước và sóng cũng có một liên hệ như là giữa vàng và sư tử. Sự liên hệ đó là anh chàng gió. Nếu gió không can thiệp vào thì làm gì có sóng nổi lên cho chúng ta thấy. Ở đây cũng vậy, nếu không có ông thợ khéo thì làm sao có được con sư tử. Qua đó, chúng ta thấy có ba điều kiện:
1. Vàng tượng trưng cho bản thể, nền tảng của những hiện tượng . Cũng như nước là nền tảng của sóng thì vàng là nền tảng của sư tử. Nếu không biểu hiện ra sư tử thì vàng biểu hiện ra cái gì? Nó có thể biểu hiện ra đôi bông tai, chiếc vòng hoặc dây chuyền.
Vàng cũng như chân như, như bản thể, là nền tảng cho những hiện tượng phát khởi. Nếu không có sự can thiệp của ông thợ thì chúng ta không thấy được sư tử, đôi bông tai..., không thấy được vàng, cũng như nếu không có sự can thiệp của gió thì không thấy được sự liên hệ giữa nước và sóng.
2. Sư tử tượng trưng cho thế giới hiện tượng , hiện tượng giới. Trong khi học bài này ta phải biết con sư tử vàng thầy Pháp Tạng cầm trên tay chỉ là một ví dụ. Chúng ta đừng nên kẹt vào ví dụ.
Vàng không có tự tính, nhưng con sư tử thì có có, có không, có đẹp, có xấu. Đợt sóng thì có xuống, có lên, có cao, có thấp, nhưng nước thì không có tính đó. Sư tử, bông tai, dây chuyền...,có lớn, có nhỏ, có đẹp, có xấu. Nhưng vàng thì vượt thoát những cái đó, không nhỏ, không to, không đẹp, không xấu. Chúng ta không thể nói gì về vàng vì vàng là vô tính. Nhờ không có tự tính nên mới có ra được những hiện tượng trên thế giới (thế giới hiện tượng).
3. Ông thợ tượng trưng cho duyên, cho điều kiện. Nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi.

Chúng ta có thể nói đến bốn giáo lý về duyên khởi:
1- Nghiệp cảm duyên khởi
2- A lại gia duyên khởi
3- Tánh duyên khởi
4- Pháp giới duyên khởi

Tóm lại, duyên khởi có ít nhất là 4 loại: 1.Nghiệp cảm duyên khởi, 2.A lại gia duyên khởi, 3.Tánh duyên khởi và 4.Pháp giới duyên khởi.

Tất cả các cái hợp thành một cái và một cái chứa đựng tất cả các cái.

Đó là giáo lý của kinh Hoa Nghiêm. Trong giáo lý Hoa Nghiêm, người ta phân biệt ra Lý và Sự. Lý là thế giới của bản thể (bản thế giới) và Sự là thế giới của hiện tượng (hiện tượng giới).

Hoa Nghiêm- Huyền Môn Duyzon12


Cánh cửa thứ mười: Duy Tâm Hồi Chuyển Thiện Thành Môn, thì:
Vàng và sư tử hoặc ẩn hoặc hiển tùy trường hợp, hoặc một hoặc nhiều, thật ra cả hai đều không có tự tánh, tất cả đều xoay quanh và biến chuyển theo tâm. Dù nói về sự hay về lý (bản thể hay hiện tượng) thì cả hai đều do tâm mà có sự thành lập và có cái vị trí của mình. Cái này gọi là Duy Tâm Hồi Chuyển Thiện Thành Môn.

Sư tử không có tự tánh mà vàng cũng không có tự tánh. Tướng, tánh là từ tâm chúng ta mà ra. Giống như khi ta chơi nhạc vậy, chơi ra một bản nhạc rồi thôi, bị vướng vào một bản nhạc thì không được.

Đó là một cách nói, chia ra làm tướng, làm tánh, làm vàng, làm sư tử, nhưng tất cả đều do tâm mà hiện ra. Sự thành lập của các pháp trên cơ bản nhân duyên, sự liên hệ giữa tánh và tướng, tất cả thứ đó đều do thi thiết của tâm mà thôi. Rốt cuộc tất cả chỉ là tâm, cái đó gọi là duy tâm hồi chuyển thiện thành môn .
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 22 * 3. DUY TÂM HỒI CHUYỂN.- Nhập Pháp Giới- Niết Bàn - Sanh tử.


Pháp Giới là gì?

- Đáp: Trong khung cảnh hẹp, pháp giới chỉ cho giới hạn của mỗi pháp. Trong phạm vi rộng, pháp giới chỉ cho toàn thể không gian rộng bao la.

- Pháp giới là bản thể chung của vạn pháp, tuy vô hình, bất sanh bất diệt .- Nhưng muôn ngàn hiện tượng sai khác tác động lẫn nhau, trợ duyên cho nhau nhưng không ngăn ngại nhau vì tất cả đều ở trong một trật tự nhịp nhàng cho đến nỗi “một trở thành tất cả và tất cả trở thành một”- và muôn ngàn hiện tượng vọng hiện từ Pháp Giới (gọi là Hóa Thân).

- Pháp giới còn gọi là pháp thân hay pháp tánh, pháp tướng, tức là nói đến lý tánh chân thật, thanh tịnh, bình đẳng của vạn pháp.

- Về mặt Chân Đế.- Pháp giới còn gọi là Như Lai tàng, ở khắp nơi trong vũ trụ, vốn sẵn có từ vô thỉ, không thể dùng giác quan hay trí tưởng tượng mà thấy được. Kinh Kim Cang nói “Như Lai, tức vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai”.

- Pháp giới là đầu mối vọng hiện ra muôn sự vật, lớn không ngoài, nhỏ không trong “Phóng chi tắc cai la thế giới, thu chi tắc tế nhập vi trần” (Buông ra thì trùm khắp pháp giới, thâu lại thì nhỏ hơn vi trần), nên pháp giới là tâm của vũ trụ, đồng thới cũng là tâm của con người và tùy theo pháp môn,

- Pháp giới có những danh hiệu khác nhau như: Chơn như, Chơn tâm, Chơn không, Tỳ Lô Giá Na, Bản lai diện mục, Như ý châu, Niết Bàn, Phật tánh. v.v...

Vì vậy pháp giới có đủ cả hai mặt chơn đế và tục đế, bản thể và hiện tượng, tánh và tướng mà hai mặt này lại tương dung, tương nhiếp với nhau như sóng và nước.

Ở Duy tâm hồi chuyển- Niết Bàn - Sanh tử.- Duy Tâm hiện này. Là nói : Niết Bàn - Sanh tử là do hành giả tu Phật. Có nhập Pháp Giới hay chưa mà ra.

Nếu thuận chuyển, gọi là niết bàn. Nên kinh nói “Tâm tạo ra các Như Lai”. Nếu nghịch chuyển đó là sanh tử. Nên nói “Ba cõi hư vọng chỉ do tâm tạo”.

Sanh tử, niết bàn đều chẳng ngoài tâm. Ngoại thế giới hay nội thân thể đều là cảnh duy tâm biến hiện. Thế nên, chẳng thể khẳng định rằng lớn hay nhỏ, rộng hay hẹp, tâm hay cảnh, tăng hay giảm v.v.... Kinh Niết Bàn nói “Phật tánh không phải tịnh cũng không phải bất tịnh”. Tịnh cùng bất tịnh đều duy tâm. Nếu lìa tâm hoàn toàn không có pháp khác.

Mọi sự vật hiện hữu trong cuộc đời đều bắt nguồn từ "Như lai tạng tính thanh tịnh chân tâm"mà kiến tạo nên. Tâm làm chủ tất cả. Cho nên trong kinh nói: Tâm tạo chư Như lai, nhược bằng nghịch chuyển "tức thị sinh tử"; mà thuận chuyển thì "sinh tử thị niết bàn". Chân Tâm (Phật tính) vốn không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không nhơ, không sạch. Bản thể của Chân Tâm là trong sáng tròn đầy, chu biến khắp pháp giới bao la. Tâm là chủ động tất cả.

Nếu thuận chuyển, gọi là niết bàn. Nên kinh nói “Tâm tạo ra các Như Lai”. Nếu nghịch chuyển đó là sanh tử. Nên nói “Ba cõi hư vọng chỉ do tâm tạo”. Sanh tử, niết bàn đều chẳng ngoài tâm. Thế nên, chẳng thể khẳng định rằng tánh là tịnh hay bất tịnh. Kinh Niết Bàn nói “Phật tánh không phải tịnh cũng không phải bất tịnh”. Tịnh cùng bất tịnh đều duy tâm. Nếu lìa tâm hoàn toàn không có pháp khác. Kinh Lăng Già nói “Ngoài tâm không có cảnh giới, không có trần, chỉ do hư vọng mà thấy”.

Tâm làm chủ tất cả. Cho nên trong kinh nói: Tâm tạo chư Như lai, nhược bằng nghịch chuyển “tức thị sinh tử”; mà thuận chuyển thì “sinh tử thị niết bàn”.

* Thế nào là Thuận & Nghịch ?
  • Thuận chuyển: Là xoay Tâm về Bản Thể Chân Như.- Gọi là Hồi Quang phản chiếu.
  • Nghịch chuyển: Là xoay Tâm theo hiện tượng, thức tình Vọng động.(Trục sắc thinh nhi tham nhiễm.Thập triền thập sử,Tích thành hữu lậu chi nhơn.Lục căn lục trần,Vọng tác vô biên chi tội.)
  • Tổ dạy: Quy căn đắc Chỉ- Tuỳ Chiếu thất tông. Nghĩa là "về nguồn" (Thuận chuyển) được Tông chỉ. Mà chạy "theo Chiếu" (nghịch chuyển) thì mất Tông chỉ.
Chân Tâm (Phật tính- Bản Thể- chân như Tâm) vốn không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không nhơ, không sạch. Bản thể của ấy là trong sáng tròn đầy, chu biến khắp pháp giới bao la. Tâm ấy là chủ động tất cả.

“Nhập Pháp Giới” là phẩm tâm cao nhất của toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm. Nhập Pháp Giới.- Chính là Nhập Niết Bàn (theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm).- Nhưng: Niết Bàn và Sanh Tử chỉ do duy Tâm Hồi chuyển Thiện Thành. (như phẩm Nhập Pháp Giới- kinh Hoa Nghiêm nói rõ).(theo Thích Nữ Tâm Thảo.- Luận văn tốt nghiệp).

Hoa Nghiêm- Huyền Môn Thin_t10
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 23 * 4. Môn Thuần tạp ẩn tàng đầy đủ công đức - Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại.

  • Thuần là tinh thuần,
  • Tạp là hổn tạp.

(Trong giáo lý Đạo Phật) Phàm trong thực tế thì sự vật do duyên sanh, nên là "tạp", nhưng trong cái "tạp" là hàm chứa cái "thuần".- Đó là "Thể NHƯ".

Lại trong cái "thuần" (Như), lại hàm chứa cái "tạp" (duyên sanh). Ví như chúng sanh do 5 uẩn hợp lại mà có (tạp). Nhưng mỗi uẩn thật chất đều là "Tánh không", là NHƯ (thuần). Đó là lý CHƯ TÀNG THUẦN TẠP CỤ ĐỨC MÔN.

