P

Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng

Prahevajra

Registered
Phật tử
Reputation: 17%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
137
Điểm tương tác
12
Điểm
18
3. Phần bốn: đạt được niềm tin rõ ràng rằng các hiện tượng là không tồn tại

Khi có sự chắc chắn rằng mọi hiện tượng đều không có bản thể nội tại sinh khởi trong tâm trí, người ta đi đến một niềm tin rõ ràng rằng chúng không tồn tại. Phần này có tám khổ thở. Đầu tiên người ta đạt được niềm tin rõ ràng rằng chẳng có cực đoan bản thể học nào được ủng hộ.

33. Niềm tin chắc chắn rằng mọi hiện tượng là không tồn tại

Chủ yếu đạt được như sau.

Bởi vì thế giới hiện tượng,

Mọi thứ trong luân hồi và niết bàn,

Đều không có bản thể tự tính,

Nó siêu việt các trạng thái tồn tại,

Bởi vì nó không ngừng xuất hiện

Nó siêu việt trạng thái không tồn tại,

Chẳng tồn tại và chẳng không tồn tại,

Nó siêu việt trạng thái của cả hai,

Không phải cả hai,

Nó vượt qua trạng thái chẳng là gì.

Vừa chẳng là gì vừa chẳng phải không là gì,

Nó là tinh hoa tối thượng

Vượt ngoài mọi suy nghĩ và ngôn từ,

Nằm ngoài mọi chỉ dấu.

Mặc dù mọi hiện tượng luân hồi và niết bàn, đều khởi sinh bên trong không gian của tính giác, xuất hiện không ngừng, rõ ràng và minh bạch, nhưng thực thế chúng không tồn tại tách biệt khỏi tính giác một chút nào. Có nhiều cách để đi đến niềm tin rằng nó được xác định rõ tàng và dứt khoát. Tuy nhiên, trong văn bản hiện tại, tất cả các phương pháp này được cô đọng lại thành một điểm thiết yếu như sau.

Khi bản tính của mọi hiện tượng luân hồi và niết bàn sinh khởi trong tính giác, được xác lập bằng lý luận dựa trên bản chất của sự vật, người ta hiểu rằng dù những hiện tượng đó xuất hiện như thế nào đi nữa, chúng cũng không có một mảnh vụn nhỏ nhất của bản thể nội tại ngay trong khoảnh khắc chúng được nhận biết. Đây là lý do tại sao các hiện tượng, bị bóp méo thông qua niềm tin vào hiện tượng của cái ngã, được cho là siêu việt tồn tại, nghĩa là chúng không có bản thể nội tại.

Có thể nghĩ rằng nếu những hình tướng như vậy không có bản thể nội tại thì chúng phải (hoàn toàn không tồn tại) giống như sừng của con thỏ. Nhưng nó không phải như vậy. Bởi vì phương thức xuất hiện của các hiện tượng hiện diện không ngừng và sống động trong không gian của tính giác (giống như cách các hình ảnh phản chiếu xuất hiện trong một tấm gương), những hiện tượng tương tự này cũng được cho là vượt ngoài sự không tồn tại.

Có thể nghĩ rằng nếu chúng không tồn tại và không không tồn tại, có lẽ chúng đồng thời tồn tại và không tồn tại. Nhưng vì người ta đã chứng minh riêng biệt rằng các hiện tượng một mặt không tồn tại, mặt khác cũng không không tồn tại, nên nó có lý rằng chúng siêu việt cả hai trạng thái (cả tồn tại và không tồn tại).

Nếu những hình tướng hiện tượng không thể được xác lập là vừa tồn tại vừa không tồn tại cùng một lúc, thì có lẽ người ta có thể thắc mắc liệu chúng có thể được xác lập như là không tồn tại cũng không không tồn tại hay không? Nhưng vì người ta đã chứng minh rằng chúng không thể được xác lập vừa tồn tại vừa không tồn tại cùng một lúc, nên chúng cũng vượt ngoài lập trường trái ngược là không tồn tại cũng không không tồn tại. Ví dụ, nếu người ta không thể nói rằng ngọn núi ở đằng kia thì không có ý nghĩa gì khi nói rằng nó ở đây.

Theo đó, khi người ta nhận ra rằng các hiện tượng vượt trên bốn cực đoan, hiện hữu, không hiện hữu, cả hai, và không hai, người ta không có ngôn từ nào để mô tả bản tính nền tảng của họ, tinh hoa tối thượng của họ, cụ thể là, tính giác vượt ngoài mọi cấu trúc khái niệm. Không có biểu hiện nào có thể diễn tả bản tính này. Nó vượt trên mọi cực đoan bản thể học, vượt khỏi ngôn từ, suy nghĩ và cách diễn đạt. Với sự chứng ngộ này, người ta thực sự trở thành vua của tâm trí tối cao vượt xa tâm trí (thông thường). Như được nói trong Tính Giác Tự Sinh:

Chúng chẳng đơn giản là không tồn tại,

Và chúng cũng không tồn tại,

Siêu việt không tồn tại và tồn tại,

Chúng không đi vào tâm trí của các yogi giác ngộ.

Thứ hai, bởi vì các hiện tượng, trong thực tế, siêu việt nhận thức và bám chấp, một niềm tin rõ ràng đạt được rằng những ai lĩnh hội được các đặc tính (không tồn tại) của chúng là những đối tượng thích hợp của bi tâm.

34. Bản tính mọi hiện tượng là thanh tịnh nguyên thủy,

Nhưng chúng sinh non trẻ, không biết điều này,

Chấp nhận một số thứ này và từ chối một số thứ khác.

Bám dính vào những quan điểm khác nhau của mình, họ vĩnh viễn bị trói buộc.

Bám luyến và những đặc tính mà họ cảm nhận, họ đau khổ làm sao!

Bám víu vào một cái ngã trong cái không tồn tại, họ mê lầm làm sao!

Bám chặt vào những phương diện của cái vô phương diện, họ mệt mởi biết bao!

Không ngừng trôi dạt trong luân hồi, họ đáng thương biết bao!

Như đã nói từ trước, chân như, bản tính nền tảng của mọi hiện tượng, vốn thanh tịnh bản nguyên, vượt xa tầm với của mọi hành động, của lấy và bỏ. Tuy nhiên những chúng sinh không nhận ra điều này và có khuynh hướng mạnh mẽ chấp nhận và bác bỏ các sự vật hiện tượng trên cơ sở nhận thức nhị nguyên của chính họ thì không biết về bản tính nền tảng của họ. Bởi vì số phận nghiệp báo thấp kém nên họ dấn thân vào con đường của tám thừa thấp hơn. Những chúng sinh kém trí, non trẻ này bám vào cái ngã, tức là tồn tại cố hữu, vào những đặc tính của sự vật, và do vậy bị ràng buộc vào quan điểm của các học thuyết và hệ thống giáo lý khác nhau. Mắt họ mù quáng trước sự thật về chân như, và họ liên tục bị cản trở bởi sự bám víu sai lầm vào thực tại của các hiện tượng.

Bị mê hoặc bởi nhận thức về sự tồn tại trong những thứ không tồn tại, họ cố chấp và nắm bắt những sự vật được phú cho các đặc tính. Họ đau khổ và ảo tưởng biết bao! Mặc dù sự xuất hiện vô tận của các hình tướng là không có nền tảng và không có gốc rễ, chúng sinh vẫn không biết gì về thực thế này. Bởi vậy họ bị nô lệ vào (khuynh hướng mạnh mẽ của họ) để nắm bắt một cái ngã trong thứ vốn không có sự tồn tại. Họ mê lầm và lú lẫn biết bao! Mặc dù pháp tính, bản tính nền tảng thanh tịnh nguyên sơ của sự vật, không thể được phân tích thành nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chúng sinh không biết điều này, và bám vào các hệ thống phân loại, họ phân tích và bám chặt vào tính giác toàn khắp. Họ mệt mỏi biết bao! Chúng sinh không ngừng lang thang trong luân hồi, như thể đang quay một bánh xe nước. Ôi chao, thương thay!

Thứ ba, đạt được một niềm tin rõ ràng rằng (tính giác) vượt ngoài cấu trúc nhân quả của thiện hạnh và ác hạnh.

35.Mặt trởi của thực tại tối thượng, tính giác, tự sinh

Bị che phủ bởi những đám mây trắng thiện hạnh

Và những đám mây đen tội lỗi.

Và nó tràn ngập bởi những tia sét:

Đắm mình trong nỗ lực chấp nhận và chối bỏ.

Chúng sinh đó bị ướt đấm trong mưa như thác lũ

Những hình tướng giả tạo của hạnh phúc và đau khổ

Những thứ này làm cho hạt giống luân hồi chín muồi

Như mùa vụ của sáu cõi luân hồi.

Chúng sinh bị dày vò, và họ đáng thương làm sao!

Vào mùa hè, những đám mấy mưa hình thành trên trời và che khuất ánh mặt trời. Tuy nhiên, nhờ mùa mưa mà nhiều loại cây trồng bắt đầu nảy mầm trên đồng và cuối cùng cho thu hoạch. Giống vậy, hai che chướng nghiệp báo của các hành động trong trắng và đen tối được tạo ra bởi những chúng sinh mê lầm, cố gắng bằng thân, khẩu, ý của mình tạo ra những hành động “trong trắng” có vẻ mang lại lợi ích, và những hành động tiêu cực hay “đen tối” dường như có hại. Vì những hành động đen và trắng này đều cản trở việc chứng ngộ trí tuệ bản nguyên tự sinh, cụ thể là, tính giác, chúng không khác nhau chút nào. Đây chính là ý nghĩa của câu nói rằng cả tội lỗi và đức hạnh đều che chướng như nhau.