Chân lý này nói ý nghĩa Thuần và Tạp, Chủ và Khách, Tâm và Vật, Tính và Tướng, Lý và Sự, Chất lượng và năng lượng, Vật chất và Tinh thần, hay Bản thể và Hiện tướng …đều dung thông vô ngại, khiến cho cái nọ trở thành cái kia, cái kia trở thành cái nọ, không còn mâu thuẩn với nhau, do đó mà mọi sự xích mích đều có thể giải tỏa, mọi bất đồng đều có thể tiêu tan, không còn phân biệt Ngã và Phi ngã, không còn cái ta nào hơn cái ta của toàn thể sự vật chung quanh mà ta ý thức được.

Mỗi chúng sinh là một phần tử của toàn thể.Mỗi chúng sinh đều có phật tính, điểm linh quang của toàn khối Chân Như.

Vậy, chúng sinh này với chúng sinh khác chỉ là một, không khác. Xã hội với cá nhân đều liên quan mật thiết với nhau, Hai bên đều là Chủ, là Bạn cho nhau để cùng sinh tồn, biến dịch..

Thuần là cái tự thân, cái riêng, tạp là cái hòa đồng, cái chung.

Tất cả các nhóm hiện hữu có đầy đủ tất cả các tính thuần và tạp của nó cùng một lúc.

Lấy ví dụ con xúc xắc để giúp cho ta hiểu thêm được ý của “cái một nằm trong cái tất cả”. Con xúc xắc có sáu mặt: nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục. Nếu để như thế này thì ta chỉ thấy mặt lục thôi nhưng thật ra đàng sau nó có cả một nền tảng, mà nếu không có thì làm gì có mặt lục này. Nhìn thì thấy một mặt hiển, những mặt ẩn phía sau thì ta không thấy được. Hãy tưởng tượng nếu năm mặt kia không có thì mặt này có hay không? Lấy năm mặt kia đi thì mặt này cũng tiêu luôn. Chúng ta biết rằng cái một chứa đựng cái tất cả. Chúng ta tưởng đó là một nhưng nhìn cho sâu thì cái một đó chứa cái tất cả.

Ban đầu mình thấy mặt trên không phải là mặt dưới, mặt trái không phải là mặt phải. Nhưng mặt trên làm gì có nếu không có mặt dưới? Mặt dưới làm gì có nếu không có mặt trên? Một cái chứa đựng tất cả các cái. Mỗi cái có đầy đủ thuần và tạp, đó gọi là chư tạng thuần tạp cụ đức.

Đây là lối diễn tả của huyền môn cũ (cựu huyền môn) của tổ thứ nhất tông Hoa Nghiêm là thầy Đỗ Thuận. Sau này thầy Pháp Tạng, tổ thứ ba, có sửa lại cho hay hơn. Huyền môn mới (tân huyền môn) của thầy Pháp Tạng là:

* Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại

Quảng là rộng, hiệp là hẹp. Cái rộng chứa cái hẹp mà cái hẹp cũng chứa cái rộng một cách rất tự do, không hề có sự ngăn ngại nào. Chúng ta cứ tưởng cái lớn chứa cái nhỏ, ai ngờ cái nhỏ cũng chứa được cái lớn. Con mắt sư tử chúng ta tưởng nó nhỏ, ai ngờ con mắt sư tử thâu chứa cả toàn thân sư tử. Nếu không có toàn thân sư tử đứng sau lưng thì không có con mắt đó. Con mắt sư tử nhỏ nhưng chứa được toàn thân sư tử. Một hạt bụi cũng vậy, một thiền sư đời Lý đã nói:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng,
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Có nghĩa là trời đất có thể đặt gọn lên đầu một sợi tóc. Càn khôn là trời đất. Mao là sợi lông, mao đầu là đầu sợi lông. Đem hết tất cả trời đất đặt lên đầu một sợi lông. Đó chứng tỏ rằng cái một chứa đựng cái tất cả (the whole is in the one).

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung có nghĩa là mặt trời và mặt trăng có thể được nhét gọn vào trong một hột cải. Hột cải rất nhỏ nhưng nó bao trùm được cả thế giới. Cái một bao trùm cái tất cả.
viên dung.jpg
 
Last edited:

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,419
Điểm tương tác
169
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
Kính Thầy Viên Quang Và Các Đạo Hữu
Theo Thiển Ý Của An Long Thì Chư Tổ MÔ TẢ Các CẢNH GIỚI :

* Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại

Quảng là rộng, hiệp là hẹp. Cái rộng chứa cái hẹp mà cái hẹp cũng chứa cái rộng một cách rất tự do, không hề có sự ngăn ngại nào. Chúng ta cứ tưởng cái lớn chứa cái nhỏ, ai ngờ cái nhỏ cũng chứa được cái lớn. Con mắt sư tử chúng ta tưởng nó nhỏ, ai ngờ con mắt sư tử thâu chứa cả toàn thân sư tử. Nếu không có toàn thân sư tử đứng sau lưng thì không có con mắt đó. Con mắt sư tử nhỏ nhưng chứa được toàn thân sư tử. Một hạt bụi cũng vậy, một thiền sư đời Lý đã nói:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng,
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Có nghĩa là trời đất có thể đặt gọn lên đầu một sợi tóc. Càn khôn là trời đất. Mao là sợi lông, mao đầu là đầu sợi lông. Đem hết tất cả trời đất đặt lên đầu một sợi lông. Đó chứng tỏ rằng cái một chứa đựng cái tất cả (the whole is in the one).

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung có nghĩa là mặt trời và mặt trăng có thể được nhét gọn vào trong một hột cải. Hột cải rất nhỏ nhưng nó bao trùm được cả thế giới. Cái một bao trùm cái tất cả.
-Là Những CẢNH GIỚI ; CHÂN THẬT => NHƯ THẬT =NHƯ THỊ...NHƯ NHƯ...=ĐANG CHÂN THẬT HIỆN HÀNH =...SẨY RA NƠI THÂN TÂM Khi Hành Giả CÔNG PHU THEO ĐÚNG CHÁNH PHÁP =CÓ THỂ KIẾN NHẬN -TRỰC NHẬP-TRỰC GIÁC ...NHƯ THẬT !
...Khi Hành Giả THUẦN THỤC Ứng Sử TÂM VÔ SANH Khi TRỰC NHẬP NHƯ THỊ...= PHÁP GIỚI ĐANG HIỂN HIỆN VỚI VẬN ĐỘNG CHÂN THỰC...=THÂN & CĂN =TRONG VÔ SANH (TÁNH KHÔNG TÁNH )==> DẦN CHUYỂN ĐỔI THANH TỊNH HÓA THÀNH CÁC TỐ CHẤT TƯƠNG ƯNG-TƯƠNG ĐỒNG Với TỐ CHẤT ĐANG... HIỆN HÀNH Của PHÁP GIỚI TÍNH (TÁNH KHÔNG TÁNH )
= Khi MỘT CĂN Được CHUYỂN ĐỔI THANH TỊNH HÓA VIÊN THÔNG = VỠ ÒA ==>CÁC GIỚI HẠN Với TỰ TÍNH ( TẠM TÍNH =LỖI NHỊP SÓNG NĂNG LƯỢNG ) Được GIẢI THOÁT (Thoát Khỏi Các QUY LUẬT HẠN CHẾ Với CẤU TRÚC Của NGÃ CHẤP TÀNG )==>SÓNG NĂNG LƯỢNG CẤU TRÚC NƠI THÂN & CĂN =LIÊN THÔNG VỚI KHÍ GIỚI PHÁP GIỚI = Nên NƠI MỘT CĂN BÉ NHỎ ==>PHẢN ÁNH ĐẦY ĐỦ CHÂN THẬT MỌI HIỆN TƯƠNG TRONG PHÁP GIỚI ( THẾ GIỚI SÓNG NĂNG LƯỢNG = BỂ KHÔNG HẢI KINH MÔ TẢ )
-Sự KIẾN NHẬN NÀY CHÂN THẬT NHƯ THẬT = TRỰC NỘI , TRỰC GIÁC =Dạng HIỆN LƯỢNG TỰ TÂM HIÊN....
- Ví Dụ ;HIỆN TRẠNG NÀY Giống Như MỘT CHIẾC TI VI Được CHẾ TẠO- GIẢI MÃ =BẮT ĐƯỢC TẦN SỐ SÓNG VÔ TUYẾN TƯƠNG ƯNG Và HIỆN HIỆN CHÂN THẬT HÌNH ẢNH,ÂM THANH ,SẮC MẦU Mà = SÓNG VÔ TUYẾN CHỦ CHUYỀN TẢI .
@ -Chư NHƯ LAI Đã CHỈ DẪN CHÂN THẬT CỤ THỂ NHƯ KINH ĐIỂN MIÊU TẢ Và Đã TỰ THÂN THỰC HÀNH VÀ THÀNH TỰU =CHUYỂN ĐỔI TOÀN THỂ THÂN &CĂN = TOÀN GIÁC =BÌNH ĐẲNG (ĐẾN TỪNG LỖ CHÂN LÔNG...)=THOÁT KHỎI GIỚI HẠN VẬN HÀNH HẠN CHẾ DO CÁC ĐẶC THÙ Của HỮU VI PHÁP =TOÀN TRIỆT.
...Và Khi Đó ; MỘT LỖ LÔNG , MỘT ĐIỂM NHỎ ...TRÊN CƠ THỂ = BÌNH ĐẲNG NHƯ THẬT =LÀ TOÀN ĐỒ PHÁP GIỚI TÍNH...Và VỚI BA LA MẬT =CÁC TỐ CHẤT THÀNH TỰU Chuyển Đổi THÀNH CHỦNG TỬ PHẬT (TỲ LÔ GIÁ NA ) =TỰ PHÓNG CHIẾU HÀO QUANG TOÀN KHẮP PHÁP GIỚI Làm LỢI ÍCH CHO =TOÀN THỂ...
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
-PHẨM BẤT TƯ NGHÌ (Trang 200 -263 Tập 3.Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch )
-PHẨM NHƯ LAI THẬP THÂN TƯỚNG HẢI ( Trang 264-292 Tập 3 .Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Việt Dịch )
-PHẨM NHƯ LAI TÙY HẢO QUANG MINH CÔNG ĐỨC ( Trang 293- 305 Tập 3.Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Việt Dịch )