Tính giác tự sinh như mặt trời, tức là trí tuệ bản nguyên tối thượng, trụ ngụ tự nhiên trong tâm trí của toàn thể vô biên chúng sinh. Tuy nhiên, nó bị che phủ bởi những đám mây trắng của các hành động tích cực và những đám mây đen của những hành động tiêu cực (nguyên nhân). Những tia chớp lóe lên của niềm đam mê cháy bỏng trong việc chấp nhận hạnh phúc và từ chối đau khổ (kết quả của những nguyên nhân đó) không ngừng lấn át mặt trời tính giác. Khi chúng sinh ham muốn tăng dần trong cả những hành động thiện và ác, những kinh nghiệm ảo tưởng khác nhau về hạnh phúc và đau khổ rơi xuống họ những một cơn mua bất tận. Do đó, những hạt giống được gieo vào các vùng đất của luân hồi, chúng chín thành vô số mùa vụ, niềm vui và nỗi buồn thuộc về sáu cõi của chúng sinh mê lầm, những kẻ lang thang không mục đích trong cánh đồng bao la của luân hồi thống khổ. Hãy cân nhắc điều này! Thương thay cho những chúng sinh tội nghiệp, thường xuyên bị dày vò bởi ba loại đau khổ trong các cõi thấp và các cõi cao hơn do chấp nhận và từ chối một cách mê lầm, do thiện hạnh và ác hạnh của họ! Họ không nhận ra được bộ mặt chân thực của tính giác, nó vượt ngoài thiện ác, vượt trên nguyên nhân kết quả. Hãy xem họ si mê và đáng thương biết bao! Vì vậy, điểm then chốt là chứng ngộ được tính giác vượt ngoài thiện ác, vượt trên nguyên lý nhân quả nghiệp báo, sự phát quang chói lọi hay biểu lộ của trạng thái không hành động vĩ đại, và tin chắc vào nó một cách rõ ràng.

Thứ tư, người ta được nhắc nhở phải có một phán quyết rõ ràng về luật nhân quả.

36. Như dây thừng và xích vàng ràng buộc ngang nhau,

Các trạng thái thiện và bất thiện hạnh

Ràng buộc tinh hoa tối thượng như nhau.

Những đám mây, dù đen hay trắng, che phủ bầu trời ngang nhau.

Tương tự, thiện hạnh và ác hạnh đều che khuất tính giác ngang nhau.

Do đó, điều quan trọng cần hiểu

Rằng các yogi đã chứng ngộ chân như

Nhìn xa hơn luật nhân quả của đức hạnh và tội lỗi.

Thật ra, tính giác rộng mở, không chướng ngại trong tính tức thời hiện tại của nó, thoát khỏi mọi tạo tác khái niệm, không phải là thứ có thể được đức hạnh trợ giúp, hạy bị ác hạnh gây tổn hại. Do đó, nó không bị ô nhiễm và không thể được chỉ ra bằng bất cứ phương pháp nào. Trí tuệ bản nguyên, mang đến sự xác thực sâu xa về điểm then chốt bí mật của sự chứng ngộ về bản tính tối hậu của mọi hiện tượng, giống như tinh hoa hay trái tim của mặt trời. Trí tuệ này không nên bị trói buộc bởi bất cứ loại hành động, nỗ lực hay bám chấp tinh thần nào. Vì nếu đúng như vậy, nó sẽ bị trói buộc bởi cả tội lỗi lẫn đức hạnh như nhau, bởi vì cả tội lỗi và đức hạnh đều che chướng như nhau. Buộc một con ngựa giống bằng dây chuyền vàng hay sợi dây thừng thông thường đều dẫn đến kết quả như nhau: con ngựa bị cột lại. Tương tự, tính giác bị trói buộc bởi những trạng thái tâm lý tích cực, đạo đức cũng ngang với những trạng thái tiêu cực, bất thiện. Vì cả hai đều ngăn chặn nó biểu lộ. Chuyện này cũng giống như những đám mây, trắng hay đen, đều cản ánh sáng mặt trời như nhau. Cả thiện hạnh và ác hạnh, được tạo ra trên cơ sở bám chấp và nỗ lực, đều che giấu trí tuệ bản nguyên tự nhận thức như nhau.Đây là lý do tại sao chỉ dẫn cốt lõi quan trọng nhất nói rằng những yogi chứng ngộ chân như đúng như nó đang là, phải bảo lưu trạng thái tỉnh giác tự nhiên nằm ngoài tiến trình nhân quả của thiện và ác. Hai ví dụ được đưa ra ở đây đề cập đến thực tế rằng mọi xiềng xích đều trói buộc như nhau và mọi đám mây đều che khuất ngang nhau.

37. Trí tuệ tự sinh khởi lên từ bên trong.

Đêm đen của nhân quả tiêu tan.

Những đám mây lớn của thiện và ác tan biến.

Mặt trời của ánh sáng tối thượng

Chiếu sáng bầu trời pháp giới

Bạn đạt được sự xác thực rõ ràng và rốt ráo.

Bạn có được sự xác tín này

Mà không cần mười yếu tố.

Nhờ đó, mọi thừa nhân quả đều bị vượt qua.

Ngay khi trí tuệ bản nguyên tự sinh, trụ trong nền tảng của pháp thân, giống như mặt trời, biểu lộ từ bên trong, nó xua tan mọi hoạt động và nỗ lực dựa trên niềm tin vào luật nhân quả, vốn trái ngược với bóng tối của màn đêm. Các hiện tượng được phân loại theo ác và thiện, nhân và quả, chấp nhận và bác bỏ, tất cả đều giống như những đám mây che mờ, đơn giản là biến mất và không còn nữa. Kết quả là, mặt trời của tịnh quang tự sinh tối thượng xuất hiện trong sự mở trống bao la của pháp giới, giống như bầu trời không có ba thứ bất tịnh.50 Đây là pháp tính. Khi điều này được chứng ngộ, người ta đạt được sự xác thực chắc chắn và cuối cùng. Một kết luận chắc chắn về điểm then chốt của sự không tồn tại, đã được giải thích trước đây, có thể đạt được dễ dàng mà không cần cố gắng thực hành mười yếu tố của mật điển. Điều này làm nổi bật đặc tính phi thường của con đường hiện tại. Thừa Atiyoga, vượt ngoài luật nhân quả và vượt trên mọi hành động và nỗ lực, là thừa kết quả vượt trội so với tám thừa thấp hơn, vốn dẫn dụ nguyên nhân và kết quả. Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

Người tinh thông các thừa nguyên nhân và kết quả

Nỗi lực trong tôi với mười yếu tố của mật tông,

Mong muốn như vậy để thấy tôi và bản tính của tôi.

Nó giống như bước ra ngoài không khí mỏng

Và ngã xuống mặt đất.

Và:

Bản tính của tôi như không gian,

Ví dụ áp dụng cho mọi thứ.

Trong không gian thanh tịnh, không có việc phấn đấu

Và không có gì để tìm kiếm.

Không gian siêu việt mọi hành động, nỗi lực và cố gắng.

Thứ sáu, đạt được niềm tin rõ ràng rằng mọi hoạt động nhận thức là sự tự kinh nghiệm thanh tịnh của tính giác.

38. Bạn dạt được sự xác tín rõ ràng

Rằng tỉnh giác tự nhận thức, rộng mở, không bị ngăn ngại,

Thoát khỏi mọi hình tướng,

Vượt trên mọi thiền định tập trung vào một đối tượng,

Thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm

Là trạng thái trong đó mọi hiện tượng đều cạn kiệt.

Tất cả đều cạn kiệt trong tâm tỉnh giác.

Tỉnh giác, cũng vậy, là một hiện tượng,

Tự nó đi đến chỗ cạn kiệt.

“Cạn kiệt”, “không cạn kiệt”

Yogi hiểu rằng cả hai đều không thực.

Họ được thuyết phục vượt qua mọi nghi ngờ

Rằng mọi thứ siêu việt tồn tại và không tồn tại

Định nghĩa và biểu lộ

Không có một điểm tham chiếu, nghĩ “nó là thế này”

Các yogi được bao bọc trong sự bao la toàn khắp.

Đối với họ mọi hiện tượng đều cạn kiệt,

Vượt ngoài tâm trí bình thường.

Và đối với những yogi như vậy đây quả là một niềm vui

Một niềm vui là trạng thái liền mạch của pháp tính!

Trong đó, các yogi trong quá khứ, tương lại,

Và hiện tại đều hòa nhập

Với sự mở rộng tối thượng đơn nhất của tâm trí tuệ.

Sự giác ngộ của những yogi đó ngang bằng

Với chư Phật và những người an trú trong minh giác (vidyadhara).

Khi đạt được cấp độ cạn kiệt của mọi hiện tượng trong trạng thái vượt ngoài tâm trí bình thường, nhận thức ảo tưởng về các hiện tượng quy ước không còn xảy ra nữa. Đây là trạng thái vượt xa bất cứ loại thiền định nào liên quan đến việc tập trung và một đối tượng. Đạt được trạng thái thoát khỏi mọi đối tượng thiền cũng như tâm trí hành thiền. Đó là sự chứng ngộ một trạng thái rộng mở, vô chướng ngại của tính giác tự nhận thức thoát khỏi mọi tạo tác tinh thần, trạng thái trần trụi trong đó các hiện tượng bị cạn kiệt. Nó là tầng nền tảng của pháp thân.