#-Còn CHÂN THẬT Về THẾ GIỚI HIỆN TƯỢNG Về LÝ =THÌ BÌNH ĐẲNG NHƯ QUY LUẬT VẬN HÀNH CỦA PHÁP GIỚI TÍNH ( NHƯ LAI TẠNG )
@-Về SỰ =MỖI HIỆN TRẠNG CHÂN THẬT= Vì TỐ CHẤT CẤU THÀNH HIỂN HIỆN CÓ ĐẶC THÙ VỚI TỰ TÁNH ,TỰ TƯỚNG ( TẠM TÁNH,TẠM TƯƠNG ...Và CŨNG ĐANG =BIẾN CHUYỂN ) =NÊN CÓ GIỚI HẠN Và BẤT BÌNH ĐẲNG Theo DUYÊN HIỂN HIỆN NÊN NÓ.
Nên =BỎ PHÁP GIỚI TÍNH Vào MỘT HẠT CẢI...KHÔNG CHÂN THẬT ! ???
...HIỆN TRẠNG NÀY CHƯ VỊ GIẢI THOÁT Có THỂ THỊ HIỆN = CHÂN THẬT = CHỈ SẨY RA TRONG THÂN& TÂM = ĐÃ ĐƯỢC CHUYỂN HÓA THANH TỊNH CÓ ĐỦ CẤU TRÚC TỐ CHẤT =TƯƠNG ƯNG , TƯỜNG ĐỒNG VỚI KHÍ THỂ PHÁP GIỚI TÍNH ...Và CHỈ NHỮNG HÀNH GIẢ Đã CHUYỂN ĐỔI THÂN & TÂM =THANH TỊNH CẤU TRÚC TỐ CHẤT = TƯƠNG ƯNG ,TƯƠNG ĐỒNG....Mới KIẾN NHẬN và TRỰC GIÁC , TRỰC NỘI ...ĐẦY ĐỦ = NHƯ THỊ ....KHÔNG QUA = Ý THỨC VỌNG TƯỞNG !
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,151
Điểm
113
ha ha ha[smile]

bác AL này cũng thiệt tình [smile] .. chỗ cần nhấn mạnh cái TA .. thì cứ vòng vòng nói là Ý THỨC [smile]


(3) TÂM THỂ NHƯ VẬY ... LÀ NHƯ VẬY [smile]


Cho 1 thí dụ luôn:

(a) trói cái nồi đất đã nung cho cứng thiệt cứng với cái cái nắp nồi chung 1 CỤC [smile]

leo lên lầu ba thảy xuống nền gạch sân trước [smile]

XOÀNG ---> Cả nồi lẫn nắp nổ tung ra hỏng biết bao nhiêu mảnh [smile]

---> nhưng mà .. CÁI NỒI CÁI NẮP NỒI CHÚNG NÓ CÓ NÓI GÌ ĐÂU ..bởi vì CHÚNG .NÓ CHẲNG CÓ VÔ MINH GÌ [smile]


(b) vậy trói bác AL .. cột 2 tay 2 chân bịt miệng [smile] .... lôi lên 3 tầng cầu thang [smile] ... SAO Y BẢN CŨ [smile] .. vậy thì ánh mắt .. tâm địa của bác AL sẽ ra ra sao ? [smile]

A ahhahahah .. THẤY CHƯA [smile] ... TẠI "TÂM THỂ MÌNH HỎNG THANH TỊNH" cho nên ... mới là VÔ MINH XẢY RA TÙM LUM {smile] .... gỡ cái giẻ bịt miệng thì chắc phải nghe chửi BANH NHÀ [smile]


** (I) ĐẠI Ý PHẬT PHÁP

Lâm Tế hỏi đại ý phật pháp ba lần đều bị Hoàng Bá "CHỈ CHỖ TỘT CÙNG" ... ĐẬP 3 LẦN [smile]

---> tới khi LÂM TẾ ... Ờ hiểu rồi ..trở về định thoi HOÀNG BÁ .. thì ngài ấy bảo sao ? [smile]

ẤY ẤY ... ĐỪNG CÓ CHỌC CON CỌP [smile]

--(II) CÒN CÁI ĐÓ SAO ? .. CÁI ĐÓ LÀ GÌ ? [smile]

Sư ngồi thiền không để ý đến ai. Tổ thấy thế bèn hỏi:

"Ở đây làm gì?"

Sư đáp: "Quán tâm."Tổ hỏi: "Ai quán, tâm là vật gì?"
Sư nghe không đáp được bèn đứng dậy làm lễ, hỏi và biết được Tổ là Thiền sư Đạo Tín. sư chỉ Tổ vào hang phía sau tạm nghỉ. Thấy thú dữ lăng xăng, Tổ ra vẻ sợ, sư hỏi:

"Ngài vẫn còn cái đó sao?"Tổ hỏi lại: "Cái đó là cái gì?" Bức họa mô tả cuộc vấn đáp giữa Tứ tổ Đạo Tín và Thiền sư Pháp Dung.
Sư không đáp được. Một lát sau, Tổ viết lên chỗ ngồi của sư chữ "Phật" (佛). Sư trông thấy giật mình, Tổ hỏi:

"Vẫn còn cái đó sao?" - Pháp Dung & Đạo Tín

*** CÒN CÁI ĐÓ .. thì NHƯ THỊ CÁI ĐÓ .. chứ không thì NHƯ THỊ CÁI GÌ ? [smile] .. biết mình biết ta .. trăm trận trăm thắng [smile]


----> Con Trâu có thể lắm thần thông .. trắnng tinh chui lọt vào luôn vách núi ... chỉ còn CHỪA MỖI CÁI ĐUÔI TRÂU [smile] ... vì cái đuôi .. là thần thông tuyệt địa [smile]


ờ mà đúng hông? [smile]
 
Last edited:

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17 Thg 1 2024
Bài viết
149
Điểm tương tác
117
Điểm
43
Nên =BỎ PHÁP GIỚI TÍNH Vào MỘT HẠT CẢI...KHÔNG CHÂN THẬT ! ???

Ha ha

Cái ý của đoạn trên nó là như thế này

Đấm 1 phát vào tay bác cũng bảo sao mày đấm TAO?

Sút 1 phát vào mông bác cũng bảo sao mày đá TAO?

Thế nào? Bác là cái mông hay là cái tay ?

:D

Có nghĩa là trời đất có thể đặt gọn lên đầu một sợi tóc. Càn khôn là trời đất. Mao là sợi lông, mao đầu là đầu sợi lông. Đem hết tất cả trời đất đặt lên đầu một sợi lông. Đó chứng tỏ rằng cái một chứa đựng cái tất cả
 

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17 Thg 1 2024
Bài viết
149
Điểm tương tác
117
Điểm
43
Con Trâu có thể lắm thần thông .. trắnng tinh chui lọt vào luôn vách núi ... chỉ còn CHỪA MỖI CÁI ĐUÔI TRÂU [smile] ... vì cái đuôi .. là thần thông tuyệt địa [smile]
Ha ha

Câu này hay nè lão huynh!

Có 1 đoạn hỏi đáp mà tiểu đệ đọc ở đâu đó như vầy :

Hỏi :

Trăm năm sau chúng sinh đi về đâu?

Đáp:

Trạch mù dùi núi bạc

:D
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,419
Điểm tương tác
169
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
----> Con Trâu có thể lắm thần thông .. trắnng tinh chui lọt vào luôn vách núi ... chỉ còn CHỪA MỖI CÁI ĐUÔI TRÂU [smile] ... vì cái đuôi .. là thần thông tuyệt địa [smile]
-Ngài Mục Kiền Liên Là Vị Thánh THẦN THÔNG ĐỆ NHẤT Trong Các Đệ Tử Của Đức Phật Thời Bấy Giờ =Vẫn Chịu Chết Bầm Dập do Ngoại Đạo Phục Kích =>ĐÓ LÀ NHƯ THỊ Của = TỰ TÁNH NHƯ LAI (...Con Trâu chẳng có tánh ngựa,con Ngựa chẳng có tánh trâu-KINH LĂNG GIÀ -Trang 184 .Việt dịch Thích Duy Lực ) ,Trong NHƯ LAI TẠNG
-Nhưng Đức Phật Và Chư Thánh Chúng Với SỰ THẤY BIẾT CHÂN THẬT Trong CHÂN TÁNH =THẤY RÕ RÀNG MINH BẠCH NHƯ THỊ ...=Ngài Mục Kiền Liên Không " CHẾT "
@ -Đó Là LÝ TÁNH CHÂN THẬT Của PHÁP GIỚI TÁNH
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,151
Điểm
113
ha ha ha [smile]

(3) Như Thị Thể [smile]

tròn đồng thái hư

không thiếu không dư [1]

tìm thể ---> Chân Như

hiển thể ---> Vạn Pháp [2]

tựa ỷ trăm năm [smile]

tay cầm cây cuốc

phản bổn hoàn nguyên

trạch mù ... dùi núi [smile]


Như mù .. Như điếc

thẳng đó hoàn nguyên

am không một vật [smile]

ĐỐT ... sạch sành sanh [smile] [2]



(1) Tín Tâm Minh - Tâm Thể theo Tín Tâm Minh
tròn đồng thái hư
không thiếu không dư [smile]

lưỡng do thủ xả
vì thế chẳng như - Tín Tâm Minh, Tăng Xán

*** Biết như chẳng thủ .. Biết vật .. tầm không [smile]



(2) Như Thị Thể - Lê Bảo Kỳ


(2) Thập Mục Ngưu Đồ 7, 8 9


Vong ngưu tồn nhân

Kị ngưu dĩ đắc đáo gia san
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
Hồng nhật tam can do tác mộng
Tiên thằng không đốn thảo đường gian


Cưỡi trâu về thẳng đến gia san
Trâu đã không rồi --> người cũng nhàn
Mặt nhật ba sào vẫn say mộng
Dây roi dẹp bỏ bên cạnh sàng

Người, trâu đều quên[sửa | sửa mã nguồn]​


Nhân ngưu câu vong
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
Bích thiên liêu khoát tín nan thông
Hồng lô diệm thượng ---> tranh dung tuyết
Đáo thử phương năng ---> hợp tổ tông



Roi gậy, người trâu thảy đều không
Trời xanh thăm thẳm tin ---> chẳng thông [smile]

Lò hồng rừng rực ---> nào dung tuyết [smile]

Đến đó mới hay ---> hiệp Tổ Tông [smile] **

** Tam muội chân hỏa .. do biết phí công ... mà đốt sạch [smile]

Tam Muội ---> nghĩa là Chánh Định




(9) Trở Về Nguồn Cội

Phản bản hoàn nguyên

Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
Tranh như trực hạ nhược manh lung
Am trung bất kiến am tiền vật
Thủy tự mang mang hoa tự hồng


Phản bản hoàn nguyên ---> đã phí công
Đâu bằng
---> thẳng đó tợ mù câm
Trong am ---> chẳng thấy ngoài vật khác
Nước tự mênh mông hoa tự hồng



ờ mà đúng hông? [smile]
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 24 - 5. Môn Thuần tạp ẩn tàng đầy đủ công đức - Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại.

  • Thuần là tinh thuần,
  • Tạp là hổn tạp.

(Trong giáo lý Đạo Phật) Phàm trong thực tế thì sự vật do duyên sanh, nên là "tạp", nhưng trong cái "tạp" là hàm chứa cái "thuần".- Đó là "Thể NHƯ".

Lại trong cái "thuần" (Như), lại hàm chứa cái "tạp" (duyên sanh). Ví như chúng sanh do 5 uẩn hợp lại mà có (tạp). Nhưng mỗi uẩn thật chất đều là "Tánh không", là NHƯ (thuần). Đó là lý CHƯ TÀNG THUẦN TẠP CỤ ĐỨC MÔN.

Chân lý này nói ý nghĩa Thuần và Tạp, Chủ và Khách, Tâm và Vật, Tính và Tướng, Lý và Sự, Chất lượng và năng lượng, Vật chất và Tinh thần, hay Bản thể và Hiện tướng …đều dung thông vô ngại, khiến cho cái nọ trở thành cái kia, cái kia trở thành cái nọ, không còn mâu thuẩn với nhau, do đó mà mọi sự xích mích đều có thể giải tỏa, mọi bất đồng đều có thể tiêu tan, không còn phân biệt Ngã và Phi ngã, không còn cái ta nào hơn cái ta của toàn thể sự vật chung quanh mà ta ý thức được.