Người ta đạt đến một niềm tin rõ ràng rằng trong không gian bao la này, mọi hình tướng hiện tượng ảo tưởng đều, không có ngoại lệ, đến trạng thái nguyên thủy của sự cạn kiệt, đó là, tính thanh tịnh bản nguyên vĩ đại. Đây là nơi các hiện tượng đạt đến trạng thái cuối cùng của chúng. Chúng cạn kiệt trong pháp tính, tình trạng thối hậu của chúng, một trạng thái trong đó ngay cả các từ hiện tượng, bị cạn kiệt, cũng không tồn tại. Quả thực, hiện tượng (pháp) và bản chất của các hiện tượng (pháp tính) thậm chí không được phân biệt trên danh nghĩa là cạn kiệt hay không cạn kiệt. Người ta đi đến một niềm ton rõ ràng rằng vạn sự là một trạng thái của tính bình đẳng vĩ đại vượt ngoài mọi suy diễn khái niệm.

Các yogi do đó được thuyết phục từ trong chiều sâu nội tại. Họ nhận ra các hình tướng hiện tượng vượt trên tồn tại và không tồn tại, vượt quá định nghĩa về cái gì đó được định nghĩa, vượt khỏi sự biểu hiện và ý nghĩa được biểu hiện. Đối với họ, những ý niệm như “Chúng là cái này; chúng không phải là cái kia” hòa tan vào một trạng thái không tham chiếu, trong đó tình trạng hoàn toàn cởi mở và tự do của tính thanh tịnh bản nguyên được phơi bày rõ ràng. Họ được bao bọc trong tính thanh tịnh nguyên sơ, một trạng thái tỉnh giác, cái biết vô hạn và không rơi vào cực đoan nào. Họ đắm mình, trong nhất vị, trong tính bao la toàn khắp của pháp tính. Họ đã đạt đến mực độ cạn kiệt của các hiện tượng trong trạng thái cuối cùng, cấp độ tối thượng trong đó không còn tu tập và không còn tiến bộ thêm nữa. Những yogi này ở trong một cảnh giới vượt xa tâm trí bình thường, trạng thái tự do và thư giãn, bên ngoài các giới hạn và cực đoan. Vì thế họ cảm thấy thoải mái và, như Longchnepa nói, “Thật là hoan hỷ!” Niềm cực hỷ vốn trú ngụ nguyên thủy trong không gian tối thượng của pháp tính đã được làm cho hiển lộ. Như được nói trong mật điển Sức Mạnh Hoàn Hảo của Sư Tử:

Pháp thân nằm ngoài những giới hạn của tồn tại và không tồn tại.

Chỉ riêng điều này thôi đã là Phật quả, vượt trên mọi thước đo.

Pháp thân vượt khỏi sự bám dính nhị nguyên vào “nó là” và “nó không phải là”.

Vượt khỏi chấp niệm, tính giác tự nhận thức là đại lạc.

Và trong mật điển Chuỗi Ngọc Thạch Tối Thượng chúng tôi tìm thấy:

Mandala tối cao vượt trên mọi cái nhìn và mọi suy nghĩ.

Tâm trí hiểu được giáo lý này của Đại Toàn Thiện mới an lạc làm sao!

Khi tình trạng cạn kiệt của các hiện tượng vượt ngoài tâm trí phàm phu được biểu lộ, một trạng thái tỉnh giác không bị cản trở, trần trụi, thoát khỏi mọi ranh giới và cực đoan, một niềm cực hỷ sẽ dâng trào. Trong trạng thái hỷ lạc này, pháp tính được chứng ngộ bởi các yogi vĩ đại trong quá khứ, hiện tại và tương lai hòa nhập bất khả phân với pháp giới vĩ đại được chư Phật ba thời kinh nghiệm trong một không gian tối thượng duy nhất. Bởi vì nó là sự biểu hiện của một pháp tính, bởi vì nó là trạng thái của một pháp tính, và vì nó là chiều kích bao trùm toàn thể của một pháp tính, nên phạm vi kinh nghiệm của những yogi này trùng khớp liền mạch với cảnh thanh tịnh hoàn toàn trong kinh nghiệm của các bậc an trú trong minh giác (vidyadhara) và chư Phật.

Thứ bảy, đạt được một niềm tin rõ ràng rằng các hiện tượng vượt khỏi mọi cái tên. Chúng là trạng thái của tính không vĩ đại.

39. Cùng sự mở rộng này, không thay đổi,

Vô điều kiện, không thể phân chia

Là không gian của trí tuệ bản nguyên tự sinh

Siêu việt mọi nỗ lực và cố gắng.

Đó là cùng sự mở rộng trong đó các hiện tượng

Vượt ngoài mọi cái tên đơn thuần,

Mọi ý nghĩ và mọi diễn tả.

Và trong sự mở rộng tối hậu của Phổ Hiền,

Vốn thoát khỏi mọi hành động,

Mọi thứ ở đó xuất hiện

Chẳng là gì khác ngoài sự mở rộng bao la của Phổ Hiền.

Và trong sự mở rộng tối hậu của Phổ Hiền

Không có các hình tướng, chẳng có tính không;

Không có cả tốt và xấu.

Khi cái không tồn tại được coi là có tồn tại,

Các nhãn hiệu được nhận dạng được gắn lên

Những thứ chỉ là ảo tưởng sai lầm.

Nhưng ngay cả khi việc dán nhãn diễn ra,

Không có ảo tưởng và không có sự vắng mặt của ảo tưởng.

Một niềm tin rõ ràng nhờ vậy đã có được

Rằng các hiện tượng siêu việt mọi danh tự

Đó là bản tính nền tảng

Của đại toàn thiện tự nhiên.

Tâm giác ngộ tối thượng được coi là kim cương bất hoại, vì nó được phú cho bảy phẩm chất bất biến. Nó là trí tuệ bản nguyên, bất diệt và không thể phá hủy. Để mô tả nó, như câu thơ gốc nêu ra là, “không biến đổi, vô điều kiện, không thể phân chia”, hàm ý rằng nó không có mọi chuyển động và thay đổi. Bản tính nền tảng, trí tuệ nguyên sơ tự sinh, chẳng phải là cái gì đó được tạo ra qua hành động. Do đó, khi văn bản gốc nói rằng sự mở rộng bao la này không được tạo ra thông qua nỗ lực cố gắng và nó vượt ngoài tầm với của tâm trí, nghĩa là nó chẳng phải cái gì đó được mang lại nhờ nỗ lực và thực hành. Khi nói rằng mọi hiện tượng trong cả luân hồi và niết bàn chỉ là những cái tên và không có gì khác, điều này nghĩa là chúng vượt ngoài tám cực đoan khái niệm và vì vậy chúng tạo nên một không gian rộng lớn vượt trên suy nghĩ và trình bày, vượt khỏi mọi cấu trúc khái niệm. Trong vực sâu bao la của tâm trí tuệ Phổ Hiền, vốn thoát khỏi mọi hành động giống như chín hoạt động,51 bất cứ thứ gì xuất hiện, dù là luân hồi hay niết bàn, tốt, xấu, vân vân, không gì khác hơn là cảnh giới bao la của Phổ Hiền. Như nó đã được nói:

Trong cõi bao la của Phổ Hiền

Chẳng có gì là không hoàn hảo.

Tất cả đều bình đẳng, tất cả đều vượt ngoài tốt và xấu.

Vì vậy, trong không gian của Phổ Hiền, không có sự khác biệt giữa hình sắc và tính không, tốt và xấu, vân vân. Tất cả chỉ là một Phổ Hiền. Ngoài điều này ra, thậm chí không có tên của chư Phật và chúng sinh, tương đối và tối thượng, tỉnh giác và vô minh cũng không được tìm thấy. Như được nói trong Gương Tâm của Phổ Hiền:

Vì không có cái tối hậu,

Nên không có tên nào cho cái tương thuộc.

Vì không có tính giác,

Nên không có tên nào cho vô minh.

Vì không có Phật,

Nên không có tên nào cho chúng sinh.

Vì không có giáo lý,

Nên không có tên nào cho đạo sư.

Tính giác, tâm giác ngộ quý báu, không có chuyển động hay biến đổi. Nó vượt ngoài nỗ lực, phấn đấu, vượt khỏi suy nghĩ, diễn đạt và phân loại. Tuy nhiên, vì người ta cho là có những gì không tồn tại nên chuỗi ý nghĩ mê lầm liên tục sinh sôi nảy nở. Người ta bị cuốn vào những ảo tưởng như vậy mạnh mẽ và đặt những tên gọi khác nhau cho bản thân, người khác và tất cả các đối tượng giác quan, người ta nhận thức tất cả chúng là những sự vật riêng biệt. Kết quả là người ta bị mê lầm với từng thực thể. Tuy nhiên, sự thật là ngay lúc việc dán nhãn cho các hiện tượng xảy ra, không có sự khác biệt giữa trạng thái ảo tưởng và trạng thái không có ảo tưởng. Chúng là trạng thái bình đẳng. Như được nói trong Gương Tâm Phổ Hiền:

Vì không có chư Phật,

Nên thậm chí không có tên cho các ngài.

Vì không có dính mắc,

Nên thậm chí không có tên cho chúng sinh.

Vì không có ý nghĩ,

Nên không có vô minh, không có ảo tưởng.

Vì không có bám chấp, không có giả định,

Nên thậm chí không có tâm trí lan man.

Do đó, những hiện tượng luân hồi và niết bàn đều không tồn tại, cũng không không tồn tại, không giống cũng không khác, không vật cũng không phi vật, không thường hằng cũng chẳng gián đoạn. Chúng không có thật ngay cả trên danh nghĩa. Vì vậy, người ta đi đến niềm tin chắc chắn rằng tất cả chúng đều là tính bình đẳng rộng lớn vượt ngoài mọi cấu trúc khái niệm. Đây là bản tính nền tảng không thể nhầm lẫn, đại toàn thiện tự nhiên. Người ta đạt được sự xác nhận rõ ràng trong tâm trí rằng chúng là tính không vĩ đại vượt trên mọi gán ghép danh tự.

Thứ tám, các khổ thơ trước đó được đưa đến kết luận.

40. Như vậy bạn xác thực rõ ràng rằng

Trong thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn,

Chẳng phải là những ảo tưởng cũng chẳng phải không ảo tưởng,

Và niết bàn đó đạt được không phải bằng cách xa lánh luân hồi.

Bạn định rõ rằng các hiện tượng chẳng sinh cũng chẳng bất sinh.

Mọi đối tượng mà bạn bám dính vào, khởi nguồn, đoạn diệt,

Tồn tại, không tồn tại, tất cả giờ đều được vượt qua.

Hãy tin rằng mọi thứ chẳng tịnh lẫn bất tịnh,

Bạn nhìn chúng như một không gian bình đẳng,

Không tốt để được chấp nhận,

Cũng chẳng xấu, để bị từ chối.

Bạn đạt đến niềm tin chắc chắn rằng vạn sự

Đều ở trong sự mở rộng bao la của Phổ Hiền.

Thật ra, tính giác, tâm giác ngộ, vốn bất biến và bất động trong suốt dòng tương tục của ba thời. Nó thoát khỏi những đặc tính của luân hồi và niết bàn. Nó là sự sụp đổ hoàn toàn của mọi cấu trúc khái niệm. Bởi vì các hiện tượng luân hồi và niết bàn phát sinh trong không gian tính giác đều là sự thị hiện của chính tính giác này, chúng được bao gồm trong đó, chúng bị thâm nhập bởi tính giác và không tồn tại ngoài nó. Khi thấy điều này, người ta được xác thực rõ ràng rằng ảo tưởng và không ảo tưởng thậm chí không có sự tồn tại trên danh nghĩa. Cho nên cái chúng ta gọi là niết bàn (sự vắng mặt của ảo tưởng) không phải là thứ có thể đạt được thông qua việc từ chối cái gọi là luân hồi (trạng thái ảo tưởng). Luân hồi và niết bàn vượt ngoài sự chấp nhận và chối bỏ. Như có nói trong Vô Tự Mật Điển:

Nói về cái thấy của trí tuệ bản nguyên tự sinh, không có đối tượng của trí tuệ.Trong quá khứ chưa từng có một đối tượng như vậy và cũng sẽ không có một đối tượng như vậy trong tương lai. Trong hiện tại, không có hình tướng nào cả. Không có cái gọi là nghiệp, không có tập khí, không có vô minh, không có tâm, không có ý thức, không có trí tuệ, không có luân hồi, không có niết bàn, và thậm chí không có chính tính giác.

Và, theo cách tương tự, vì các hiện tượng (không có khởi nguồn và kết thúc, không có đặc trưng về đi và đến) vốn vượt ngoài cấu trúc khái niệm, nên người ta đi đến một sự chắc chắn rõ ràng rằng chúng không thể được mô tả theo trình tự thời gian bằng những tuyên bố như “các sự vật đang được sinh ra trong hiện tại” hay “chúng không sinh ra trong quá khứ”, hoặc “chúng sẽ sinh ra trong tương lậi”. Do đó, các hiện tượng siêu việt mọi đối tượng tham chiếu và bám dính, chẳng hạn như khởi nguồn và kết thúc, tồn tại và không tồn tại. Chúng là trạng thái bình đẳng bao trùm, tỉnh giác và trống rỗng vượt trên sự tạo tác tinh thần.Như Karma Lingpa đã nói:

Mọi thứ là không sinh do bản tính của chúng.

Chúng không ở lại, không chấm dứt,

Chúng không đến không đi.

Không tham chiếu, không đặc trưng, chúng vượt ngoài mọi ý niệm và ngôn từ.

Như vậy, người ta đạt được sự xác thực rằng mọi hiện tượng phát sinh từ không gian bao la của tính giác, dù là những bản tôn thanh tịnh và các cõi Phật hay những ảo tưởng bất tịnh của luân hồi, tất cả đều tồn tại không khác biệt trong không gian của tính bình đẳng bất nhị vĩ đại. Chúng là một phần của tính bình đẳng toàn khắp. Chúng không tốt cũng chẳng xấu, không được chấp nhận cũng chẳng bị từ chối. Mọi thứ trong thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn, đều bình đẳng trong pháp thân, cảnh giới trí tuệ của Phổ Hiền. Bị thuyết phục hoàn toàn về điều này là điểm then chốt tối cao.

Tuyên Bố kết thúc về Tên của Chủ Đề Kim Cương

Ở đây kết thúc phần bình luận về chủ đề kim cương thứ nhất của Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng, được xác lập rằng các hiện tượng là không thể diễn tả theo mọi cách.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Prahevajra

Registered
Phật tử
Reputation: 17%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
137
Điểm tương tác
12
Điểm
18
2. CHỦ ĐỀ KIM CƯƠNG THỨ HAI: BÌNH ĐẲNG

Chủ đề này chứng minh các hiện tượng không bị hạn chế và không rơi vào bất cứ cực đoan nào. Trong bài giảng, kết thúc bằng một tuyên bố về tân của chủ đề kim cương, có bốn phần: những điểm then chốt được khám phá, chúng được tinh túy hóa, chúng được gộp lại, và đạt được niềm tin rõ ràng về chúng.

3. Phần một: các điểm then chốt được tiết lộ

4. Một giải thích ngắn gọn


Khi bản tính nền tảng của các hiện tượng

Sự không tồn tại của chúng, được lĩnh hội đúng đắn,

Tính bình đẳng của chúng được hiểu.

Theo giáo lý của Atiyoga,

Đỉnh cao của tất cả các thừa,

Tâm rộng mở và bao la của Phổ Hiền,

Bậc vĩ đại nhất của các bậc vĩ đại,

Như bầu trời vượt ngoài trung tâm và chu vi.

Nó có đặc tính đại bình đẳng không gián đoạn.

Như những lời này gợi ý, khi bản tính nền tảng của vạn sự, nói cách khác, tính không tồn tại của chúng, được nắm bắt đúng đắn, thì bản tính bình đẳng của chúng, sự bình đẳng không gián đoạn, sẽ được hiểu. Theo giáo lý tối thượng, cái thấy của Atiyoga, đỉnh cao của chín thừa, tâm trí của pháp thân Phổ Hiền là sự khuyếch trương quảng đại của pháp giới.. Nó giống như bầu trời, không bị giới hạn và vượt khỏi mọi thái cực. Nó không có trung tâm và chu vi. Trong tâm trí rộng lớn và bao la của Phổ Hiền, đấng vĩ đại nhất, nghĩa là, trong không gian của tính bình đẳng rộng mở, không bị cản trở, không bị gián đoạn, các hình tướng bất tận của hiện tượng giới là không thể phân chia và thuộc về nhất vị. Như được nói trong Sự tiêu tan của các đặc tính:

Giáo lý Atiyoga là đỉnh cao

Của tất cả các thừa khác.

Như núi Tu Di, là đỉnh cao tối thượng,

Vĩ đại nhất trong các loại vĩ đại.

Tâm trí như không gian của Phổ Hiền

Bằng sức mạnh của chúng, những giáo lý này áp đảo

Tám thừa trước đó.

Mật điển Sáu không gian cũng nói:

Bản tính tâm trí không thể nói ra được;

Từ ngữ xuất hiện, nhưng chúng chẳng nói gì.

Nó vượt ngoài tầm suy nghĩ và diễn đạt

Đây là điều mà tôi, Phổ Hiền, dạy.

4. Giải thích chi tiết

Sau đây là giải thích chi tiết được trình bày trong tám khổ thơ. Đầu tiên, bản tính bình đẳng được tiết lộ.

1. Bản tính nền tảng, như nó là,

Của những thứ thuộc về thế giới hiện tượng

Và của tâm trí giác ngộ không hình dạng

Không bao giờ tách rời khỏi trạng thái

Thoát khỏi cấu trúc khái niệm.

Ơ đây không có trong tâm, không ngoại vi, vô niệm

Sự bình đẳng của nó tồn tại

Trong một trạng thái rộng mở không gián đoạn.

Bản tính nền tảng, đúng như nó là, của thế giới hiện tượng, dù là của luân hồi và niết bàn, hay của tâm giác ngộ tối thượng không hình tướng, không bao giờ dao động ra khỏi pháp tính, trạng thái bình đẳng, tính bình đẳng thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm. Sự bình đẳng này không có trung tâm và chu vi và không thể được bao hàm bằng ý niệm và ngôn từ. Do đó, nhìn chung, các hiện tượng, ngay tại thời điểm xuất hiện của chúng đã không bị giới hạn và không rơi vào bất cứ cực đoan nào. Nền tảng do vậy là tính bình đẳng, chính là tính bình đẳng. Cuối cùng, vì không có hy vọng đạt đến, cũng chẳng có nỗi sợ không đạt được kết quả (bốn thân, năm trí tuệ, vân vân) và vì không có chuyển động hay thay đổi, nên kết quả cũng chính là trạng thái bình đẳng. Sáu Thức Tràn Ngập có điều này để nói:

Luân hồi, niết bàn và tất cả các thừa đều tràn ngập.

Thoát khỏi hành động có chủ ý, một điều này thống trị toàn bộ chúng.

Chẳng có gì nằm ngoài phạm vi của nó, chẳng nơi nào người ta có thể đi

Ra ngoài không gian không hành động.

Do đó, điểm then chốt là trước hết người ta cần hiểu rằng không có gì từng di chuyển ra ngoài bản tính bình đẳng (trạng thái đơn nhất của tính bình đẳng không gián đoạn thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm) và sau đó người ta nên nghỉ ngơi trong trạng thái này, an trú vững vàng trong đó.

Thứ hai, nó cho thấy đối tượng được nhận thức và người nhận thức là như nhau, không phân biệt, giống như không gian.

2. Mọi thứ xuất hiện như những đối tượng của giác quan,

Trong khoảnh khắc xuất hiện,

Đều không có thực chất, không có cấu phần

Một trạng thái bình đẳng vô hạn và toàn khắp.