Mỗi chúng sinh là một phần tử của toàn thể.Mỗi chúng sinh đều có phật tính, điểm linh quang của toàn khối Chân Như.

Vậy, chúng sinh này với chúng sinh khác chỉ là một, không khác. Xã hội với cá nhân đều liên quan mật thiết với nhau, Hai bên đều là Chủ, là Bạn cho nhau để cùng sinh tồn, biến dịch..

Thuần là cái tự thân, cái riêng, tạp là cái hòa đồng, cái chung.

Tất cả các nhóm hiện hữu có đầy đủ tất cả các tính thuần và tạp của nó cùng một lúc.

Hoa Nghiêm- Huyền Môn Tcong11


Lấy ví dụ con xúc xắc để giúp cho ta hiểu thêm được ý của “cái một nằm trong cái tất cả”. Con xúc xắc có sáu mặt: nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục. Nếu để như thế này thì ta chỉ thấy mặt lục thôi nhưng thật ra đàng sau nó có cả một nền tảng, mà nếu không có thì làm gì có mặt lục này. Nhìn thì thấy một mặt hiển, những mặt ẩn phía sau thì ta không thấy được. Hãy tưởng tượng nếu năm mặt kia không có thì mặt này có hay không? Lấy năm mặt kia đi thì mặt này cũng tiêu luôn. Chúng ta biết rằng cái một chứa đựng cái tất cả. Chúng ta tưởng đó là một nhưng nhìn cho sâu thì cái một đó chứa cái tất cả.

Ban đầu mình thấy mặt trên không phải là mặt dưới, mặt trái không phải là mặt phải. Nhưng mặt trên làm gì có nếu không có mặt dưới? Mặt dưới làm gì có nếu không có mặt trên? Một cái chứa đựng tất cả các cái. Mỗi cái có đầy đủ thuần và tạp, đó gọi là chư tạng thuần tạp cụ đức.

Đây là lối diễn tả của huyền môn cũ (cựu huyền môn) của tổ thứ nhất tông Hoa Nghiêm là thầy Đỗ Thuận. Sau này thầy Pháp Tạng, tổ thứ ba, có sửa lại cho hay hơn. Huyền môn mới (tân huyền môn) của thầy Pháp Tạng là:

* Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại

Quảng là rộng, hiệp là hẹp. Cái rộng chứa cái hẹp mà cái hẹp cũng chứa cái rộng một cách rất tự do, không hề có sự ngăn ngại nào. Chúng ta cứ tưởng cái lớn chứa cái nhỏ, ai ngờ cái nhỏ cũng chứa được cái lớn. Con mắt sư tử chúng ta tưởng nó nhỏ, ai ngờ con mắt sư tử thâu chứa cả toàn thân sư tử. Nếu không có toàn thân sư tử đứng sau lưng thì không có con mắt đó. Con mắt sư tử nhỏ nhưng chứa được toàn thân sư tử. Một hạt bụi cũng vậy, một thiền sư đời Lý đã nói:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Có nghĩa là trời đất có thể đặt gọn lên đầu một sợi tóc. Càn khôn là trời đất. Mao là sợi lông, mao đầu là đầu sợi lông. Đem hết tất cả trời đất đặt lên đầu một sợi lông. Đó chứng tỏ rằng cái một chứa đựng cái tất cả (the whole is in the one).

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung có nghĩa là mặt trời và mặt trăng có thể được nhét gọn vào trong một hột cải. Hột cải rất nhỏ nhưng nó bao trùm được cả thế giới. Cái một bao trùm cái tất cả.
 

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17 Thg 1 2024
Bài viết
149
Điểm tương tác
117
Điểm
43
Bài hay quá thầy ơi! :D

Đọc xong sáng sủa khắp nơi luôn. Cảm tạ thầy ạ!


Hỏi:
Không nghĩ thiện không nghĩ ác đang lúc ấy thế nào?

Đáp: 1 khối chân như

Hỏi:

Khi khởi niệm lúc ấy thế nào?

Đáp:

Tùy!

Biển đã khởi ra sóng.
Tùy lập mà 2 tướng,
thấy 2 chẳng phải 1
Thì ông bị cột rồi

Nếu thấy 2 chỉ 1
Biển sanh sóng thành biển
Chúc mừng ông đạt Ngộ
Sanh lại được vô sanh
:D
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 25 - 6 Nhân Đà La Võng cảnh giới môn -Ý nghĩa Pháp giới duyên khởi.

Đây là lý Pháp giới trùng trùng duyên khởi,như lưới châu của trời Đế Thích.

* Tấm lưới báu trang hoàng ở cung điện của trời Đế Thích. Mỗi mắt lưới đều có kết bảo châu, nhiều vô lượng, mỗi viên bảo châu đều ánh hiện hình ảnh của tất cả các viên bảo châu khác, vô lượng viên bảo châu như thế giao thoa phản chiếu, ánh hiện trùng trùng, vô cùng vô tận.

Duyên Khởi là gì ?
Đáp: Các Pháp không thể tự sinh khởi, Chúng khởi được là nhờ nương vào các pháp khác (duyên).- Nên nói Duyên khởi.

Pháp Duyên Khởi được hiển thị rõ ràng và dễ hiểu qua câu: “Cái này có thì cái kia có. Cái này sinh thì cái kia sinh. Cái này không thì cái kia không. Cái này diệt thì cái kia diệt”.

* Kinh Hoa Nghiêm dùng Nhân Đà La võng để ví Pháp Giới Pháp giới trùng trùng duyên khởi.- Nghĩa là Vũ Trụ hình thành và biến dịch trùng trùng các duyên theo quy luật lưới châu (hoặc gương.- giao thoa, phản ảnh cho nhau).

Kinh Phật nói đến bốn giáo lý về duyên khởi:
1- Nghiệp cảm duyên khởi
2- A lại gia duyên khởi
3- Chân như duyên khởi
4- Pháp giới duyên khởi.
Hoa Nghiêm- Huyền Môn Vhoa110

Ở Môn Giáo này, triển khai về: Pháp giới duyên khởi.

* Chúng ta có thể hình dung: Nhân Đà La Võng cảnh giới .- Là nói : Pháp giới được duyên khởi.- Ví như hình ảnh muôn hình vạn trạng trong ống kính vạn hoa.

* Kinh Hoa Nghiêm dùng Nhân Đà La võng để ví dụ cho - Đây là Lý Duyên Khởi.- Ý nghĩa 1 và nhiều tương tức tương nhập (tức là nhau hòa nhập vào nhau, nương gá vào nhau, giao thoa, phản ảnh lẫn nhau), trùng trùng vô tận của các pháp.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 26 - Nhân Đà La Võng - phản chiếu nội tại.

Nhân đà la là phiên âm chữ Indra tức lấy Phạm Cung La Võng của Cung Trời Đế Thích, còn gọi là "lưới Đế châu".

Sự phản chiếu của hiệu ứng gương (lưới Đế châu); có Nội tại và Ngoại tại.

* Nói về sự phản chiếu nội tại:

* Như trong lãnh vực được bao quanh bằng mảnh lưới Indra (một mảnh lưới với mỗi mắt lưới là một viên ngọc thạch lấp lánh), ở đó những hạt ngọc phản chiếu rực rỡ lẫn nhau. Cũng vậy, những sự kiện thực tế của thế giới đều chen lẫn và chiếu rọi lẫn nhau.- Giao thoa và phản chiếu lẫn nhau là: "Sự phản chiếu nội tại".

* Đây là hình ảnh nói lên ý nghĩa mọi vật trong vũ trụ đều liên quan mật thiết với nhau. Mỗi động tác của từng cá nhân gây ảnh hưởng đến các cá nhân khác trong cộng đồng xã hội đều phải gánh chịu.

Không một lời nói, một việc làm nào lại chẳng gây ảnh hưởng dây chuyền ít nhiều đến phần tử khác. Một cái vẩy tay hay một tiếng động nhỏ cũng có thể phát sinh ra luồng điện lực làm rung chuyển cả bầu khí quyển lan tới các vì tinh tú rất xa trong không gian vô tận.

* Năm 1972, nhà khí tượng học và chuyên gia về lý thuyết hỗn loạn Edward Norton Lorenz đã giới thiệu trước Hiệp hội phát triển khoa học Hoa Kỳ (American Association for the Advancement of Science) một bài nói chuyện có tựa đề Predictability: Does the Flap of a Butterfly's Wings in Brazil Set off a Tornado in Texas? (Dự đoán: Liệu con bướm đập cánh ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?).[2] Trước đó vào năm 1961, trong khi mô phỏng một dự đoán về thời tiết trên máy tính, Lorenz đã lỡ nhập số liệu là 0,506 thay vì 0,506127 như dự định, và do đó đã thu được kết quả dự đoán thời tiết hoàn toàn khác so với tính toán ban đầu.[3] Từ kết quả này Lorenz đã đề cập tới sự ràng buộc chặt chẽ của hệ vật lý đối với các điều kiện ban đầu trong bài nói chuyện. Theo đó một cái đập cánh của con bướm nhỏ bé có thể gây ra sự thay đổi (dù rất nhỏ) trong điều kiện gốc của hệ vật lý dẫn đến kết quả là những thay đổi rất lớn về thời tiết ví dụ như cơn lốc tại một địa điểm cách nơi con bướm đập cách hàng vạn km (hết trích).

- Vâng ! mọi vật trong vũ trụ đều liên quan mật thiết với nhau. Mỗi động tác của từng cá nhân gây ảnh hưởng đến các cá nhân khác trong cộng đồng xã hội . Ý nghĩa Nhân Đà La Võng - phản chiếu nội tại cũng là như thế.

- Không một lời nói, một việc làm nào lại chẳng gây ảnh hưởng dây chuyền ít nhiều đến phần tử khác. Một cái vẩy tay hay một tiếng động nhỏ cũng có thể phát sinh ra luồng điện lực làm rung chuyển cả bầu khí quyển lan tới các vì tinh tú rất xa trong không gian vô tận.

- Trong mỗi bộ phận chi tiết như mắt, tai… của sư tử, cho đến mỗi sợi lông của sư tử đều có sư tử vàng. Sư tử có mặt (đi vào) trong từng sợi lông, đồng thời mỗi sợi lông chứa đựng tất cả sư tử. Mỗi sợi lông đều có vô biên sư tử, và vô biên sư tử đều có mặt trong mỗi sợi lông sư tử. Cứ như thế mà trùng trùng vô tận (lớp này lớp khác đi về vô tận) như là lưới châu của vua trời Phạm thiên. Cái này gọi là Nhân Đà La Võng Cảnh Giới Môn.

* Để Võ Tắc Thiên hoàng đế hiểu được điều này, thầy Pháp Tạng đề nghị làm một nhà kiếng hình tám mặt (bát giác tương tự kính vạn hoa). Thầy đưa hoàng hậu vào trong nhà kiếng, trên tay bà cầm một ngọn nến. Khi nhìn vào một tấm kiếng bà thấy rõ ràng trong đó không chỉ có một ngọn nến (đèn cầy). Khi đèn cầy phản chiếu thì nó gởi hình ảnh đó sang mặt kiếng kế bên và tất cả các mặt kiếng khác. Mặt kiếng bên lại phản chiếu lại, rồi đi vô lại và phản chiếu sang các mặt khác. Điều này cũng xảy ra cho các mặt khác… Như thế không biết bao nhiêu ngọn nến mà kể, không thể dùng toán học (mathematics) mà đếm được. Đó là trùng trùng vô tận.