Tâm trí, tính giác, tự nhận thức không thể

Bị phân chia thành những khoảnh khắc, trước đó và sau đó.

Nó là một trạng thái như không gian

Của tính bình đẳng vô hạn và toàn khắp.

Quá khứ đã qua, tương lai chưa hình thành.

Giây phút hiện tại không ở lại.

Tất cả đều không có nền tảng trong tâm trí giác ngộ,

Tất cả đều không có gốc rễ, không có thực chất,

Vượt ngoài tầm chỉ dẫn.

Về bản chất nó là một trạng thái hoàn toàn bình đẳng,

Sự bao la quảng đại của không gian.

Các hiện tượng xuất hiện ở thế giới bên ngoài như những đối tượng của các giác quan, ngay trong khoảnh khắc đầu tiên chúng được nhận thức, là các hình sắc của tính không. Chúng không tồn tại ở cấp độ của các phần tử hoặc các thực thể sở hữu một phần. Chúng không có chất thể và các bộ phận định hướng. Xuyên suốt chuỗi ba thời, chúng trống rỗng, một trạng thái bình đẳng như không gian, bao trùm tất cả, vô hạn. Được nói đến trong Cõi Chiếu Sáng Toàn Thể:

Không có đối tượng nào

Người nhận thức và đối tượng được nhận thứ

Cả hai đều hoàn toàn thanh tịnh.

Tỉnh giác, tự nhận thức,

Trú ngụ trong sự tỏa rạng của chính nó.

Và không gian, do bản tính thanh tịnh, được thấm nhuần

Với không gian toàn khắp của pháp tính.

Các hiện tượng là không có giới hạn. Chúng là trạng thái vô hạn và không thể tưởng tượng nổi. Do vậy, đối tượng, bản thân tâm trí bình thường, và nền tảng chung của chúng (tính giác) là một trạng thái bình đẳng, như nhau.

Tương tự, , vì tính giác, tâm giác ngộ tối thượng, không thể bị chia thành quá khứ và tương lai, bất cứ cái gì khởi lên đều không có những khoảnh khắc không thể phân chia của tâm trí; nó cũng là một trạng thái bình đẳng. Sự phô diễn không ngừng của các hình tướng biểu hiện cũng tham gia vào trạng thái này. Và tâm trí hiểu biết cũng là một trạng thái bình đẳng như không gian, bao trùm toàn thể, vô hạn.

Những nhận thức trong quá khứ đã chấm dứt. Trong trạng thái không tồn tại, chúng là tính bình đẳng vô hạn, bảo trùm tất cả, một trạng thái quân bình. Những nhận thức tương lai chưa được sinh ra. Do đó, chúng cũng không tồn tại và cũng là tính bình đẳng vô hạn, bao trùm toàn thể, một trạng thái quân bình. Những nhận thức hiện tại nằm ngoài tầm với của ngôn từ, suy nghĩ và cách diễn đạt. Chúng không có nơi trú ngụ. Trong tâm giác ngộ tối thượng, chúng hưởng thụ tính bình đẳng vô hạn, toàn khắp, trạng thái quân bình. Cả đối tượng và chủ thể hiểu biết đều không có nền tảng và không có gốc rễ; chúng không có thực thể vật chất. Chúng không thể được biểu thị bằng ngôn từ và định nghĩa. Mỗi đối tượng xuất hiện là một hình dạng trống rỗng; mỗi chủ thể nhận thức đều là tính giác tự sinh và trống không. Đối tượng và chủ thể đều phát sinh trong khôn gian của trí tuệ tự khởi. Thoe nghĩa này, chúng không khác biệt mà hoàn toàn như nhau trong bản chất. Trong trạng thái đóm giống như không gian bao la, chúng tham gia vào trạng thái phẳng lặng vô hạn, bao trùm toàn khắp, tính bình bẳng vô tận. Như đã nói trong Cõi Chiếu Sáng Toàn Thể:

Bên trong sự mở trống tối thượng của pháp tính,

Mặt trời của trí tuệ nguyên thủy tự nhận thức ló rạng.

Nó tiết lộ mọi thứ một cách công bình.

Thứ ba, nó cho thấy trong trạng thái bình đẳng, không có cả hành động lẫn nỗ lực.

3. Trong tinh hoa tối thượng thoát khỏi mọi cực đoan,

Không rơi vào bên này hay bên kia,

Không tìm được cái thấy và không có quán đỉnh,

Không mandala, không trì tụng mật chú,

Không có nền tảng, không có các con đường, và không có giới nguyện;

Không có tu tập và không có tiến trình trên con đường.

Tất cả đều vô căn cứ. Trong không gian bao la (của tính giác),

Chúng là một trạng thái bình đẳng vô tận, bao trùm toàn thể.

Tất cả đều tồn tại trong pháp tính, tâm trí giác ngộ.

Tính giác, chói ngời và trống rỗng, thoát khỏi trung tâm và chu vi, liền mạch và đều đặn, là bản tính nền tảng. Đó là mộ trạng thái bình đẳng vĩ đại, thoát khỏi mọi thái cực. Nó không rơi vào bên này hay bên kia và vượt ngoài mọi định nghĩa khái niệm. Trong tinh hoa tối thượng này không có cái thấy, không có quán đỉnh, không có mandala và không có trì tụng thần chú. Không có con đường cũng không có giới nguyện; không có tu tập cũng không có tiến bộ. Tương tự, không có hoạt động, không có trí tuệ kết quả, không có pháp tính, vân vân. Không có sự phấn đấu nỗ lực nào trong mười yếu tố mật tông được tìm thấy trong trạng thái này. Việc chứng ngộ tính bình đẳng vĩ đại thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm cấu thành cái thấy thực sự về phương thức tồn tại tối thượng, bản tính nền tảng, của Đại Toàn Thiện.

Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Tất Cả:

Trong thực tại tối hậu, bản tính như không gian của tâm trí,

Không có cái thấy để thiền, và không có giới nguyện để tuân thủ.

Không có hoạt động để cố gắng,

Không có che chướng che khuất trí tuệ nguyên thủy.

Không có tu tập trên nền tảng và con đường,

Không có con đường để đi.

Mười yếu tố thực hành mật tông không có căn cứ và không có gốc rễ. Trong không gian bao la của tính giác thấm nhuần tất cả, thoát khỏi mọi nỗ lực và phấn đấu, chúng đều là trạng thái bình đẳng bao trùm toàn thể, vô hạn. Tính bình đẳng không gián đoạn này là pháp tính vượt trên lợi ích và tổn hại, chính là tâm giác ngộ. Mọi hiện tượng của luân hồi và niết bàn đều tồn tại bình đẳng trong phạm vi rộng lớn của nó. Đây là điểm then chốt tối thượng của tính bình đẳng vĩ đại không gián đoạn.

Thứ tư, nó cho thấy các hình tướng hiện diện tự phát, trong tính bình đẳng của chúng, vốn thanh tịnh tự nhiên.

4. Như được hiểu rằng mọi thứ

Dù chúng xuất hiện theo cách nào,

Đều bởi bản tính của chúng không có nguồn gốc,

Không trụ hay diệt,

Chúng đều hiện diện tự phát.

Chúng chẳng tồn tại và chẳng không tồn tại;

Chúng vượt ngoài tầm mọi định niệm.

Chúng hoàn toàn thanh tịnh, và trong pháp tính,

Đại toàn thiện,

Chúng là một trạng thái bình đẳng vô tận, bao trùm toàn thể.

Tất cả các hiện tượng xuất hiện như những đối tượng bên ngoài được hiểu 52 là tồn tại nhờ bản tính của chúng và ngay từ đầu đã không có nguồn gốc. Giống như nước là ướt, bị thấm nhuần bởi độ ẩm, vạn sự xuất hiện đều không sinh, vắng mặt khởi nguyên.Cũng giống như hình dạng của mặt trăng xuất hiện trong một cái hồ: mặt trăng được phản chiếu không phải là cái gì khác với nước. Khi cầu vồng xuất hiện trên trời, nó không phải là cái gì khác mà chính là bầu trời. Tương tự, mặc dù mọi hiện tượng đều phát sinh từ không gian của tính giác bất sinh, nhưng người ta hiểu rằng chúng vẫn ở lại trong cùng một không gian này. Thạm chí không một hạt nguyên tử nào của chúng được tìm thấy ở nới khác. Và đặc tính tự nhiên của tính giác thì không tồn tại cũng chẳng không tồn tại, không thường hằng cũng chẳng gián đoạn. Nó tồn tại trong trạng thái không có khởi nguồn và cấu trúc khái niệm. Tuy nhiên, mọi hiện tượng đều hiện diện tự phát, rõ ràng và không gián đoạn trong đó.

Trong Sự Chấm Dứt Ngay Lập Tức của Ba Thời có nói:

Tất cả được tập hợp thành một, không gian tối thượng đơn nhất,

Thứ đơn nhất không sinh, pháp giới không khởi nguyên.

Các hình tướng được sinh ra bên trong không gian tối thượng không sinh

Là không có giới hạn hạn trong sự đa dạng không xác định.

Vì các hiện tượng xuất hiện như những đối tượng giác quan thì không tồn tại cũng không không tồn tại, nên chúng, từ quan điểm của chủ thể nhận thức, là tâm trí, vượt khỏi sự bám chấp khái niệm; chúng là không thể tưởng tượng và không thể diễn tả được. Vì vậy các hiện tượng có bản chất của cái duy nhất, pháp tính hoàn toàn thanh tịnh. Xuất hiện, chúng là không, đương thể không, chúng xuất hiện. Bản tính của chúng là tính bất khả phân chia giữa hình sắc và tính không. Ngay từ đầu, chúng an trú đồng đều và bình đẳng trong bản tính nền tảng, đại toàn thiện tự nhiên.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Reputation: 17%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
137
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Thứ năm, nó cho thấy (pháp tính) sáng tỏ tự nhiên là bình đẳng tính vĩ đại.