Giáo lý Hoa Nghiêm cho rằng Vũ trụ chẳng khác nào một sân khấu khổng lồ, trong đó có vô số những sức mạnh chằng chịt, và vô số những phần tử trùng trùng điệp điệp tác động hỗ tương tạo thành những bức tranh muôn màu hòa hợp.

* Cho nên kinh Đệ Thất Địa Tán Thỉnh nói “Trong mỗi vi trần hiện vô lượng vô biên vô số ức Phật thuyết pháp. Đây chính là trí Chánh giác”. Thế gian lại nói “Trong mỗi vi trần hiện vô lượng Phật quốc có núi Tu Di kim cương bao quanh. Thế gian vẫn không bị chèn lấn”. Đây là căn cứ trên khí thế gian. Lại nói “Trong mỗi một vi trần hiện hữu ba đường ác, trời, người và A tu la. Mỗi mỗi nhận lảnh nghiệp báo”. Đây là căn cứ trên chúng sanh thế gian. Lại nói “Một vi trần được thị hiện, tất cả vi trần cũng như vậy. Nơi một vi trần hiện quốc độ. Vi trần của quốc độ đó lại thị hiện. Nên thành vô tận lại vô tận”. Đây chính là PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI như trí, như lý, thật đức như vậy.
Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Bm1010
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 27- Bí mật ẩn hiển câu thành môn .

Nghĩa là cái này hiện thì cái kia ẩn (và ngược lại), đều cùng nhau thành tựu không rời.

Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Hoa_m_10


  • Ví như nhìn bức tường, nếu thấy bức tường (tổng tướng) thì các chi tiết nhỏ nhiệm bên trong (như gạch, đá v.v...) ẩn. Nếu dùng kính hiển vi điện tử để soi, thì thấy các nguyên tử nhỏ nhiệm quay cuồng, lúc đó bức tường (tổng tướng) ẩn.
  • Ví như Khi nhìn con sư tử bằng vàng. Khi chỉ thấy sư tử mà không thấy vàng, trong trường hợp này sư tử hiện ra, vàng thì ẩn dấu đi. Khi nhìn vàng chỉ thấy vàng mà không thấy sư tử, trong trường hợp này vàng biểu hiện còn sư tử ẩn đi.

+ Tám vạn bốn nghìn pháp môn Phật dạy, có pháp nặng về phần tướng, có pháp nặng về phần tính, nhưng Tính-Tướng bất nhị, các pháp đều cùng chung một mục đích, giải thoát con người khỏi vòng luân hồi đau khổ.

+ Câu nói “Tâm là Phật, Phật là Tâm” hàm ý nghĩa: Ẩn và Hiển đều thành. Dụ như ánh sáng của trăng, nơi này nhìn như trăng khuyết mà nơi khác lại thấy trăng tròn trịa, viên mãn…

+ Những hình thức tụng kinh, niệm Phật, lễ bái, cúng dường, bố thí, xây chùa, dựng tháp, in kinh, thực hành hạnh đầu đà… tức là những sự tướng bên ngoài phát ra từ lý thể bên trong, kết quả sẽ đưa tới sự chứng đắc pháp nọ, pháp kia, hay được sinh về những cõi tịnh độ.

* Nói về thuyết tựu thành, nhờ đó mà cái ẩn mật và cái hiển hiện cùng tạo thành một toàn thể bằng hỗ tương chi trì. Nếu cái này ở trong thì cái kia ở ngoài hay ngược lại. Cả hai hỗ trợ lẫn nhau tạo thành một nhất thể.

Các pháp thâu nhiếp lẫn nhau, trong Ẩn có Hiển, trong Hiển có Ẩn Trong lý tương tức, tương nhập của các pháp, có pháp ở trong, có pháp ở ngoài, nhưng trong ngoài cùng một thể Tính.

chúng ta có thể gọi đó là tương biểu Biểu là biểu hiện ra, khi biểu hiện ra thì mình thấy, khi không biểu hiện ra thì mình không thấy. Có khi biểu, có khi vô biểu nhưng vô biểu không có nghĩa là không có đó.

Phật pháp không ly thế gian tướng và niết bàn không ở đâu xa, nó vẫn tàng ẩn trong nếp sống hiện tiền, ngay trong tâm thức mọi người ở tại thế gian này.

Phật pháp tại thế gian,
bất ly thế gian giác.
Ly thế mích Bồ đề,
kháp như cầu thố giác,

Nghĩa:
Pháp của Phật ở trong thế gian,
không lìa thế gian mà có giác ngộ.
Lìa thế gian mà tìm Bồ đề,
chẳng khác nào đi tìm lông rùa sừng thỏ.
(Pháp Bảo Đàn kinh)

* Nếu biết nhìn hai cái Ẩn - Hiển một lượt thì có thể thấy được tất cả đều ẩn hay tất cả đều biểu hiện. Ẩn nghĩa là bí mật, là dấu đi; hiển nghĩa là biểu hiện ra, là hiển trước. Đó là Ý nghĩa - Bí mật ẩn hiển câu thành môn.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 28- Bí mật ẩn hiển câu thành môn .- Pháp Thân - Báo Thân.

Nhìn vào ta, ta có thể thấy ta với tư cách là một chúng sinh có tham, sân, si. Ta không thấy được mặt kia của ta. Mặt kia là Bụt vì ta cũng có hạt giống vô tham, vô sân, vô si và hạt giống từ bi. Hạt giống Bụt bị ẩn, hạt giống chúng sanh hiển. Nhưng nhìn cho kỹ thì thấy có Bụt ở trong ta. Ta có thể làm như thế nào để Bụt hiển ra và chúng sanh ẩn đi. Ví dụ khi ta tập thở, tập thiền hành thì ta làm cho Bụt hiển ra và chúng sanh ẩn đi. Bụt càng hiển lâu chừng nào thì ta càng được hưởng chừng đó. Bụt không ở ngoài ta, Bụt ở trong ta.

Khi vào chùa, ta chắp tay lạy Bụt. Ta thấy có người lạy (tức là ta) và người được lạy (tức là Bụt) đang ngồi trên bàn thờ. Có hai cái rõ ràng đứng ngoài nhau: ta ở đây và Bụt ở trên bàn thờ, hai người hoàn toàn khác nhau. Đó là trật tự ngoại nhiếp. Ta ở ngoài Bụt và Bụt ở ngoài ta. Nhưng nếu quán chiếu thì ta thấy Bụt trong ta và ta ở trong Bụt. Trong kinh Mười nguyện Phổ Hiền ta có thể quán chiếu được có ta trong Bụt, ở đâu có Bụt là có ta.

Trước khi lạy xuống, ta phải quán chiếu theo giáo lý Hoa Nghiêm, có nghĩa là phải thấy Bụt ở trong ta chứ không phải Bụt ngồi trên bàn thờ: "Bạch Đức Thế Tôn, con quán chiếu rằng, Ngài không phải ở ngoài con, Ngài ở trong con và con có thể tiếp xúc được với Ngài ngay ở trong con. Ở đâu có con là ở đó có Ngài, ở đâu có Ngài là ở đó có con." Thấy được thì mới nên lạy xuống. Người lạy và người được lạy không phải là hai thực thể riêng biệt. Như vậy, ta mới tiếp xúc được với Bụt thật. Nếu không, ta chỉ tiếp xúc được với cái tượng Bụt mà thôi.

Lạy Bụt không phải là một sự cầu nguyện, một sự cầu xin hay một hành động tín mộ (act of devotion) mà là một sự quán chiếu.
Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Thực tập cho sâu sắc, cái lạy sẽ trở thành phương pháp thiền quán để quán chiếu sự tiếp xúc với Bụt trong tự thân chứ không phải là sự cầu xin, tín mộ nữa. Ta thấy được sự tương tức giữa ta và Bụt (interbeing between the Buddha and yourself). Ta không có mặc cảm ta là con số không, ta chỉ là khổ đau, còn Bụt là tất cả. Có như vậy thì sự thực tập mới thành công, ta không còn mặc cảm thua sút, đau khổ nữa.

Học giáo lý Hoa Nghiêm, ta phải biết quán chiếu khi nhìn vào hình hài của mình. Chúng ta thấy sự liên hệ của bốn yếu tố (đất, nước, gió và lửa) trong nội thân và ở ngoại thân. Đi sâu hơn nữa ta thấy không khí ta thở không phải là ở trong nội thân chế tạo ra. Chính rừng cây ở ngoài làm ra dưỡng khí cho ta thở. Ta thở và sống được là nhờ không khí ở ngoài thân. Vì vậy thân của ta không phải chỉ là hình hài này, nó là ở ngoài kia nữa. Thái Hư Đại Sư có viết một bài thơ trong đó có câu: Thân ngoại phi thân khước thị thân. Cái không phải thân, ở ngoài thân đó mới chính là thân của mình. The non-body elements out there is your true body. (Như vậy ta hình thành được Pháp Thân- Pháp giới vũ trụ là Thân ta).

Đó là quán thân trong thân. Chúng ta thấy thân của mình lớn như vậy. Ngay trong đạo Bụt nguyên thỉ, quán thân là tiếp xúc được với hình hài của mình. Tiếp xúc cho sâu sắc thì ta thấy hình hài ta cũng là hình hài của tổ tiên, của đất nước, của dòng họ. Vì vậy cái tất cả có trong cái một.

Trong ánh sáng của Hoa Nghiêm thì khi nhìn vào thân, ta phải thấy được những yếu tố “không thân” làm ra thân của ta. Ta tiếp xúc được với cái hiển mà cũng tiếp xúc được với cái ẩn. Ta tiếp xúc được với tổ tiên, quê hương, dòng họ trong thân thể này.

Nhìn vào một mặt ta chỉ thấy mặt đó thôi. Thành ra thực tập là để nhìn vào một mặt để thấy được tất cả các mặt còn lại. Tất cả đều hiển hoặc tất cả đều ẩn, và ta thấy được sự tương tức giữa ẩn và hiển: cái này ẩn thì cái kia hiển, cái này hiển thì cái kia ẩn. Có như vậy thì sự thực tập đi tới một mức rất cao. Khi chúng ta thở vào thì tất cả tổ tiên, ông bà, con cháu đều thở theo. Thấy được như vậy thì chúng ta không bị giam vào ý niệm ta chỉ là hình hài này, cảm thọ này, tri giác này, từ đó chúng ta buông bỏ được tất cả các mặc cảm, thấy được ta là một vị Bụt và báo thân của ta có thể bao trùm cả thế giới. Cho nên sự an vui của ta có liên hệ đến sự an vui của cả thế giới.
(trích TS. Thích Nhất Hạnh)

Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, phẩm Phạm Hạnh (2) đức Thế Tôn giảng cho Ngài Ca Diếp về mười danh hiệu của chư Phật : 1.- Như Lai. 2.- Ứng Cúng. 3.- Chánh Biến Tri. 4.- Minh Hạnh Túc. 5.- Thiện Thệ. 6.- Thế Gian Giải. 7.- Vô Thượng Sĩ. 8.- Ðiều Ngự Trượng Phu. 9.- Thiên Nhân Sư. 10.- Phật Thế Tôn.