5. Tỉnh giác, trí giác ngộ,

Tối thượng và tinh túy,

Không được nhìn thấy trong các cực đoan;

Nó vượt xa các đặc trưng riêng biệt.

Ngôn từ và suy lý không có tác dụng chứng thực được nó.

Nó nằm ngoài các biểu tượng.

Nó chẳng tăng trưởng cũng không suy giảm.

Nó không thường hằng cũng chẳng gián đoạn.

Nó không đến cũng chẳng đi.

Trong sự mở rộng bao la của tính bình đẳng tự nhiên của nó,

Tất cả hoàn toàn không tì vết

Tính bình đẳng nguyên vẹn

Không có giới hạn và ngả về một phía.

Tính giác, tính không vĩ đại, tâm giác ngộ tôi hậu, vốn thấm nhuần luân hồi và niết bàn, là tinh hoa tột cùng, pháp tính sáng ngời tự nhiên. Nó không có chất thể; nó không có các đặc điểm xác định và vượt ngoài các cực đoan bản thể học. Thoát khỏi mọi cực đoan, nó không được tìm thấy trong đó và không thể là một đối tượng để tham chiếu. Người ta không thể cố định nó, nói “Nó là thế này”. Nó thoát khỏi những đặc điểm riêng biệt của việc nỗ lực thực hành thiền định. Nó thoát khỏi suy nghĩ, thoát khoải diễn đạt, và thoát khỏi mọi tạo tác tinh thần. Vì lý do này, nó không phải là thứ có thể được chứng minh thông qua học thuật tinh xảo, thông qua bằng chứng và lập luận, thông qua ngôn từ và tính cụ thể của các chứng minh logic. Tính giác thường trụ, trong trẻo, sáng ngời, vượt ngoài mọi chỉ dẫn và ví dụ. Nó vượt trên cả đối tượng và tác nhân của kiến thức. Nó không thể được tìm thấy trong quan điểm thường hằng hay hư vô, trong một pháp thiền có thể phát triển hay suy giảm, hoặc trong một kết quả được cho là đến hay đi. Bởi vì tất cả những thứ này hoàn toàn là không và tồn tại nguyên thủy trong tính bình đẳng vô tận, bao trùm toàn thể, trạng thái bình đẳng giống như vực thẳm rộng lớn của không gian. Mọi hình tướng đều khởi lên trong tính giác, trạng thái của Phổ Hiền. Chúng là sự phô diễn ánh sáng chói ngời không ngừng của tính giác và hoàn toàn thanh tịnh trong không gian bao la của tính bình đẳng tự nhiên. Khi điều này được chứng ngộ, cả luân hồi và niết bàn cùng tất cả mọi sự sinh, trụ, diệt đều trở nên vô phân biệt trong tính bao la của tính không vĩ đại, pháp thân Phổ Hiền. Điểm then chốt là thư giãn trong tính đại bình đẳng không gián đoạn, trạng thái bình đẳng thoát khỏi mọi giới hạn và thiên lệch về bên này hay bên kia.

Thứ sáu, nó cho thấy trí tuệ bản nguyên tự sinh là trạng thái bình đẳng vĩ đại.

6. Không có hy vọng hay sợ hãi

Về việc ban tặng trí tuệ.

Do vậy, bất cứ cái gì sinh khởi

Tất cả chỉ là sự bình đẳng không gián đoạn, vô tận, bao trùm toàn thể.

Trong sự rộng mở liên tục, tự sinh, vô ngại,

Không có bất cứ nguy cơ nào sẽ bị vướng mắc

Trong cái lồng bám luyến.

Điều bất khả là thay đổi hoặc làm hỏng trí tuệ nguyên sơ, vốn lan tỏa khắp nơi như hư không. Do đó, người ta có thể thoát khỏi mọi hy vọng và sợ hãi: hy vọng rằng trí tuệ sâu xa của các vị đạo sư trong ba dòng truyền thừa có thể truyền vào tâm trí mình, và sợ rằng nó có thể không được truyền trao như vậy. Vì trí tuệ bản nguyên là tự sinh, nó an trú trong tính đại bình đẳng. Bất cứ thứ gì sinh khởi trong không gian của tính giác đều là tính bình đẳng bao trùm toàn thể, không gián đoạn và vô hạn. Nó trống không, rộng mở và không bị cản trở: trạng thái quân bình. Như đã nói trong Gặp gỡ ba thân:

Dù người ta có nghiền ngẫm thế nào, người ta nghiền ngẫm trong bản tính của mình.

Dù người ta suy nghĩ thế nào, người ta suy nghĩ trong bản tính của mình.

Tâm giác ngộ, ngay từ đầu,

Đã thiếu vắng mọi suy ngẫm và tâm trạng.

Tâm trí của Đấng Chiến Thắng,

Quá khứ, hiện tại, tương lai,

Thoát khỏi mọi suy nghĩ và nghiền ngẫm.

Bất cứ thứ gì khởi lên trong tính giác đều tự chúng phát sinh và lắng xuống nối tiếp nhau. Sự tự sinh này, tự lắng xuống trong một không gian rộng mở, không bị cản trở, không có tham chiếu, được mô tả là tính bình đẳng liên tục của sinh và diệt. Nó giống như những cơn sóng của đại dương nổi lên và chìm xuống tự nhiên, giống như con cá nhảy ra khỏi đại dương nhưng không thể nhảy ra ngoài hoàn toàn được.

Được nói đến trong Cõi Chiếu Sáng Toàn Thể:

Trong biển trí tuệ nguyên sơ tự sinh,

Chuyển động của tư tưởng suy luận

Giống như chuyển động của những con cá vàng dưới biển.

Khi hiểu rằng bất cứ thứ gì khởi lên đều là năng lực sáng tạo của tính giác và khi mọi sự sinh khởi đó lắng xuống nối tiếp nhau, thì sẽ không bao giờ có bất cứ nguy cơ nào bị mắc kẹt trong cái lồng bám luyến và chấp thủ. Và chứng ngộ về tính bình đẳng không gián đoạn, tức là trạng thái bình đẳng nơi mọi thứ sinh và diệt nối tiếp nhau sẽ đến. Do vậy, điều quan trọng nhất là người ta duy trì thư giãn trong trạng thái quân bình không gián đoạn.

Thứ bảy, điều được nhận ra là tính bình đẳng nghĩa là trạng thái cạn kiệt của các hiện tượng.

7. Mọi hiện tượng đều chìm xuống

Vào trạng thái bình đẳng.

Bản tính của chúng vượt ra ngoài ranh giới

Của chấp nhận và từ chối.

Giống như vũ trụ và cư dẫn của nó

Trống rỗng trong sự rộng mở bao la của không gian

Chấp nhận và bác bỏ, ưa thích và chán ghét

Tất cả đều tan biến trong không gian nguyên thủy.

Chúng chẳng đi đâu khác.

Khi những ý nghĩ không để lại dấu vết

Trở thành trạng thái bình đẳng vô tận và bao trùm

Bên trong tỉnh giác liên tục và không gián đoạn

Biên giới bám dính của một người

Của cả hy vọng và sợ hãi đều được vượt qua.

Chốt buộc, đối tượng được nhận thức

Và người nhận thức, bị xé ra.

Thành phố của những hình tướng giả dối trong luân hồi bị trống rỗng.

Giống như những đám mấy xuất hiện, ở lại, và cuối cùng tan biến trở lại vào bầu trời phía nam, mọi hiện tượng xuất hiện trong không gian bao la của tính giác; chúng trú ngụ trong tính giác và về lâu dài chìm lại vào trong đó. Nếu điều này được nhận ra, tâm trí và tất cả các yếu tố tinh thần như chấp nhận và từ chối, tham lam và giận dữ sẽ quay trở lại nguồn gốc của chúng, không gian rộng mở của tính giác. Mê lầm bị xóa sạch trong tính thanh tịnh bản nguyên. Đây là điều mà các hướng dẫn cốt lõi nói đến. Ảo tưởng tan biến vào trạng thái bình đẳng, vốn trống rỗng trong chính nó và không có mọi phân biệt. Sự lắng xuống tự nhiên của các Đặc Tính có nói:

Bởi vì các nguyên nhân của chúng đã chìm trở lại

Xuống cõi duy nhất (của pháp thân),

Những hy vọng và sợ hãi về kết quả bị cắt đứt

Và do đó chỉ còn lại trạng thái giống như không gian

Tâm trí mở trống như bầu trời của các Đấng Chiến Thắng.

Và trong không gian bao la của cõi chỉ một và duy nhất này,

Không có gì để loại bỏ và chẳng có gì để đạt đến.

Mọi thứ lắng xuống vào trong chính bản tính của chúng

Không có cả sự chứng ngộ lẫn thiếu vắng chứng ngộ.