- Trong đó ưu điểm nổi trội là Đức Hiệu NHƯ LAI.
K. Kim Cang rằng: Như Lai giả tức chư pháp như nghĩa", có nghĩa là: " Như Lai có nghĩa là chân như của các pháp ", cũng trong kinh nầy một đọan sau, đức Thế Tôn giảng " Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai " có nghĩa là: " Như Lai có nghĩa là không từ đâu tới cả và cũng không đi về đâu cả, cho nên gọi là Như Lai ".- Mà cũng có Nghĩa là Phật từ THỂ NHƯ mà đến, đến rồi lại về NHƯ (Tùng Như sở lai, diệc Như sở khứ).
* Như vậy thì rõ là:

Hệ luận 1: Phật từ CHÂN NHƯ mà thị hiện.- Phật là "TƯỚNG" . Chân Như là "THỂ".

- Hoa Nghiêm. phẩm Như Lai hiện tướng:“Hiện tướng” là Phật thị hiện tướng. Phật vốn là vô tướng, vì muốn giáo hóa tất cả chúng sinh, cho nên ở trong vô tướng mà hiện ra ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.Thị hiện 3 thân, 10 Thân.

“Phẩm” này thuộc về phẩm thứ hai trong Kinh Hoa Nghiêm, nói rõ đạo lý vì sao Như Lai hiện tướng, cho nên gọi là Phẩm Như Lai Hiện Tướng Thứ 2.
Thế nào là thân của chư Phật ? Tức là thân đầy khắp tất cả mọi nơi, tức cũng là tận hư không khắp pháp giới. Phật có ba thân và mười thân.

Ba thân là:
– Pháp thân
– Báo thân
– Ứng thân.

Mười thân là:
– Bồ đề thân
– Nguyện thân
– Hóa thân
– Trụ trì thân
– Tướng hảo trang nghiêm thân
– Thế lực thân
– Ý sinh thân
– Phước đức thân
– Pháp thân
– Trí thân.

k. Hoa Nghiêm.- Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ 1) Đại Bồ-tát Pháp Hỷ Huệ Quang Minh nói:
Pháp thân vốn vô sanh
Mà thị hiện xuất sanh
Pháp tánh như hư không
Chư Phật trụ trong đó
Không trụ cũng không đi
Mọi nơi đều thấy Phật
Vô thể vô sở trụ
Cũng không có chỗ sanh
Không tướng cũng không hình
"Chỗ hiện đều như bóng".

* Như vậy thì rõ là:

Hệ luận 2: Pháp Thân là "Hiện TƯỚNG" của Chân Như. . Chân Như là "THỂ".

- Kinh. Kim Cang: UY NGHI TỊCH TĨNH

Tu-bồ-đề! Nhược hữu nhân ngôn: Như Lai nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhân bất giải ngã sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? Như Lai giả, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai.

DỊCH:

BỐN OAI NGHI ĐỀU TỊCH TĨNH

Này Tu-bồ-đề, nếu có người nói Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, người ấy không hiểu nghĩa của ta nói. Vì cớ sao? Như Lai đó không từ đâu đến cũng không đi đâu nên gọi là Như Lai.

Hàm ý là:

Mọi sự tới – lui, qua – lại, phải – trái… đều là tướng phàm phu, còn bị mắc kẹt trong vòng sắc tướng, chưa thể thoát ra ngoài vòng đối đãi của nhị nguyên được. Pháp còn trong vòng đối đãi là pháp chấp thế gian hay cũng gọi là pháp nhiễm. Pháp lìa tướng siêu xuất thế gian hay còn gọi là pháp tịnh. (Phật Thân là thế)

* Cũng k. Kim Cang dạy: “Này Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao, có thể dựa vào thân ba mươi hai tướng quý để thấy được Như Lai chăng?”. Tu Bồ Đề đáp: “Thưa Đức Thế Tôn không thể, chẳng thể nào dựa vào thân ba mươi hai tướng quý để thấy được Như Lai. Vì sao vậy? Vì Thế Tôn dạy rằng, thân ba mươi hai tướng quý ấy vốn chẳng phải ba mươi hai tướng quý thật, mà chỉ tạm gọi là thân ba mươi hai tướng quý”. (Pháp thân cũng vậy. Phật nói Thân lớn, chẳng phải là Thân lớn (Pháp Thân) mà gọi là Thân lớn vậy thôi) Và, Đức Phật kết luận: “Nếu ai dựa vào thân tướng để mong thấy Phật, nếu ai nương theo âm thanh để cầu thấy Phật, đó là những người mang ý nghĩ lầm lạc, chẳng bao giờ thấy được Như Lai” (Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai).

* Cũng k. Kim Cang dạy: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai.

* Như vậy thì rõ là:

Hệ luận 3: Tất cả Thân.- dù là Như Lai Thân, Pháp Thân, ý Sanh Thân v.v... đều là TƯỚNG của THỂ NHƯ.

- Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Thế Tôn dạy Bồ tát Ðại Huệ về Như Lai Tạng : "... Ðại Huệ ! Có khi nói không, vô tướng, vô nguyện, như thật tế, pháp tánh, pháp thân, niết bàn, ly tự tánh, bất sanh, bất diệt những câu như thế đều nói Như Lai Tàng..."(hết trích)

Ý rằng:
Hiểu nghĩa rốt ráo Như Lai tạng là kho chứa Phật tính hay Chân như. Tạng có 3 nghĩa:

1.- Thu nhiếp lại: Chân như ở trong chúng sanh bao gồm hai mặt hòa hợp và không hòa hợp. Hòa hợp thì sinh ra hết thảy các pháp nhiễm ô, không hòa hợp thì sanh ra hết thảy các pháp thanh tinh. Cả hai Nhiễm pháp và Tịnh pháp đều nằm trong Như lai tính tức Chân như, nên gọi là Như Lai Tạng. Nói cách khác, Chân như bao gồm mọi pháp, Như Lai tạng chứa tất cả các pháp.(Gồm cả Pháp Thân)
2.- Giấu kín che phủ: Khi Chân như ở trong phiền não, bị phiền não che lấp mất tính đức của Chơn như, nó không thể hiện ra được vì lẽ đó gọi là Như Lai tạng.

3.- Có khả năng nuôi dưỡng: Chân như ở trong phiền não, ngậm chứa thâu nhiếp hết thảy công đức quả vị của Như Lai, cho nên gọi là Như Lai tạng.

Như trên vừa trình bày, Như Lai tạng gồm cả tịnh và nhiễm pháp, vậy tu tập là gột trừ phiền não nhiễm ô để chỉ có những tịnh pháp, hiển lộ Chân như.

* Chúng ta thấy rằng Như Lai tạng chứa hết thảy các pháp, vạn hữu (Kể cả Pháp Thân) vốn là Chân như từ Như Lai tạng mà ra, nên vạn hữu duyên sanh mà có là Chân như duyên khởi hay Như Lai tạng duyên khởi vậy.

Hệ luận 4: Nhiễm- Tịnh . Chúng Sanh- Như Lai đều là HIỆN TƯỚNG của THỂ NHƯ. tuỳ theo công đức tu hành, chuyển hoá được bao nhiều mà có tên khác nhau.- Ão Hoá Sanh Thân tức Pháp Thân là ý này.


* 10 Thân Phật.k. H Nghiêm

NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI TRONG KINH HOA NGHIÊM QUA HÌNH ẢNH THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ. Thích Nữ Tâm Thảo (luận văn nghiêng cứu K. Hoa Nghiêm).

(VQ Lượt trích & Bình giải.)
* Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật là tất cả, thông cả vũ trụ, lấy vũ trụ làm pháp giới. Báo thân Tỳ Lô Giá Na Phật ở thế giới Liên Hoa Tạng thuần tịnh giáo hóa hàng Bồ Tát. Đức Phật Thích Ca là hóa thân ở thế giới Ta Bà tùy thuận chúng sanh, dùng vô số phương tiện giáo hóa. Phật tùy căn cơ chúng sanh hiện thân tuy một mà hai, tuy hai mà một không hơn kém khác nhau vậy.

“Tỳ Lô Giá Na” dịch Phổ Quang Minh Chiếu, tiêu biểu cho ánh sáng trí tuệ tuy không thấy nhưng phổ chiếu toàn diện và chi phối tất cả. Từ Tỳ Lô Giá Na tiêu biểu qua hình ảnh Phật với mười loại thân, khác với quan niệm thông thường cho rằng thượng đế tạo ra con người và vũ trụ. Quan niệm về Phật thân trong Kinh Hoa Nghiêm được Ngài Trí Giả Đại Sư ví như hoa sen trong hồ lớn, có cái còn nằm trong bùn, có cái vượt lên mặt nước, hoặc nở hoa, hoặc còn búp. Nói khác ngũ uẩn phát triển đạt đến đỉnh cao Tỳ Lô Giá Na chi phối muôn loài.

Mười loại thân Phật trong Kinh Hoa Nghiêm:
1. Chúng sanh thân: Tức là thân ngũ uẩn. Đức Phật cũng hiện hữu từ thân ngũ uẩn, mà tiếp đến quả vị toàn giác, vì Ngài không bị ngũ uẩn chi phối. Trong khi chúng sanh cũng mang thân ngũ uẩn nhưng bị nó ràng buộc triệt để, nên luôn gánh chịu những khổ đau sanh tử.

2. Quốc độ thân: Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân chỉ cho sơn hà đại địa. Theo tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng, hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến người phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp, hay chính thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quang, tạo thành lực hấp dẫn đưa người đến với Đạo Phật. Do đó dưới mắt hành giả, con ong cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai... không cái gì là không dễ thương và không phải là Phật.

3. Nghiệp thân: Phật trang nghiêm thân bằng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

4. Thanh Văn thân: Từ trong chúng sanh thân, nhận ra đời sống không bền chắc, nên khởi thân đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế gian đi theo lộ trình Phật mang thân tu sĩ phải tỏ rõ đạo đức và lòng nhiệt thành cộng với bản chất thật.

5. Duyên Giác thân: Là tầng lớp tri thức, quán nhân duyên thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội, và theo lời Phật dạy, người nào thấy được nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.

6. Bồ Tát thân: Tổng hợp hai pháp tu của người và Duyên Giác, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh đó là Bồ Tát.

7. Như Lai thân: Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ Tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên Giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau như hàng Thanh Văn. Vì thân Như Lai “Vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”. Chính thân này tác động đến các loài chúng sanh, giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động tâm.

8. Trí thân: Trên bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động mà vẫn hóa độ được chúng sanh, nên hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác, vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, mà bằng trí tuệ siêu việt.

9. Pháp thân: Trí Như Lai chiếu đến đâu thì biến các pháp ấy thành pháp thân của Đức Phật, rộng hơn ý niệm pháp thân của Phật Giáo nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp còn lưu lại.

10. Hư không thân: Thế giới thường tịch quang hay Tỳ Lô Giá Na thân.

Kinh Hoa Nghiêm kết hợp mười loại thân trên làm thành một Đức Phật toàn diện (không) và cũng là tổng thể của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống chín loại hình, từ hàng thánh giả cho đến người thường và cả loài hữu tình, vô tình trên thế gian này.

* Kinh Hoa Nghiêm diễn tả 53 tiến trình cầu đạo của Thiện Tài và 53 vị giáo thọ nhằm chỉ cho hàng ngũ Thiện Tri Thức dạy Bồ Tát đạo và Bồ Tát hạnh cho Đồng Tử. Trong đó hai mẫu người lý tưởng là Bồ Tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ lãnh vai trò hóa đạo và Bồ Tát Phổ Hiền tiêu biểu cho hạnh nguyện giữ vai trò hành đạo. Qua đó Thiện Tài được tôi luyện thành con người hữu ích thật sự cho đạo pháp. Bồ đề tâm và tri thức là nhân tố chính dẫn Thiện Tài đến với Đạo.

Hơn thế nữa Kinh Hoa Nghiêm là chiếc chìa khóa vàng mở tung cánh cửa Đại Niết Bàn,..(và kết luận: "" Niết Bàn Không phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới mà người ta có thể tìm đến. Niết Bàn chính là ở nơi đây”.).

Hệ Luận 5: 10 Thân Phật, biến hiện khác nhau.- Đó là do Nhân Duyên (sơ khế Chân Như) hay Liễu Duyên (hoàn toàn khế hợp Thể NHƯ).- Và cũng do Tri kiến của chúng sanh tương ưng Thân nào sẽ thấy được Thân ấy.
phzep_13.png
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 29- Bí mật ẩn hiển câu thành môn - Tính-Tướng bất nhị.

Tám vạn bốn nghìn pháp môn Phật dạy, có pháp nặng về phần tướng, có pháp nặng về phần tính, nhưng Tính-Tướng bất nhị, các pháp đều cùng chung một mục đích, giải thoát con người khỏi vòng luân hồi đau khổ.

Câu nói “Tâm là Phật, Phật là Tâm” hàm ý nghĩa: Ẩn và Hiển đều thành. Dụ như ánh sáng của trăng, nơi này nhìn như trăng khuyết mà nơi khác lại thấy trăng tròn trịa, viên mãn…

Những hình thức tụng kinh, niệm Phật, lễ bái, cúng dường, bố thí, xây chùa, dựng tháp, in kinh, thực hành hạnh đầu đà… tức là những sự tướng bên ngoài phát ra từ lý thể bên trong, kết quả sẽ đưa tới sự chứng đắc pháp nọ, pháp kia, hay được sinh về những cõi tịnh độ. Phật pháp không ly thế gian tướng và niết bàn không ở đâu xa, nó vẫn tàng ẩn trong nếp sống hiện tiền, ngay trong tâm thức mọi người trong thế gian này.

chúng ta có thể gọi đó là tương biểu. Biểu là biểu hiện ra, khi biểu hiện ra thì mình thấy, khi không biểu hiện ra thì mình không thấy. Có khi biểu, có khi vô biểu nhưng vô biểu không có nghĩa là không có đó.

II. Bí mật ẩn hiển câu thành

Phản chiếu là tác dụng của định luật duyên khởi. Từ trên định luật này, người ta suy diễn được hai khả năng thành tựu: sự thành tựu của cá thể và sự thành tựu của toàn thể. Đối với cá thể, sự thành tựu đó có nghĩa sự xuất hiện của nó trong một vị trí cố định. Người ta sẽ quy định mọi thể cách tương quan hiện hữu bằng vị trí này. Định được một vị trí là định được tất cả vị trí khác. Như vậy, khi khởi lên tác dụng trong một thế giới cộng đồng, người ta thấy ngay đã có ở đó một trật tự an bài. Bởi vì trật tự được đặt trên nền tảng duyên khởi, do đó sự thiết lập là tác dụng của chính mỗi sự thể cá biệt.

Khái niệm về lý duyên khởi vẫn là: "Không có tác giả, không thọ giả, chỉ có tác nghiệp". Không có một thế lực biên khởi, không có một tự thể quyết định thúc đẩy mọi tác dụng. Tự thể được coi như xuất hiện và tồn tại bằng tác dụng; nghĩa là, không có tự thể ờ đằng sau tác dụng. Nói rằng cá thể cố thủ lấy vị trí cố định của nó, không phải vì vậy mà cá thể ấy tự hữu như một tự thể tuyệt đối. Tuy nhiên, đã nói là cố định trong một vị trí, thế thì bằng cách nào mà khởi lên được tác dụng? Ở đây, chỉ có một tác dụng căn bản là sự phản chiếu. Toàn thể được phản chiếu trong cá biệt; do phản chiếu như vậy, sự thể cá biệt được coi như có vị trí cố định.

phản chiếu.jpg


Thế nào là ý nghĩa của một lời nói? Đó là khởi điểm của Hoa Nghiêm tông. Nó khởi lên từ cái đống hỗn mang mờ mịt của vạn hữu. Một khi lời nói đã thành hình, người ta muốn cho ý nghĩa của nó phải kéo lôi mớ bòng bong của vạn hữu ra khỏi sự tạp loạn của chúng để trở thành một trật tự có quy củ. Tiên khởi, chắc chắn là người ta không thể tìm thấy trật tự này trong chính bản thân của vạn hữu. Nhưng bản thân của vạn hữu lại chính là Pháp thân của Phật. Như vậy, thay vì lần dò theo lời nói phát ra từ chính mình, người ta phải bắt đầu bằng cách nghe lại từ lời nói của Phật.

Chính lời nói ấy nói rằng những gì được nói lên, đều nói theo sự phản chiếu của vạn hữu. Vạn hữu phản chiếu lẫn nhau để trở thành những biểu tượng danh ngôn như vậy. Đây là lời nói của kinh Hoa Nghiêm: "Pháp như vậy là như vậy: Không có tác giả, không có thành giả:. Như vậy, bậc Ứng cúng, Đẳng chánh giác cũng như vậy". Nơi khác kinh nói: "Phật không có xuất hiện thế gian, cũng không có nhập Niết bàn. Vì sức mạnh của đại nguyện mà hiển hiện pháp tự tại".

Những lời ấy muốn nói gì? Nghe được lời của Phật là nghe tiếng nói thầm lặng của vạn hữu. Nhưng làm sao để nghe? Vậy trước hết, hiểu cách nói của Phật. Cách nói ấy được coi như tùy tiện, và tùy thuận theo cơ cảm. Cách nói phản chiếu từ cách nghe. Cách nghe phản chiếu lại cách nói. Nói và nghe ràng buộc với nhau như trong thế giới cộng đồng của tác dụng. Sự ràng buộc ấy trở nên chặt chẽ, giống như bóng tối ràng buộc lẫn nhau trong thầm kín sâu xa. Đó là bên trong. Mặt ngoài chúng vẫn hiện ra trên một trật tự có quy củ. Từ đó suy diễn ra, vạn hữu phản chiếu lẫn nhau sẽ được coi như có hai phần, điển hình bằng thí dụ: sự phản chiếu của bóng tối với bóng tối. Đó là phản chiếu trong một trật tự không có trật tự. Kế đến, sự phản chiếu của ánh sáng với ánh sáng. Điển hình thứ ba và thứ tư: phản chiếu giữa ánh sáng và bóng tối. Quy định và phân phối tính cách phản chiếu này trong thế giới cộng đồng, ta sẽ tìm thấy vị trí cố định của cá thể.

Lời nói sẽ được coi như là sự phản chiếu của ý nghĩa; và ngược lại. Ở đây, ý nghĩa cũng được coi như là sự phản chiếu của vạn hữu; và ngược lại. Vậy trật tự của vạn hữu sẽ được phối trí một cách tùy tiện, và tùy thuận với lời nói. Chúng ta tự phối trí lấy trật tự lời nói của chính mình. Người nói và người nghe là một. Bởi thế, chỉ có tác dụng của nghe và nói mà không có tác giả. Khi được nói, ta đẩy lui những lời khác vào cõi miền u tịch thầm lặng. Toàn thể được hiển hiện.

Khi toàn thể hiển hiện, cá biệt tự lẫn vào căn cơ thầm kín. Căn cơ này ở nơi chính nó và ở trong cà toàn thể. Ta nói để riêng ta nghe. Tự nghe những lời tự nói. Như thế, thế giới tự tác thành thế giới, bởi vì vạn hữu được tác thành bởi chính ta. Ta là thế giới. Nhưng thế giới không tự hủy bản sắc của nó để trở thành thế giới là ta. Ta và thế giới vừa có giới hạn phân biệt, vừa bao dung lẫn nhau bằng phản chiếu vô tận. Bấy giờ, tự thành lại có nghĩa là tương thành, cùng đồng với thành tựu.

Nếu nghe ra được những chiều hướng tác động của lời nói từ ta nói lên, ta sẽ thâý niềm tương ứng, trong đó cả thế giới loài người, loài vật, cây cỏ, cùng nói và cùng nghe. Nghe một lời và nói lên trong sự hiển hiện của âm thanh và ánh sáng, là cùng lúc nghe ra những lời thầm lặng không nói trong sự ẩn mật tương ứng.

Chúng ta đi từ trật tự lý trí phân biệt, ở đó phân biệt giới hạn nghiêm khốc của những cá biệt, rồi tiến tới căn cơ của chúng, là niềm tương ứng được mệnh danh là chân tánh hư không. Nghĩa là từ duyên khởi mà suy diễn ra Tánh Không. Bởi vì, đó là niềm tương ứng nên chúng ta phát hiện được sự phản chiếu vô tận. Sau đó là sự thành tựu của ngôn ngữ, thành tựu từ phân biệt ở trong cái không phân biệt. Nói và không nói, chúng tự thành. Ẩn Và hiển là tính cách tự thành và tương thành của vạn hữu.(HT. Th Tuệ Sỹ)
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 30.- Thác sự hiển pháp sanh giải môn- Ý nghĩa & Mục đích.


Có nghĩa là: Tạm mượn một sự một lý để đủ lấy biểu hiện pháp môn vô tận, khiến cho sinh tín giải nên gọi là Thác sự hiện pháp sinh giải môn.

* Ở ví dụ sư tử vàng (Thầy Pháp Tạng):

  • Nói sư tử là để biểu thị cho vô minh,
  • Nói thể của vàng là để hiển rõ chân tánh.
  • Pháp hư vọng sanh diệt là vô minh.
  • Như Lại tạng bất sanh bất diệt là chân tánh.
  • Luận chung lí và sự thì cũng giống như nói thức A-lại-da để giúp sanh chánh giải.
  • Lí sự tức chân vọng.

* Môn này mượn việc để hiển bày pháp.- nhờ đó mà sinh ra hiểu biết.- Đây là 1 trong 10 huyền môn do tông Hoa nghiêm lập ra; Môn này nói theo Trí, nghĩa là tất cả sự pháp đều làm duyên khởi lẫn nhau, tùy dựa vào 1 pháp mà quán xét thì rõ tất cả sự pháp, có năng lực sinh ra hiểu biết thù thắng Sự sự vô ngại. Lí Sự sự vô ngại chẳng phải là lí luận trừu tượng, mà là sự thực cụ thể, sự thực hiện tượng chính là pháp thể duyên khởi; sự thực chính là chân lí. Sự tướng được hiển bày chính là lí của sự tướng ấy được hiển bày, chứ không phải gá vào cái này mà lại có sự biểu hiện khác.