Như văn bản này mô tả, mọi thứ biểu lộ ra đều quảy trở lại nguồn gốc của chúng, không gian của tính giác. Điều này cũng như nói rằng chúng chìm vào bản tính của chính chúng. Về bản chất, chúng là trạng thái vĩ đại của tính giác rộng mở và tự do, chúng vượt qua ranh giới của việc chấp nhận và chối bỏ. Chúng tan biến và trạng thái cạn kiệt, trạng thái của tính bình đẳng. Mọi hiện tượng của thế giới và cư dân của nó biểu lộ trong lòng không gian.Tuy nhiên, chúng không tồn tại theo bất cứ ý nghĩa tối hậu nào. Ngay từ đầu chúng tồn tại, trống không, trong cùng không gian đó.Theo cách giống vậy, mọi hiện tượng được quy kết bởi tâm trí, biểu hiện dưới dạng chấp nhận và từ chối, tham luyến và giân dữ, tan biến vào sự khuyếch trương của tính giác, nền tảng nguyên thủy cho mọi biểu hiện của chúng. Bất kỳ trạng thái nhận thức nào khởi lên, chúng đều biến mất không dấu vết trong không gian của tính giác tự sinh. Chắc chắn là không có đích đến nào khác cho chúng, không có nơi nào khác để chúng có thể đi. Vì thế mọi hoạt động nhận thức đều không có dấu vết giống như đường bay của loài chim. Trong sự tiếp cận của tính giác không gián đoạn không có mọi cấu trúc khái niệm, bản thân chúng là tính bình đẳng vô tận bao trùm toàn thể, trạng thái quân bình. Chúng lắng xuống trong tính giác, vượt qua mọi giới hạn của hy vọng và sợ hãi, trong trạng thái tỉnh thức, bình đẳng bao trùm toàn thể. Khi đó cả đối tượng được nhận biết và người nhận biết bị nhổ tận gốc rễ như một cái cọc bị nhổ ra khỏi mặt đất. Toàn bộ cấu trúc của chúng biến mất vào không gian trống rỗng. Bản tính bình đẳng không tham chiếu của chúng được làm cho hiển lộ, và thành phố của những hình tướng ảo tưởng trong luân hồi trở nên trống rỗng. Khi đó người ta sẽ ngự trị trong vương quốc của pháp thân, thoát khỏi mọi mê lầm.

Thứ tám, những điểm then chốt trước đó được đưa đến kết luận.

8. Mọi thứ rõ ràng bên ngoài,

Cùng với tất cả trạng thái tinh thần bên trong,

Đều biểu hiện như vở kịch

Của năng lực sáng tạo trong tâm trí.

Những người hiểu rằng mọi thứ

Ngay từ đầu đã là tính không và tính bình đẳng

Tiết lộ điểm then chốt của các hiện tượng:

Chúng đều bình đẳng.

Các hiện tượng không mở rộng vượt ngoài tầm tiếp cận của tính giác và năng lực sáng tạo của nó. Ví dụ, mọi hiện tượng đều thuộc về sáu tập hợp của tâm thức, xuất hiện trong phương diện của các sự vật bên ngoài, ngoại vi tinh thần, đều phát sinh thông qua năng lực sáng tạo của tính giác. Và bản thân tâm trí (thông thường) bên trong phát sinh từ bản tính không sinh của tâm. Cách thức biểu lộ của tất cả các hiện tượng này thuộc về năng lực phô diễn của tâm trí. Điều cần thiết phải hiểu rằng các hiện tượng vốn là trống rỗng và bình đẳng. Bất kể các hiện tượng luân hồi và niết bàn biểu hiện ra như thế nào, thực sự chúng không là gì khác hơn ngoài năng lực sáng tạo và sự hiển thị của tính giác rộng mở như không gian, tâm giác ngộ tối thượng. Những ai nhân ra rằng tất cả những thứ như vậy vượt ngoài mọi ranh giới và cực đoan, rằng chúng trú ngụ trong tính bình đẳng của bản tính trống rỗng nguyên thủy của chúng, pháp tính, hiển lộ điểm then chốt của thế giới hiện tượng, cụ thể là, trạng thái bình đẳng. Và điểm chính yếu duy nhất này mang lại hàng trăm điểm then chốt liên quan đến hình tướng của các hiện tượng (các đối tượng có thể được nhận thức và tâm trí nhận thức), hé lộ rằng chúng là sự tự do và rộng mở vĩ đại của không gian nguyên thủy của nền tảng.

Tóm lại, các hiện tượng là trạng thái đại bình đẳng vượt ngoài tầm với của cấu trúc khái niệm. Vạn sự biểu hiện bên ngoài, phát sinh nhờ năng lực sáng tạo của tính giác, xuất hiện vì người ta nhầm tưởng và bám dính vào một cái tôi giả định hay nhân dạng của một thứ chẳng là gì khác ngoài sự phát quang của tính giác. Tất cả những điều này xuất hiện giống như cách một người phụ nữ mà ta từng thấy trong quá khứ có thể xuất hiện trong giấc mơ của ta. Tâm trí cùng các yếu tố tinh thần cũng đều phát sinh do giả định rằng sự biểu hiện không ngừng nghỉ của năng lực sở hữu một cái ngã.53 Những hình tướng nhị nguyên ảo tưởng biểu hiện như sự phô diễn và tô điểm cho quá trình tự kinh nghiệm của tính giác, sức mạnh sáng tạo của nó. Vì vậy, biết rằng tất cả chỉ là hình tướng rõ ràng nhưng không tồn tại, một hình sắc trống rỗng theo cách của một ảo ảnh huyễn thuật và một giấc mơ, đã hé lộ điểm then chốt quan trọng nhất của các hiện tượng về tính giác trống không: trạng thái bình đẳng vĩ đại.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Reputation: 17%
Tham gia
6/6/16
Bài viết
137
Điểm tương tác
12
Điểm
18
3. Phần hai: những điểm chính của tính Bình Đẳng được tinh túy hóa

Phần này gồm năm khổ thơ. Thứ nhất, tính bình đẳng được tinh túy hóa như trạng thái của Phổ Hiền, vốn thoát khỏi người nhận biết và đối tượng được nhận biết.

9. Mọi khía cạnh về bản chất của các hiện tượng đều là thể tính hóa

Như tính giác của bạn, sáng ngời và trống rỗng,

Trí tuệ bản nguyên, tính bình đẳng

Cái sau không bị ràng buộc, hạn chế, bởi người nhận thức.

Nó siêu việt mọi đối tượng được nhận thức.

Trong đó không gì có thể

Đóng vai trò là mục tiêu, không có gì để đề cập tới.

Cảnh giác, tỉnh táo, mở rộng, không xao lãng,

Đó là trạng thái của trí tuệ nơi mà tâm lý cạn kiệt

Trạng thái như bầu trời, vô tận, trùm khắp của tính bình đẳng

Siêu việt thiền định và không thiền định:

Không gian vĩ đại của trí tuệ Phổ Hiền.

Mọi khía cạnh thuộc về bản tính tối hậu của các hiện tượng đều được tinh túy hóa như tính giác, tính không và tính sáng của con người, sự mở rộng của trí tuệ bản nguyên, tính bình đẳng, không thể nghĩ bàn và không thể diễn đạt được. Pháp tính không bị ràng buộc hay hạn chế bởi người nhận biết bên trong. Vì các hoạt động nhận thức tự lắng xuống. Chúng giống như đường bay không thể theo dõi được của chim chóc và những nút thắt tự gỡ rối trên con rắn. Pháp tính siêu việt bất cứ đối tượng bên ngoài nào có thể lĩnh hội được. Vì bất cứ thứ gì xuất hiện đều như ảo ảnh huyễn thuật. Giống như một giấc mơ, nó không có sự tồn tại cố hữu nào dù là nhỏ nhất.

Tóm lại, (tính giác – pháp tính) siêu việt pham vi của người hiểu và đối tượng được hiểu. Nó trống rỗng và không có thứ nhỏ nhất nào có thể đóng vai trò là mục tiêu, hay đối tượng để tham chiếu. Khi người ta thư giãn trong tầng nền tảng của tính thanh tịnh nguyên thủy, trong trạng thái minh mẫn và tỉnh thức bao trùm của tính bình đẳng, nếu người ta có thể duy trì không xao lãng, không theo đuổi bất cứ ý nghĩ nào xuất hiện trong tâm trí mình, đây được coi như một trí tuệ trong đó hoạt động tâm lý đã cạn kiệt. Khi người ta duy trì sống động trạng thái, nguyên sơ, trần trụi và không bị ràng buộc này, người ta hiện thực hóa được trạng thái của tính bình đẳng như không gian, vô tận và bao trùm toàn thể. Ở đây thậm chí không tìm thấy những từ thiền định hay không thiền định. Đó là sự mở rộng vĩ đại của trí tuệ Phổ Hiền, đấng chí tôn bao trùm tất cả, được tinh túy hóa như là tính bình đẳng bao la không dứt.

Thứ hai, trạng thái tự do và thư giãn của sáu thức được tinh túy hóa như tính bình đẳng.

10. Trong sự mở rộng bao la của tính giác trống rỗng, sáng tỏ này

Các đặc điểm phong phú của những hiện tượng

Không ngừng xuất hiện.

Các giác quan cảm thụ chúng tươi mới;

Tính giác, bản tính của các hiện tượng, hiện diện rõ ràng.

Hình tướng không bị ngăn trở.

Dù nó sinh khởi thế nào,

Tâm trí vẫn trong lạc thọ.

Sáu thức đều thư giãn.

Sự mở rộng này của trí tuệ nguyên thủy tự sinh,

Cởi mở, khoáng đạt, không trong không ngoài,

Là trạng thái tịnh quang. Nó hiện diện bên trong chính nó

Trạng thái tự nhiên tối cao không có mọi sự sắp đặt.



Khi người ta nghỉ ngơi trong mộ trạng thái tình định quân bình trong không gian rộng lớn, vĩ đại của tính giác, sáng ngời và trống rỗng, thiếu vắng mọi đặc trưng như trên và dưới, bên ngoài và bên trong, trung tâm và ngoại vim nói cách khác, sự mở rộng vô hạn không rơi và bất cứ cực đoan nào, mọi đặc tính của các hiện tượng khác nhau, nảy sinh thông qua năng lực sáng tạo của tính giác, xuất hiện và được nhận thức không ngừng nghỉ và sống động, giống như một chiếc áo choàng gấm thêu được trải ra. Bất cứ hiện tượng nào sinh khởi và xuất hiện thế nào đều tự lắng xuống. Sự sinh và diệt của chúng là liền mạch. Khi người ta an trsu trong trạng thái tính giác trống rỗng, quang minh, trong trẻo và thoát khỏi mọi cố chấp, nghĩa là, khi người ta an trú trong trạng thái hoàn toàn bình đẳng, bao la, sáng tỏ sống động, và trống rỗng trong trẻo, các đối tượng của năm giác quan xuất hiện xuất hiện rõ ràng và không gián đoạn. Tuy nhiên người quan sát không bị cuốn vào chúng. Nó cũng giống như khi một đứa trẻ được bế vào trong chùa (thoải mái và không quan tâm đến quang cảnh và âm thanh mà nó cảm nhận được). Khi năm giác quan ở trạng thái quân bình,54 các hình tướng không bị kiềm chế và rõ ràng, sáu thức không bị gián đoạn và thư giãn. Dù các đối tượng của nhận thức xuất hiện theo cách nào, chúng cũng không trở thành cơ hội cho sự dính mắc. Bản tính của chúng được nhận thức đơn giản, trần trụi. Tính giác, bản tính tột cùng của mọi sự vật, không bị ô nhiễm bởi hoạt động của tâm trí, hiện diện sống động. Trạng thái vĩ đại này, trong đó mọi thứ được để mặc như chúng vốn đang là, chẳng trụ trong các cực đoan của hình sắc cũng như tính không. Nó là trạng thái bình đẳng vĩ đại và được gọi là “sự thư giãn của sáu thức”.

Như được nói đến trong Vô Tự Mật Điển:

Trạng thái này của trí tuệ, như đại dương,

Nơi mọi thứ được để mặc như chúng đang là,

Không phải là một vật xuất hiện

Cũng không phải thứ làm cho những vật như vậy xuất hiện.

Nó chẳng phải tính trống rỗng hay thứ gì đó tồn tại như trống rỗng.

Nó không sáng, nhưng độ sáng vĩ đại là lĩnh vực của nó

Nó không phải là trạng thái trì độn,

Và tự sự kích động, nó tự nhiên được giải thoát.

Nó chưa bao giờ chuyển động,

Nó không chuyển động,

Và nó sẽ không bao giờ chuyển động.

Khi người ta nghỉ ngơi theo cách này, những hình tướng bên ngoài sẽ tự do và không bị cản trở, trong khi những trạng thái tinh thần bên trong, dù chúng như thế nào, đều tự sinh khởi và lắng xuống. Trong sự sinh khởi của chúng, chúng chỉ là những vật trang trí của tính giác. Trong cõi đại lạc, chúng xuất hiện nhưng lại trống rỗng, và chúng trống rỗng nhưng vẫn xuất hiện, giống như những hình ảnh phản chiếu được thấy trên một dải nước trong suốt. Nếu những hình tướng bên ngoài được để yên cho chúng được biểu lộ không kiềm chế và tự do, và nếu sáu thức được để yên trong trạng thái thư giãn, thì bất cứ thứ gì biểu lộ đều là trạng thái sáng ngời bên trong không gian của tính giác, trí tuệ bản nguyên tự sinh. Nó rộng mở, khoáng đạt, không bên ngoài cũng chẳng bên trong, nó là một trạng thái vượt ngoài cả trung tâm lẫn ngoại vi. Sự hiện diện của chính nó trong không gian bao la của tính không vĩ đại, bản tính nền tảng của mọi sự vật, trạng thái tự nhiên thoát khỏi mọi sắp đặt. Đây là cách mà trạng thái bình đẳng được thể tính hóa thành trạng thái tự do và thư giãn của sáu thức.

Thứ ba, dòng chảy tự nhiên của tâm trí được tinh túy hóa thành tính bình đẳng vĩ đại.

11. Khi tâm thức bạn không lo lắng,

Như một người chẳng còn gì nữa để làm,

Và, không căng thẳng hay buông lỏng,

Tâm và thân nghỉ ngơi thư giãn,

Tỉnh giác, bình đẳng vô tận, trùm khắp,

Vô nhiễm như không gian,

Nghỉ ngơi trong pháp giới,

Không bao giờ tách rời.

Khi yogi thư giãn ba cửa trong tình trạng tự nhiên, thoát khỏi mọi sắp đặt trong trạng thái khoáng đạt, quân bình và khi họ để mặc tâm trí mình mà không chú ý, họ tự nhiên buông bỏ mọi hoạt động, giống như những người không còn việc gì để làm. Họ giống như những người già ngồi dưới ánh mặt trười, thư giãn sâu, thân khẩu ý của họ được nghỉ ngơi, mọi nhiệm vụ của họ đều đã hoàn thành. Như vậy các đối tượng của giác quan và chính tâm trí đều chìm vào trạng thái bất nhị. Tính giác trống không, sáng ngời, trạng thái đại bình đẳng của pháp thân, được nhận ra. Như chúng ta thấy trong Gặp gỡ ba thân:

Quả thực nền tảng của mọi thứ

Là tâm trí giác ngộ.

Mặc dù đặc trưng phong phú của các hiện tượng

Không ngừng sinh khởi

Khi được nhận thức trần trụi

Bằng công dụng của các giác quan

Pháp tính rõ ràng

Trong mọi hình tướng.

Tâm trí không vướng bận

Như một nguồi không còn việc gì để làm.

Khi tâm trí không còn việc gì để làm, khi nó không cẳng cũng không trùng, khi cơ thể và tâm trí nghỉ ngơi thư giãn, không vướng bận và thoải mái, một trạng thái khoáng đạt vô hạn xuất hiện, được cho là giống với tâm trí của các Đấng Chiến Thắng. Đây là tính giác. Nó có bản tính bình đẳng vô hạn, bao trùm toàn thể, giống như bầu trời trong xanh, thoát khỏi ba bất tịnh. Đây là trí tuệ bản nguyên tự nhận thức của con đường, nó an trú bất khả phân trong bản tính nền tảng, pháp giới vượt ngoài mọi cấu trúc khái niệm. Dòng chảy tự nhiên của tâm trí vì vậy được thể tính hóa thành tính đại bình đẳng.

Thứ tư, dấu hiện chứng ngộ bắt nguồn từ sự tin tưởng vào trạng thái trí tuệ được mô tả như sau:

12. Khi pháp tính được chứng ngộ, chói lọi và trống rỗng,

Mọi ràng buộc đều lắng xuống trong sự mở rộng của nó.

Tính giác được hiển lộ

Như tính bình đẳng, không gián đoạn, trùm khắp.

Không bị trói buộc bởi bám chấp, nó siêu việt mọi suy nghĩ.

Tất cả đều hội tụ trong

Không gian hoàn toàn bình đẳng và đơn nhất của trí tuệ.

Hỷ lạc tâm hòa lẫn với lạc thọ bình an

Trạng thái của tâm giác ngộ

Nơi mà bên ngoài và bên trong là một vị.

Khi đó bản tính nền tảng được thấy,

Pháp tính nơi tất cả đều đến chỗ cạn kiệt.

Khi tính giác, quang minh và trống không, bản tính tối thường của vạn sự, được chứng ngộ chính xác như nó là, những hình tướng ảo tưởng được nhận thức như khi trường nhìn của một người bị suy giảm, tan biến vào không gian của tính giác trống rỗng, bất sinh. Như khi sương mù và mây tan biến vào trong bầu trời. Bản chất thực sự của tính giác, không có cả ba bất tịnh, trở nên rõ ràng. Khi đó toàn bộ những ràng buộc và cạm bẫy của ảo tưởng sẽ lắng xuống tại vị trí của chúng và tính giác được bộc lộ như tính bình đẳng không ngăn ngại, vô hạn, bao trùm toàn thể, thoát khỏi cấu trúc khái niệm: trạng thái quân bình vĩ đại. Vì những đối tượng xuất hiện bên ngoài không còn được thẩm tra nữa, những đối tượng được nắm bắt giống như vậy sẽ được tịnh hóa ngay tại vị trí của chúng. Và vì tâm trí bên trong không bị cản trở bởi sự dính mắc vào bất cứ thứ gì xuất hiện bên trong nó, nên cũng chính tâm trí này (người nắm bắt) là thanh tịnh nội tại và ban sơ. Các hình tướng và tâm trí hòa quện không thể tách rời trong một trạng thái vượt ngoài mọi lựa chọn (theo nghĩa chấp nhận hoặc từ chối), vượt ngoài mọi suy nghĩ. Lúc đó, tính giác, an trú trong tâm trí, hòa lẫn với nền tảng, tầng nền tảng của pháp tính, trạng thái đại lạc. Mọi thứ được tập hợp thành một không gian bao la, đơn nhất, hoàn toàn bình đẳng của trí tuệ. Đối với những yogi đã đạt được bản tính nền tảng, pháp tính trong đó mọi hiện tượng đều cạn kiệt, sự chứng ngộ mà trong đó họ thực sự thấy pháp tính phát sinh từ bên trong. Tâm trí họ nghỉ ngơi không khiên cưỡng như vốn có, trong trạng thái pháp tính, đại lạc thanh bình. Tâm an lạc của họ hòa nhập không thể tách rời, như câu thơ gốc đã nói, với niềm an lạc thanh bình. Những đối tượng xuất hiện bên ngoài được tịnh hóa trong tính phi nền tảng của chính chúng, trong khi tâm trí nhận thức bên trong lắng xuống trong pháp thân. Cả tâm trí và hình tướng, bình đẳng ngay từ đầu, hòa quện trong nhất vị. Và trong không gian rộng lớn của tâm giác ngộ tối thượng, vương quốc vĩnh cửu của an lạc bất biến đã giành chiến thắng. Bản tính nền tảng, pháp tính trong đó mọi hiện tượng đều cạn kiệt, được nhìn thấy trực tiếp.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top