Thác là vay mượn, sự là cái gì đó, thác sự là vay mượn một cái gì đó. Hiển pháp là làm sáng tỏ bản chất các pháp, sinh giải là giúp cho người ta hiểu được. Thác sự hiển pháp sinh giải có nghĩa là mượn một sự việc hay một hiện tượng nào đó để làm sáng tỏ bản chất của các pháp, để giúp người ta hiểu rõ hơn tự tánh của các pháp.
Pháp Tạng thuyết minh sự bao hàm và dung nạp lẫn nhau giữa Hiện tượng và Bản thể, giữa Sự và Lý, đúng theo ý nghĩa câu “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” trong Tâm kinh. Đó là bước đầu cần thiết cho sự thiết lập hệ thống tư tưởng gọi là thuyết sự sự vô ngại. Ba khí cụ được sử dụng trong giai đoạn mở đầu này. Một là lý duyên khởi, căn cứ sở y của hệ thống, thứ đến là thuyết ba tánh dùng làm khung ý niệm để thảo luận các vấn đề duyên khởi, và cuối cùng là phép tứ cú của Trung quán, phương thức thích hợp nhất để quán sát và phân tích ba tánh.

Có nhiều nguyên nhân được nêu ra khác với lý do cần thiết để cắt nghĩa tại sao Pháp Tạng dùng thuyết ba tánh của phái Duy thức theo truyền thống Huyền Tráng làm khung ý niệm để luận chứng về thuyết sự sự vô ngại hay pháp giới trùng trùng duyên khởi. Bao gồm một học thuyết quan trọng của phái Duy thức như thuyết ba tánh có thể là để hiển bày đặc tính viên dung của hệ thống tư tưởng của Ngài. Lại nữa, đưa thuyết ba tánh làm một phần của toàn bộ tư tưởng của Ngài là một cách gián tiếp chỉ trích thuyết này có tính cách phiến diện chỉ soi sáng một phần của toàn thể mà thôi. Ngoài ra, theo một số học giả Nhật bản, Pháp Tạng muốn chứng tỏ với triều đình nhà Đường rằng triết lý viên dung của Hoa nghiêm theo cách Ngài giải thích đầy đủ hơn thuyết Duy thức của Huyền Tráng và cung cấp một cơ bản lý do thích ứng với các mối quan hệ giữa Triều đình Thiên tử và các nước chư hầu lúc bấy giờ.

Trái với quan điểm Duy thức, Pháp Tạng cho rằng cái gọi là chơn và vọng không phải là hai thứ trật tự của thực tại hoàn toàn riêng biệt và đối nghịch nhau mà thật ra chúng bất tương ly và vô sai biệt. Để chứng minh chỉ có một thực tại trong đó chơn vọng hòa hiệp, không một không khác, Pháp Tạng trước hết giải thích tánh nào trong ba tánh cũng có hai nghĩa giống nhau là vọng và chơn hay Hữu và Không. Từ đó Ngài đồng nhất hóa ba tánh, giảm trừ khoảng cách và sự sai biệt giữa hai đối cực, biến kế và viên thành, vọng và chơn, mê và ngộ, luân hồi và niết bàn, tục đế và chân đế, ... đến độ chúng hóa đồng nhất. Hơn nữa, bằng phương pháp rút ba về hai Pháp Tạng chỉ cho thấy cái thế giới ngoài kia chẳng những là một thế giới sắc tướng mà còn chính là Pháp thân của chư Phật.
Đây là Thác sự hiển pháp câu thành môn.
* Nếu nói theo việc đồng tử Thiện Tài tham vấn thiện tri thức, thì do gặp ba độc mà ba đức viên mãn (sự), phát sanh chánh giải (Lí).
Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 Sng_ty10


* Mục đích của môn này là phá kiến chấp cho rằng sự và lí khác nhau. (Phỏng theo TVHS)
 
Last edited:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
659
Điểm tương tác
594
Điểm
93
Bài 31 - 8/. Đồng thời cụ túc tương ứng môn- Hải ấn tam muội.

Đây là lý duyên sanh. Cái này có là vì cái kia có, đồng thời có trong nhau.
Tất cả hiện tượng đồng thời tương ứng, đồng thời đầy đủ, theo lí duyên khởi mà thành lập, một và nhiều dung hợp nhau thành một thể, không có trước sau sai khác.

Cũng là nói về sự cộng đồng liên hệ, trong đó vạn vật cộng đồng hiện hữu và đồng thời hiện khởi. Tất cả đều cộng đồng hiện hữu không những chỉ trong quan hệ không gian mà cả trong quan hệ thời gian; không có sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và vị lai, mỗi thời bao hàm các thời phần khác. Mặc dù chúng có vẻ sai biệt và cách biệt trong thời gian, nhưng tất cả đều được hợp nhất thành một thực thể, theo quan điểm viên dung.

* Các pháp trong vũ trụ đều vô ngã, vô thường, dung thông vô ngại. Thới gian, không gian, động lực, sự sống v.v…cùng một lúc đồng thời tồn tại, tương tức, tương nhập, tương sinh, tương diệt, không có pháp nào có tự tướng riêng biệt, độc lập cả. Trong khi nêu lên một pháp gì, đồng thời có đủ ngay các pháp khác trong đó,Muôn pháp đều ảnh hưởng lẫn nhau theo thế giây chuyền trùng trùng điệp điệp.

Kinh Hoa Nghiêm ghi: "Hết thảy mọi pháp như một biển lớn vô tận, cùng chung một đạo tràng. Mỗi pháp ví như một giọt nước biển, có đủ mùi vị của nước trong trùng dương bát ngát do muôn sông ngòi to nhỏ đổ vào".

Đồng thời xuất hiện, đã đầy đủ ý nghĩa không cần phải truy nguyên, suy diễn theo ý người, cũng như ý ta để cố tạo ra một sự đồng cảm, đồng điệu nào. Vì mọi sự chuyển động từ sinh đến diệt trong những hoàn cảnh thời gian nào đều duyên nhau không rời.

* Cụ túc là đồng thời cùng một lúc, như trong ví dụ sư tử vàng.- Khi vàng hiển hiện thì sư tử và vàng có mặt cùng một lúc, tương ứng với nhau, không tính cái nào có trước cái nào có sau thì gọi là cụ túc tương ứng môn.

* Trong kinh có một hình ảnh hồi xưa Đức Thế Tôn hay dùng, đó là hình ảnh giao lô. Giao lô là những cây sậy dựa vào nhau. Lô là cây sậy.

Đức Thế Tôn thấy ba cây sậy chụm lại thì đứng vững không ngã xuống được. Nếu lấy đi một cây thì hai cây kia rớt xuống. Lấy đi bất cứ cây nào trong ba cây thì hai cây còn lại sẽ rớt xuống. Sự đứng vững của cây này tạo thành sự đứng vững của hai cây kia. Chúng ta không thể nói cây này đứng vững được rồi thì mới tới cây kia. Không có sự vững chãi của cọng lau này trước rồi mới có sự vững chãi của cọng lau kia sau. Sự vững chãi của mấy cây lau xảy ra đồng thời.Tương ứng là hưởng ứng với nhau cùng có một lúc.

Cũng giống như một tam giác ABC. Khi vạch một đường thẳng từ A xuống H chúng ta có hai tam giác nhỏ T và S. Không thể nói tam giác S có trước rồi tam giác T có sau hay T có trước rồi S có sau. Hai tam giác T và S đồng thời câu khởi và có mặt cùng một lúc gọi là đồng thời cụ túc tương ứng. Tương ứng là hưởng ứng với nhau cùng có một lúc.

Hỏi: Nếu nhân quả đồng thời thì nhân là quả. Nhân mà thành quả ư? Sao có thể nói chẳng mất nhân quả?
Đáp: Như Địa Luận nói “Y nơi duyên có 2 loại mà thị hiện 2 loại thời. Y nơi nghĩa của nhân gọi là nhân. Y nơi nghĩa của quả gọi là quả”. Há có thể mất nhân quả sao? Đã nói nhân quả đồng thời, sao gọi là mất được? Nếu nó mất sao lại gọi là nhân quả đồng thời? Nhân quả đồng thời đã vậy thì giáo nghĩa, lý sự v.v… đồng thời cũng vậy.
Hỏi: Đã nói đồng thời tương ưng, nay nêu một việc nhân quả là đủ hết 10 môn giáo nghĩa … phải không?
Đáp: Đây chỉ nêu 10 môn là muốn hoàn thành nghĩa vô tận. Nếu luận về 3 thứ thế gian viên dung thì chỉ một sự là đủ 10 môn, cũng đủ vô tận vô lượng pháp giới, hư không, pháp môn, thành vô tận lại vô tận. Nếu y nơi việc riêng lẽ mà luận thì chẳng thành vô tận, chỉ đồng với Đại thừa.

Tính cách đồng thời vừa nói chính là nhân quả đồng thời, nhưng không xét theo tự thể mà chỉ xét theo tác động. Không xét theo tự thể, tức là không nói sự thể này đã sinh ra sự thể kia như thế nào. Nói tác động là nói sự phản chiếu, và là phản chiếu trong toàn diện. Trong cái chủ động, phản chiếu toàn diện cái bị tác động, và ngược lại. Sự phản chiếu ấy lập nên nhân quả đồng thời.

Từ lý luận trên, người ta nói, khi một sự thể tự biểu lộ toàn diện của nó, đồng thời biểu lộ toàn diện tất cả sự thể khác. Đến lượt mỗi sự thể trong cũng tự biểu lộ và biểu lộ tất cả. Như vậy mọi sự thể xuất hiện trong tương quan, và vì tương quan ấy là tương tại và tương thị nên trở thành tương quan vô tận; trật tự nhân quả vẫn không rối loạn.

Thế giới vô hạn là cái một duy nhất, tức là một toàn thể. Cái một toàn thể được chứa đựng, không dư hay thiếu, trong cái một sai biệt. Đây chỉ là luận ly, thuần túy lý luận. Bởi vì người ta cần có một thế giới vô tận và vô tận như vậy để thiết lập mọi tác dụng của mình trong sự sống, và vận dụng chúng cho một cứu cánh độc nhất.

Hoa Nghiêm- Huyền Môn - Page 2 In1310


Trước một thế giới vô hạn và vô tận ấy, người ta cảm thấy khỏi cần vượt qua ngoài vị trí cá biệt của mình mà vẫn có thể thực hiện vô biên tác dụng. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tất cả các pháp môn như một biển cả vô tận điều tụ hội ở một pháp trong đạo tràng". Đó là kinh nói về phương tiện vô biên của Phật. Tất cả những điều Phật nói phát ra từ Hải ấn tam muội. Cũng như tất cả mặt trời, mặt trăng, tinh tú, vân vân. Đều in bóng trong lòng biển - hải ấn, vừa như là một - vì có vị trí cố định - và như là tất cả - vì khắp mọi nơi trong lòng biển. Cũng vậy, từ Hải ấn tam muội, thân của Phật như một biển cả, trong mỗi lỗ chân lông xuất hiện vô biên thế giới.

Nói tóm lại, mỗi sự thể phản chiếu tất cả mọi sự thể, và trong tất cả đó, mỗi sự thể này cùng phản chiếu tất cả mọi sự thể. Thế gọi là cụ túc - có đủ. Chúng đồng thời phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới trùng trùng vô tận.(Th Đức Nhuận)
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên