T

Nhật Tụng Thiền Môn - năm 2000

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p align="right"><b>NGHI THỨC
TỤNG GIỚI SA SI</b>
<p style="padding-left: 56px;"><b>DÂNG HƯƠNG</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng hương, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:
<p style="padding-left: 56px;">Hương đốt, khói trầm xông ngát
Kết thành một đóa tường vân
Đệ tử đem lòng thành kính
Cúng dường chư Bụt mười phương
Giới luật chuyên trì nghiêm mật
Công phu thiền định tinh cần
Tuệ giác hiện dần quả báu
Dâng thành một nén tâm hương
<br>Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)
<p style="padding-left: 56px;"><b>TÁN DƯƠNG</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><i>Hương đã cắm vào bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:</i>
<p style="padding-left: 56px;">Xinh tốt như hoa sen
Rạng ngời như Bắc Đẩu
Xin quay về nương náu
Bậc thầy của nhân thiên.
<br>Sen quý nở đài giác ngộ
Hào quang chiếu rạng mười phương
Trí tuệ vượt tầm pháp giới
Từ bi thấm nhuận non sông
Vừa thấy dung nhan Điều ngự
Trăm ngàn phiền não sạch không
Hướng về tán dương công đức
Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.
<br><b>Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni</b>. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị chủ lễ xướng các danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau mỗi danh hiệu:
<p style="padding-left: 56px;"><b>LẠY BỤT</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ Bụt, Pháp Tăng thường trụ trong mười phương. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm đảnh lễ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Tôn giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Tôn giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Tôn giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Tôn giả Luật Sư Ưu Ba Ly. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Tôn giả Khải Giáo A Nan Đà. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ đức Tôn giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các triều đại từ Thiên Trúc đến Việt Nam. (C)
<p style="padding-left: 56px;"><b>TRÌ TỤNG</b>
<br><b>Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni</b> <i>(ba lần)</i> (C)
<br>Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm
Cơ duyên may được thọ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
<br>Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (C)
<p style="padding-left: 56px;"><b>KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA</b> (C)
<br>Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
Tức diệu pháp trí độ
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn. (C)
<br>Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả. (C)
<br>Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sinh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý, sáu căn
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp, sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ tập diệt đạo
Không trí cũng không đắc.(C)
<br>Vì không có sở đắc
Nên khi vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt niết bàn tuyệt đối. (C)
<br>Chư Bụt trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú trí độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
<br>Gate
Gate
Paragate
Parasamgate
Bodhi Svaha.<sup><b>(*)</b></sup> (CC)
<br><b>(*)</b> <i>Đọc là xóa ha</i>.
<p align="center"><b>TÁC PHÁP YẾT MA</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa?
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Thủ Chúng: Đại chúng đã tập họp đầy đủ.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Yết Ma: Có sự hòa hợp không?
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Thủ Chúng: Có sự hòa hợp.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Yết Ma: Có vị nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh không?
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Thủ Chúng: không có.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><i>(Trong trường hợp có thì nói: "Có Sa di... vì lý do sức khỏe không đến tụng giới được, đã yêu cầu Sa di... đại diện và gửi theo sự thanh tịnh")</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp để làm gì?
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Thủ Chúng: Để thực hiện yết ma tụng mười giới.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Yết Ma: Xin đại chúng các vị Sa di lắng nghe! Hôm nay, ngày (.../.../...), ngày được chọn để thuyết tụng giới luật, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc giới luật trong tinh thần hòa hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có thành hay không?
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">(Đại chúng đáp: Thành).
<p align="center"><b>KHAI THỊ</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đây là lúc chúng ta tuyên thuyết mười giới Sa di. Xin các vị Sa di xuất ban, chắp tay trước Tam Bảo. Nghe tiếng chuông xin lạy xuống ba lạy để tự lòng tôn kính Bụt, Pháp và Tăng. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin các vị Sa di lắng nghe! mười giới Sa di là cửa ngõ lớn đưa vào đại chúng những người xuất gia, làm nền tảng của giới Lớn Ba La Đề Mộc Xoa sau này. Các vị hãy lắng nghe từng giới một với tâm hồn thanh tịnh, lấy giới luật làm tấm gương trong vắt để soi chiếu nội tâm mình, và xin im lặng trả lời "Có" mỗi khi thấy mình trong hai tuần qua có cố gắng học hỏi và hành trì giới luật được tuyên đọc. Các vị Sa di, các vị đã sẵn sàng chưa? Đây tôi xin tuyên đọc nội dung của mười giới.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ nhất là bảo vệ sinh mạng.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ nhất của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ hai là tôn trọng quyền tư hữu.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ và năng lực của con với những kẻ thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm của riêng bất cứ một tài vật nào của thường trú hoặc của bất cứ ai. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, và cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ hai của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ ba là bảo vệ tiết hạnh.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được rằng lý tưởng của người xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với ái dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác, và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ ba của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ tư là thực tập chánh ngữ và lắng nghe.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo các hạnh chánh ngữ và lắng nghe để có thể dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết rõ. Con nguyện thực tập lắng nghe với tâm từ bi, để có thể hiểu được những khổ đau và khó khăn của kẻ khác và để làm vơi đi những khổ đau của họ. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong đoàn thể tu học của con, những điều có thể gây nên chia rẽ và làm tan vỡ đoàn thể tu học của con. Con nguyện không nói những lỗi lầm của bất cứ một vị xuất gia nào ngoài tăng thân con và bất cứ về một đạo tràng nào khác, dù có khi con nghĩ là những lỗi lầm này có thật.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ tư của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ năm là bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm, không sử dụng rượu, các chất ma túy và tiêu thụ những sản phẩm có độc tố.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng rượu, các chất ma túy và các độc tố gây ra, con nguyện chỉ tiêu thụ những thức ăn thức uống không có độc tố và không có tác dụng gây nên sự say sưa, tình trạng mất tự chủ của thân tâm và tình trạng nặng nề và ốm đau của thân thể cũng như của tâm hồn. Con nguyện thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống và tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có cả những sản phẩm sách báo và phim ảnh có chứa đựng bạo động, sợ hãi, thèm khát và hận thù.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ năm của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ sáu là không sử dụng mỹ phẩm và đồ trang sức.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được cái đẹp đích thực của người xuất gia là tính chất vững chãi và thảnh thơi, con nguyện mỗi ngày làm đẹp cho con và cho tăng thân con bằng sự thực tập chánh niệm, cụ thể qua sự hành trì giới luật và các uy nghi trong đời sống hàng ngày. Con biết các loại mỹ phẩm và trang sức mà người đời sử dụng chỉ có thể đem lại sự hào nhoáng giả tạo bên ngoài, và chỉ có tác dụng gây ra sự chìm đắm và vướng mắc, cho nên con nguyện sống giản dị, gọn gàng và sạch sẽ trong cách ăn mặc của con. Con nguyện không sử dụng các loại nước hoa, phấn, sáp, các loại mỹ phẩm và các thức trang sức khác.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ sáu của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ bảy là không vướng mắc vào các lối tiêu khiển trần tục.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được những ca khúc, phim truyện, sách báo và các trò giải trí của thế gian có thể có tác dụng độc hại cho thân tâm người xuất gia và làm mất thì giờ cho công phu tu học của mình, con nguyện không để bị chìm đắm theo những sản phẩm ấy. Con nguyện không đọc tiểu thuyết, xem phim ảnh và sách báo trần tục, không tìm sự tiêu khiển bằng cách ca hát và thưởng thức những bài hát tình sầu, kích động và đứt ruột, và không đánh mất thì giờ tu học của con bằng những trò chơi điện tử và bài bạc.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ bảy của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ tám là không sống đời sống vật chất sang trọng và xa hoa.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất sang trọng và xa hoa, người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và tự hào, con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục và tri túc. Con nguyện không ngồi và không nằm trên những chiếc ghế và chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là, gấm vóc xe cộ bóng loáng và nhà cửa cao sang.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ tám của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ chín là không ăn mặn và không ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được nhu yếu giữ gìn sức khỏe, sống hòa hợp với tăng thân và nuôi dưỡng lòng từ bi, con nguyện suốt đời ăn chay và không ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng, trừ trường hợp có bệnh.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ chín của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">- Giới thứ mười là không tích lũy tiền bạc và của cải.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý thức được rằng hạnh phúc của người xuất gia được làm bằng các chất liệu vững chãi và thảnh thơi, con nguyện không để cho tiền bạc và của cải làm vướng bận đường tu của con. Con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải, không đi tìm hạnh phúc trong sự chất chứa tiền bạc và của cải, không nghĩ rằng tiền bạc, châu báu và của cải có thể bảo đảm cho sự an ninh của con.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là giới thứ mười của mười giới Sa di. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay không? <i>(ba hơi thở, chuông)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Các vị Sa di nam và nữ, được sinh làm người, được gặp Bụt, Pháp và được tham dự vào sự sống của các đại tăng là một sự may mắn cho chính bản thân, cho gia đình và cho dòng họ. Thì giờ thấm thoát như tên bay, quý vị phải chuyên cần tu học, đừng bỏ phí thì giờ và tuổi trẻ. Nghe chuông, xin lạy xuống ba lạy để tự lòng tôn kính Tam Bảo trước khi về chỗ.
<p style="padding-left: 56px;"><b>TRÌ TỤNG</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin đại chúng nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn. <i>(mỗi danh hiệu ba lần)</i>
<p style="padding-left: 56px;"><b>NIỆM BỤT</b>
<i>(Mỗi danh hiệu ba lần)</i>
<br>Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)
Nam mô đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi. (C)
Nam mô đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (C)
Nam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm. (C)
<p style="padding-left: 56px;"><b>QUY NGUYỆN</b>
<br>
lutram2a.jpg

<br>Trầm hương xông ngát điện
Sen nở Bụt hiện thân
Pháp giới thành thanh tịnh
Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)
<br>Đệ tử tâm thành
Hướng về Tam Bảo
Bụt là thầy chỉ đạo
Bậc tỉnh thức vẹn toàn
Tướng tốt đoan trang
Trí và bi viên mãn. (C)
<br>Pháp là con đường sáng
Dẫn người thoát cõi mê
Đưa con trở về
Sống cuộc đời tỉnh thức. (C)
<br>Tăng là đoàn thể đẹp
Cùng đi trên đường vui
Tu tập giải thoát
Làm an lạc cuộc đời. (C)
<br>Đệ tử nương nhờ Tam Bảo
Trên con đường học đạo
Biết Tam Bảo của tự tâm
Nguyện xin chuyên cần
Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)
<br>Nguyện theo hơi thở
Nở nụ cười tươi
Nguyện học nhìn cuộc đời
Bằng con mắt quán chiếu
Nguyện xin tìm hiểu
Nỗi khổ của mọi loài
Tập từ bi
Hành hỷ xả
Sáng cho người thêm niềm vui
Chiều giúp người bớt khổ
Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục
Nếp sống lành mạnh an hòa
Cho thân thể kiện khương
Nguyện rũ bỏ âu lo
Học tha thứ bao dung
Cho tâm tư nhẹ nhõm
Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo
Ơn cha mẹ ơn thầy
Ơn bè bạn chúng sanh
Nguyện tu học tinh chuyên
Cho cây bi trí nở hoa
Mong một ngày kia
Có khả năng cứu độ mọi loài
Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)
<br>Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh.
Gia hộ cho đệ tử chúng con
Viên thành đại nguyện (CC)
<p style="padding-left: 56px;"><b>QUAY VỀ NƯƠNG TỰA</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CCC)
<p style="padding-left: 56px;"><b>HỒI HƯỚNG</b>
<br>Tụng giới pháp thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi miền. (C)
Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Bụt xin chứng nên. (CCC)</p>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p align="right"><b>LỜI CẢNH GIÁC VÀ KHÍCH LỆ
CỦA THIỀN SƯ QUY SƠN</b>
<p style="padding-left: 56px;"><b>Ý Thức Vô Thường</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì nghiệp duyên còn đó nên mới có hình hài, mà đã có hình hài thì tránh sao khỏi được hệ lụy? Tập hợp do di thể của cha mẹ, nương vào các điều kiện khác mà hình thành, thân thể này tuy được bốn yếu tố là đất, nước, không khí và sức nóng hộ trì, nhưng vì những yếu tố này lại lắm khi xung khắc với nhau cho nên trong chúng ta không ai thoát khỏi được cái vô thường, cái già và cái bệnh. Sự vật sớm còn tối mất, có thể chỉ một giây phút sau là đời này đã chuyển sang đời khác, khác gì hạt sương xuân, khác gì tia nắng sớm? Cây mọc bờ nước, giây leo miệng giếng, thân này cũng thế, đâu có thể có mặt lâu dài? Ngày tháng đi mau, mỗi giây phút chỉ ngắn như một sát na, đời trước cách đời sau chỉ là một hơi thở, vậy thì tại sao ta lại ngồi yên để cho cuộc đời trôi qua một cách oan uổng đáng tiếc như thế?
<p style="padding-left: 56px;"><b>Tránh Lề Thói Hưởng Thụ</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Xuống tóc, theo thầy học đạo, là đã không còn cơ hội được phụng dưỡng mẹ cha, gần gũi thân quyến, tiếp nối nghiệp nhà và góp công bình trị đất nước, thì đáng lý một mặt ta phải chuyên cần tu niệm, một mặt ta phải từ khước việc tranh đua, quyết tâm buông bỏ những thói đời phàm tục để thực hiện cho được việc xuất ly sanh tử. Vậy thì tại sao vừa được thọ giới đã vội vàng tự xưng là đại đức cao tăng? Khi tiếp nhận thức cúng dường của đàn việt và sử dụng vật liệu của thường trú, tại sao ta không quán chiếu những thức ấy từ đâu đến, mà cứ nói ngang rằng mình là thầy tu thì có quyền nhận của cúng dường? Ăn xong lại túm năm tụm ba nói chuyện ồn ào, câu chuyện lại toàn là những câu chuyện phiếm ngoài đời. Những kẻ ấy không biết rằng vui chơi cách đó chỉ là để chuốc lấy cái khổ về sau. Những người như thế có thể đã từng nhiều kiếp chạy theo trần cảnh mà chưa từng có cơ hội quán chiếu trở lại. Thời gian thấm thoát, vướng vào sự thọ hưởng tín thí, bao nhiêu năm tháng đã qua rồi mà những vị ấy vẫn chưa có khả năng từ bỏ, cứ tiếp tục chất chứa của tiền để bảo trì cái hình hài huyễn mộng mà thôi.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Thế Tôn đã từng khuyên bảo các vị xuất gia là muốn đi tới trên đường đạo nghiệp và trang nghiêm pháp thân thì phải biết sống một cuộc sống tam thường bất túc, nghĩa là trong ba cái ăn, mặc và ở đừng bao giờ đầy đủ quá. Phần đông cứ bị đam mê trong lề thói hưởng thụ ấy mà không để ý đến chuyện ngày tháng qua mau, khi giật mình tỉnh dậy thì đầu mình đã bạc. Kẻ mới học chưa có cơ hội tìm thấy hướng đi thì phải hết lòng học hỏi rộng rãi với các bậc đi trước có nhiều kinh nghiệm, đừng làm như thể đi xuất gia là chỉ vì miếng cơm manh áo.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Giới Là Căn Bản</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Giới và luật đã được Bụt sáng chế để soi sáng cho tình trạng mê muội của trí óc con người. Các giới tướng và uy nghi rõ ràng và trong sạch như băng tuyết. Ta hãy ghi nhớ nguyên tắc chỉ trì tác phạm. Dừng lại được mà không làm điều sai quấy tức là trì giới. Không kềm chế được, cứ đi tới để làm gãy đổ tất cả tức là phạm giới. Cái tâm đẹp đẽ ban đầu của người xuất gia phải được trân quý giữ gìn. Những chương nói về giới tướng và uy nghi rất rõ ràng và đầy đủ chi tiết, nếu thực tập theo ta sẽ chấm dứt được mọi tình trạng bê bối. Nếu không học hỏi và hành trì giới luật thì làm sao mong hiểu được giáo nghĩa thượng thừa?
<p style="padding-left: 56px;"><b>Sơ Tâm Cần Nuôi Dưỡng</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Để cho đời mình trôi qua oan uổng, đó là một điều đáng tiếc, sau này có hối cũng không thể nào còn kịp. Giáo pháp chưa từng để vào lòng, thì chánh đạo nhiệm mầu do đâu mà khế ngộ được? Có nhiều vị tuổi đời đã cao, tuổi đạo cũng lớn, mà kiến giải thì rỗng không, trong khi tâm ý lại đầy tự phụ. Vì không biết nương nhờ vào các bậc thiện tri thức nên người ta cứ tưởng rằng mình là người giỏi, và từ từ sinh ra xấc láo và ngạo ngược. Trong khi đó, nếu giáo pháp không tinh tường và giới luật không rành rẽ thì những người này làm sao biết được cách thức điều phục thân và tâm của họ? Không có cơ hội tiếp xúc và cung kính các bậc cao đức, người ta chỉ thích tụ họp với nhau để ăn chơi và nói chuyện phiếm như những kẻ phàm phu tục tử ngoài đời. Khua bát lớn tiếng, ăn rồi bỏ dậy trước, các vị ấy quả không có phong thái của thầy tu. Đứng ngồi vụt chạc, họ làm động niệm những vị xuất gia khác. Phép tắc tối thiểu cũng không theo, uy nghi tối thiểu cũng không hành, thì làm sao mà họ có thể đào tạo được một thế hệ tương lai? Những kẻ mới tu sống gần họ không biết nhìn vào đâu để làm mẫu mực. Vậy mà khi được nhắc nhở thì liền trả lời: tôi là vị tăng sĩ cư trú ở núi rừng. Chưa từng thực sự được học hỏi về những pháp môn hành trì của Bụt chỉ bày nên họ vẫn còn y nguyên thô tháo. Sở dĩ những vị ấy có những cái nhìn sai lạc như thế cũng vì từ buổi ban đầu, sơ tâm của họ không được đặt vào nơi có thể nuôi dưỡng. Người xuất gia nếu cứ để cho tập khí tham nhiễm lôi kéo đi theo thói đời thì dần dà phong thái sẽ trở nên quê kệch, và cũng sẽ mau chóng trở nên già cỗi và hủ lậu. Có ai tìm tới để cầu được hướng dẫn thì mình ù ù cạc cạc như đang đối diện với một bức tường. Các thế hệ hậu lai có muốn tới tham vấn thì cũng không có khả năng tiếp dẫn họ. Nếu có mở lời đàm thuyết thì cũng không phù hợp với kinh điển giáo pháp. Và khi bị giới trẻ từ khước không nghe theo thì các vị lại lên án họ là hậu sinh vô lễ, rồi nổi giận đùng đùng mà la át người ta.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Phải Nên Liệu Trước</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Một sáng mai nào đó nằm hấp hối trên giường bệnh, trong khi đủ các thứ đau khổ xúm lại bao vây, ràng buộc và bức bách, tâm tư tràn đầy lo lắng và hoảng sợ, những kẻ ấy sẽ thấy con đường trước mặt họ hoàn toàn mờ mịt và họ không biết mình sẽ đi về đâu. Giờ đây mới biết hối hận, nhưng đến lúc chết khát mới có ý đào giếng thì làm sao cho kịp? Hận rằng mình đã không biết tu tập từ những ngày trước, tuổi đã già mà lỗi lầm trong quá khứ đã chất chứa quá nhiều, trong giờ phút lâm chung khi năm uẩn và tứ đại đang tan rã mau chóng, họ thấy trong lòng dâng đầy những nỗi khiếp sợ hãi hùng. Rồi lưới thủng chim bay, tâm thức bị nghiệp lực kéo đi, như con nợ bị những người chủ nợ tới đòi, nghiệp nào nặng thì mình bị lôi theo nghiệp ấy. Lưỡi hái vô thường không chịu trì hoãn một giây lát nào, mạng sống không thể kéo dài thêm một khoảnh khắc, thời gian nhất định không thể chờ ta. Ba cõi luân hồi chưa thoát, chẳng biết còn phải ra vào sanh tử đến bao nhiêu vạn lần.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Nỗ Lực Tinh Tiến</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nghĩ đến đây tôi cảm thấy quá thương tâm, nên không thể nín thinh mà không mở lời nhắc nhủ. Chúng ta đã không may sinh vào cuối thời tượng pháp, cách Bụt lâu đời; cái học hiểu về Phật pháp thì sơ sài mà người tu đạo phần nhiều lại lười biếng. Cũng vì thấy thế cho nên tôi không ngại cái thấy còn nhỏ bé của tôi mà can đảm lên tiếng để khuyên nhủ các thế hệ tương lai. Nếu chúng ta không bỏ được cái thói kiêu căng thì làm sao có cơ hội cho thân tâm ta chuyển hóa?
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Mục đích của người xuất gia là cất bước bước lên cho được bến bờ giải thoát, vì vậy mà cả về hai phương diện tâm ý và hình dung, người xuất gia không giống với người trần tục. Người xuất gia phải nối tiếp và làm rạng rỡ cho được giòng giống của thánh tăng, nhiếp phục được quần ma, báo đền được bốn ân và cứu độ cho ba cõi. Nếu không sống được theo chí nguyện ấy thì ta chỉ là những kẻ lạm xen vào tăng đoàn, hành động và ngôn ngữ đều hoang sơ, hoàn toàn cô phụ tấm lòng của đàn na thí chủ. Nhìn lại nơi điểm khởi hành năm cũ, thì ta đã bước thêm được bước nào đâu? Nếu sống cho qua ngày thì hoảng hốt một đời, còn lấy gì để trông mong và nương tựa?
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy nhiên, nhìn lại, ta thấy ta vẫn còn hình tướng đẹp đẽ của người xuất gia; chắc chắn là trong quá khứ ta đã gieo rắc nhân lành cho nên hôm nay mới có được quả báo tốt đẹp ấy. Vậy thì tại sao ta còn ngồi yên khoanh tay, không biết trân quý thì giờ để cho tháng năm trôi qua như vậy? Nếu không nỗ lực tinh tiến trên đường tu học thì làm sao một ngày kia đạo quả có thể viên thành? Nếu kiếp này mà trôi qua oan uổng thì kiếp sau sẽ được thừa hưởng gì?
<p style="padding-left: 56px;"><b>Gần Gũi Bạn Lành</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ bỏ người thân, quyết lòng mặc áo tu, chủ ý của ta là vượt lên một chân trời cao rộng nào đó. Nếu biết tâm niệm điều này mỗi giây mỗi phút thì làm sao ta có thể để cho ngày tháng trôi qua? Kỳ vọng sẽ làm trụ cột cho Phật pháp, làm gương mẫu cho thế hệ mai sau, nuôi dưỡng tâm ý ấy hàng ngày mà chưa chắc đã thực hiện được một phần nào chí nguyện của mình. Nói ra lời nào thì lời ấy cũng phải phù hợp với kinh giáo, đàm luận chuyện gì cũng phải dựa vào sự nghiên cứu và kinh nghiệm của cổ nhân. Phong thái ta phải đĩnh đạc, chí khí ta phải cao siêu. Cần đi đâu xa thì phải nương tựa vào bạn hiền, để có thể luôn luôn thanh lọc những điều ta nghe, ta thấy. Khi cư trú cũng phải nương tựa vào bạn tốt để ngày nào cũng được học hỏi thêm những điều chưa được am tường. Người ta nói rằng cha mẹ tuy sinh ra ta nhưng chính bạn hữu lại là kẻ tác thành cho ta. Sống gần gũi với các bậc thiện tri thức thì cũng như đi trong sương, tuy áo không ướt nhưng cũng có nhuần thấm. Còn nếu chơi với kẻ xấu thì cái thấy càng ngày càng sai lạc, sớm chiều vì vậy cứ tiếp tục tạo ra nghiệp xấu. Kết quả có cần chờ lâu đâu. Nó đến ngay trước mắt. Sau này một khi đã mất thân người thì muôn kiếp sẽ khó mà lấy lại.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Khẩn Thiết Dụng Tâm</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Lời nói ngay thẳng thường không êm tai, sao ta không có khả năng khắc ghi vào tâm khảm? Nếu tiếp nhận được chánh kiến, ta sẽ có thể rửa tâm, vun đức, ẩn tích, mai danh, rèn luyện tinh thần, chấm dứt mọi huyên náo vô ích. Nếu có chủ tâm tham thiền học đạo để hạ thủ công phu, thì phải vượt lên khỏi những pháp môn phương tiện để tâm tư có thể khế hợp với những tông chỉ thâm huyền. Nếu muốn tham cứu những tinh yếu của thoại đầu, phăng tìm chỗ thâm áo, tỏ ngộ chỗ chân nguyên, thì phải tham học rộng rãi với các bậc đi trước nhiều kinh nghiệm, và sống gần gũi với các bậc thiện tri thức. Những tông chỉ huyền diệu của Thiền tông rất khó nắm bắt, muốn đạt cho được thì phải khẩn thiết dụng tâm. Khẩn thiết dụng tâm mới mong đốn ngộ được cốt tủy bên trong và từ từ bước lên nấc thang khai ngộ. Đây là con đường phá hủy được cả hai mươi lăm lãnh vực hiện hữu hàm chứa trong ba cõi và đưa tới cái thấy là tất cả các pháp trong ta và ngoài ta đều không có bản chất chân thực, tất cả đều là giả danh, do tâm biến hiện. Khi ấy ta sẽ không còn đem tâm chạy theo với cảnh. Tâm không theo cảnh thì cảnh làm sao có thể ràng buộc được tâm? Ta cứ để cho các pháp tự nhiên diễn biến trong tự tánh chân thực của chúng mà không còn bị kẹt vào các ý niệm thường tại và đoạn diệt. Lúc ấy tai ta tuy còn nghe, mắt ta tuy còn thấy, tuy thanh sắc vẫn xảy ra mà đứng về cả hai phía tích môn và bản môn tâm ta vẫn thản nhiên và bình thường, ứng dụng đầy đủ. Có được cái thấy ấy rồi thì dù ngồi yên hay là hành động ta cũng thong dong. Có như thế thì mới bõ công khoác áo người tu, vì bây giờ ta đã có khả năng bắt đầu đền đáp được bốn ân và cứu độ được ba cõi. Nếu kiếp này như vậy mà kiếp khác cũng tiếp tục được như vậy, không bị thối chuyển, thì quả vị toàn giác là cái nhất định có thể mong cầu. Lúc bấy giờ ta sẽ đóng vai người khách quý lui tới trong ba cõi, khi vào, khi ra đều có thể làm khuôn phép cho tất cả mọi người. Phép tu thiền rất là huyền diệu. Nếu tâm chí quyết liệt, chắc chắn ta sẽ thành công.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Trai Giới Tinh Chuyên</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng nếu căn cơ của ta chưa cho phép ta vượt thoát sinh tử theo con đường đốn ngộ như thế, thì ta phải để tâm học hỏi giáo pháp, nghiên tầm kinh điển, nắm cho được tinh yếu của giáo điển để có thể giảng dạy, truyền bá cho các thế hệ tương lai mà báo đáp một phần ơn đức của Bụt. Đừng để thì giờ uổng phí, mà phải lấy công hạnh nghiên cứu và truyền dạy làm lẽ sống của đời mình. Một khi đã biết hành xử và đi đứng trong uy nghi, thì ta đã có thể xứng đáng được gọi là pháp khí của tăng thân rồi. Hãy nhìn thử những dây sắn và dây bìm quấn theo thân cây tùng, cây bách mà leo lên: có khi chúng leo lên cao được cả ngàn sải. Phải nương vào lý tưởng cao đẹp và các bậc đại nhân thì ta mới có thể trở nên người hữu dụng mà làm lợi ích cho thế gian. Phải hết lòng thực tập việc trì trai giữ giới, đừng khinh thường một chi tiết nào của giới luật và uy nghi mà phạm vào những lầm lỗi và thiếu sót. Nếu thực tập nghiêm chỉnh được phép trì trai giữ giới thì từ đời này sang đời khác nhân quả tốt lành sẽ được tiếp nối một cách nhiệm mầu.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Nuôi Hoài Bảo Lớn</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ta không có quyền để tháng ngày đi qua luống uổng: phải trân quý thời gian và phải hết lòng mong mỏi tiến lên trên con đường của sự nghiệp giác ngộ. Đừng lạm dụng của tín thí, đừng cô phụ bốn ơn, đừng tích lũy cho nhiều để cho tâm tư bị tài lợi bít lấp. Nếu không thì đời ta sẽ u trệ, và nhìn ta kẻ khác sẽ chê cười. Người xưa đã khích lệ: “Kẻ kia đã là đấng trượng phu thì tại sao ta lại không?’’ Đừng nên có mặc cảm tự ti mà chùn bước và chịu thua. Nếu ta không có thái độ của bậc trượng phu thì thật uổng phí cho cuộc đời của một kẻ xuất gia, rốt cuộc một kiếp đi qua mà không có ích lợi gì cho ai cả.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi rất mong các bạn phát tâm cho dũng mãnh, ôm hoài bão thật cao xa, khi hành xử thì mô phỏng các bậc cao nhân, đừng đi theo lề thói của những kẻ hư hèn. Ngay trong đời này, bạn phải tự nắm lấy vận mệnh của bạn, đừng giao phó vận mệnh của mình cho ai hết. Hãy học chấm dứt tà ý, an định tâm tư, đừng chạy theo trần cảnh. Tâm ta vốn là tự tại, đối tượng đích thực của chân tâm là niết bàn, chỉ vì lâu ngày bế tắc cho nên ta không thấy rõ được đó thôi.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Nắm Quyền Tự Chủ</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin các bạn hãy đọc lại kỹ những lời tôi đang nói đây để thường ngày cùng nhau nhắc nhở. Phải nắm lấy quyền tự chủ, ta đừng nên để cho tập khí kéo lôi. Đừng đợi đến lúc nghiệp lực đến lôi kéo ta đi, vì lúc ấy ta sẽ không thể trốn tránh và chống cự lại nó. Âm mà hòa thì thanh sẽ thuận, hình mà thẳng thì bóng sẽ ngay; nhân quả rõ ràng, ta không thể không lo xa. Kinh dạy: nghiệp đã tạo ra thì sẽ còn đó, dù trăm ngàn kiếp vẫn còn. Nếu ta không biết chuyển hóa thì đến khi nó đã chín muồi ta phải nhận lãnh quả báo. Nên nhớ rằng khổ đau trong ba cõi là những hình phạt có công dụng ràng buộc và sát hại ta, vì vậy ta phải tu tập cho siêng năng, nhất định đừng để tháng ngày trôi qua oan uổng.
<p style="padding-left: 56px;"><b>Cùng Đi Với Nhau</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Các bạn ơi, chỉ vì thấy quá rõ những tai ương và hoạn nạn do hướng đi lỗi lầm đưa tới, cho nên tôi mới nói lên những lời khuyến khích hành trì này. Xin nguyện trăm kiếp ngàn đời về sau, bất cứ ở đâu tôi cũng sẽ được cùng quý vị làm người bạn đồng hành trên con đường hành trì Phật pháp. Có bài Minh sau đây để cùng nhau nhắc nhở:
<p style="padding-left: 56px;">Thân huyễn, nhà mộng,
Hư hao bóng sắc
Quá khứ không cùng
Tương lai không chắc
Hiện đây ẩn kia
Ra vào cực nhọc
Chưa khỏi ba vòng
Chừng nào chấm dứt?
<br>Tham luyến thế gian
Ấm, duyên là chất
Từ sinh tới chết
Có gì nắm bắt?
Chỉ vì vô minh
Nên bị mê hoặc
Hãy quý tháng ngày
Vô thường bất trắc
Đời này luống qua
Đời sau bế tắc
Từ mê sang mê
Cũng vì sáu giặc
Qua lại sáu đường
Ba cõi lăn lóc.
<br>Sớm tìm minh sư
Gần bậc cao đức
Quán chiếu thân tâm
Diệt trừ gai góc
Thế gian hư huyễn
Trần lao áp bức
Quán chiếu các pháp
Vượt lên cho được
Tâm cảnh đều quên
Chẳng còn thao thức
Sáu căn an nhiên
Nằm ngồi tĩnh mặc
Tâm đã không sinh
Muôn pháp đều dứt!</p>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p><b>KỆ TÁN
XƯNG TÁN BỤT</b>
<p style="padding-left: 56px;">Phật bảo sáng vô cùng
Đã từng vô lượng kiếp thành công
Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông
Sáng rực đỉnh Linh Phong
Trên trán phóng hào quang rực rỡ
Chiếu soi sáu nẻo hôn mông
Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng
Tiếp nối Pháp chánh tông
Xin quy y thường trú Phật đà gia!
<p><b>XƯNG TÁN PHÁP</b>
<p style="padding-left: 56px;">Pháp bảo đẹp vô cùng
Lời vàng do chánh Bụt tuyên dương
Chư thiên trỗi nhạc tán hoa hương
Pháp mầu nhiệm tỏ tường
Ghi chép rõ ràng thành ba Tạng
Lưu truyền hậu thế mười phương
Chúng con nay thấy được con đường
Nguyện hết sức tuyên dương
Xin quy y thường trú Đạt ma gia!
<p><b>XƯNG TÁN TĂNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Tăng bảo quý vô cùng
Phước điền hạt tốt đã đơm bông
Ba y một bát bước thong dong
Giới định tuệ dung thông
An trú đêm ngày trong chánh niệm
Thiền cơ chứng đạt nên công
Chúng con tất cả nguyện một lòng
Về nương tựa tăng thân
Xin quy y thường trú Tăng già gia.
<p><b>DÂNG HƯƠNG</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Hương đốt khói trầm xông ngát
Kết thành một đóa tường vân
Đệ tử đem lòng thành kính
Cúng dường chư Bụt mười phương
Giới luật chuyên trì nghiêm mật
Công phu thiền định tinh cần
Tuệ giác hiện dần quả báu
Dâng thành một nén tâm hương.
<br>Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương.
<p><b>DÂNG HƯƠNG</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Lò báu đốt danh hương
Khói trầm quyện tỏa khắp mười phương
Tâm bồ đề dũng liệt phi thường
Tiếp xúc đâu cũng phóng hào quang
Khắp chốn an định tỏ tường
Kính thành phụng hiến đức Từ Tôn.
<br>Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương
<p><b>DÂNG HƯƠNG</b> (3)
<p style="padding-left: 56px;">Xin cho khói trầm thơm
Kết thành mây năm sắc
Dâng lên khắp mười phương
Cúng dường vô lượng Bụt
Vô lượng chư Bồ Tát
Cùng các thánh hiền tăng
Nơi pháp giới dung thông
Kết đài sen rực rỡ
Nguyện làm kẻ đồng hành
Trên con đường giác ngộ
Xin mọi loài chúng sanh
Từ bỏ cõi lãng quên
Theo đường giới định tuệ
Quay về trong tỉnh thức.
<br>Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương
<p><b>DÂNG HƯƠNG</b> (4)
<p style="padding-left: 56px;">Nguyện khói hương thơm này
Cung thỉnh được Thế Tôn
Có mặt với chúng con
Nơi đạo tràng ở đây
Trong giây phút hiện tại
Nguyện khói hương thơm này
Tỏa ngát cả mười phương
Thanh tịnh chốn đạo tràng
Giúp chúng con duy trì
Chánh kiến chánh tư duy
Nguyện khói hương thơm này
Bảo hộ cho chúng con
Vững chãi và thảnh thơi
Hiểu nhau và thương nhau
Bây giờ và mãi mãi
Hương Giới, Định và Tuệ
Là tâm hương nhiệm mầu
Chúng con kính dâng lên
Chư Bụt và Bồ Tát
Trong thế giới mười phương
Nguyện mọi loài chúng sanh
Thấy được ánh đạo vàng
Ly khai nẻo sanh tử
Hướng về nẻo bồ đề
Thường trú trong an lạc.
<br>Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương
<p><b>DÂNG HƯƠNG</b> (5)
<p style="padding-left: 56px;">Tâm hương vừa mới đốt
Pháp giới đã thơm lừng
Mây lành dâng bốn hướng
Chư Bụt hiện toàn thân
Nam mô Bồ Tát Cúng Dường Hương
<p><b>TÁN DƯƠNG THẾ TÔN</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Xinh tốt như hoa sen
Rạng ngời như Bắc Đẩu
Xin quay về nương náu
Bậc thầy của nhân, thiên.
<p><b>TÁN DƯƠNG THẾ TÔN</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Xưng tán đức Thế Tôn
Bậc vô thượng năng nhân
Từng trải qua vô lượng kiếp tu nhân
Rồi từ cung Đâu Xuất giáng thần
Giã từ ngôi vị quốc vương
Ngồi gốc Bồ Đề đại phá Ma quân
Một sáng sao mai vừa mọc
Đạo lớn viên thành
Rồi đại chuyển Pháp luân.
<br>Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm
Đạo vô sanh sẽ chứng
Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm
Đạo vô sanh nguyện chứng.
<p><b>TÁN DƯƠNG THẾ TÔN</b> (3)
<p style="padding-left: 56px;">Mặt đẹp như vầng nguyệt
Ba cõi đều xưng Tôn
Hàng phục mọi chướng ma
Thiên Nhân đều nép phục.
<p><b>TÁN DƯƠNG QUÁN ÂM</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Trí tuệ bừng lên đóa biện tài
Đứng yên trên sóng sạch trần ai
Cam lộ chữa lành cơn khổ bệnh
Hào quang quét sạch buổi nguy tai
Liễu biếc phất bày muôn thế giới
Sen hồng nở hé vạn lâu đài
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
<br>Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm.
<p><b>TÁN DƯƠNG QUÁN ÂM</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Phổ Môn vọng tiếng triều dâng
Bé thơ xuất hiện giữa lòng đóa sen
Cam lồ một giọt rưới lên
Xuân về trên khắp mọi miền núi sông.
<br>Nam mô Bồ Tát Quan Thế Âm.
<p><b>TÁN DƯƠNG PHÁP HOA</b>
<p style="padding-left: 56px;">Đêm tụng Kinh Pháp Hoa
Tiếng xao động tinh hà
Địa cầu vừa tỉnh thức
Lòng đất bỗng đơm hoa!
Đêm tụng Kinh Pháp Hoa
Bảo tháp hiện chói lòa
Khắp trời Bồ Tát hiện
Tay Bụt trong tay ta.
<p><b>TÁN DƯƠNG KIM CƯƠNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Làm sao vượt sanh tử
Đạt được thân Kim Cương?
Tu tập theo lối nào
Quét được muôn huyễn tướng?
Xin Bụt đem lòng thương
Mở bày kho bí tạng
Vì tất cả chúng con
Đem pháp mầu diễn xướng!
<p><b>TÁN DƯƠNG CHUẨN ĐỀ</b>
<p style="padding-left: 56px;">Cúi đầu quy y Tô Tất Đế
Thành tâm đảnh lễ Thất Câu Chi
Con nay xưng tán Đại Chuẩn Đề
Xin nguyện xót thương mà gia hộ.
<p><b>NIỆN BỤT</b>
<p style="padding-left: 56px;">Sông Ái dài muôn dặm
<Biển Mê sóng vạn tầm
Cõi luân hồi muốn thoát
Niệm Bụt hãy nhất tâm.
<p><b>CÚNG DƯỜNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Phụng hiến cam lồ vị
Phân lượng như thái hư
Xin mọi loài đạt nguyện
Về nương bóng Đại Từ.
<p><b>SÁM HỐI</b>
<p style="padding-left: 56px;">Con đã gây ra bao lầm lỡ
Khi nói, khi làm, khi tư duy
Đam mê, hờn giận và ngu si
Nay con cúi đầu xin sám hối
Một lòng con cầu Bụt chứng tri
Bắt đầu hôm nay nguyền làm mới
Nguyền sống đêm ngày trong chánh niệm
Nguyền không lặp lại lỗi lầm xưa.
<br>Nam mô Bồ Tát Cầu Sám Hối.
<p><b>THỈNH CHUÔNG</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Ba nghiệp lắng thanh tịnh
Gửi lòng theo tiếng chuông
Nguyện người nghe tỉnh thức
Vượt thoát nẻo đau buồn.
<p><b>THỈNH CHUÔNG</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Khắp nơi u tối mọi loài nghe
Siêu nhiên vượt thoát vòng sanh tử
Giác ngộ tâm tư một hướng về.
<p><b>THỈNH CHUÔNG</b> (3)
<p style="padding-left: 56px;">Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Xa xôi tăm tối cũng đều nghe
Những ai lạc bước mau dừng lại
Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về.
<p><b>THỈNH CHUÔNG</b> (4)
<p style="padding-left: 56px;">Chuông đại hồng mới vọng
Tiếng kệ xướng đã vang
Trên vọng tới thiên đường
Dưới thông về địa phủ.
<br>Nam mô đức Bồ Tát Địa Tạng giáo chủ cõi U minh.
<p><b>NGHE CHUÔNG</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.
<p><b>NGHE CHUÔNG</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Nghe chuông phiền não tan mây khói
Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười
Hơi thở nương chuông về chánh niệm
Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi.
<p><b>NGHE CHUÔNG</b> (3)
<p style="padding-left: 56px;">Nghe tiếng chuông
Lòng nhẹ buông
Tâm tĩnh lặng
Hết sầu thương
Tập buông thả
Thôi vấn vương
Lắng nghe thấu
Tận nguồn cơn
Học nhìn lại
Hiểu và thương.
<br>Nam mô đức Bồ Tát Lắng Nghe Quan Thế Âm.
<p><b>KỆ CHUÔNG</b> <i>(Thời tĩnh tọa sáng)</i>
<p style="padding-left: 56px;">Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai
Tĩnh tọa lòng an, miệng mỉm cười
Ngày mới nguyện đi trong tỉnh thức
Mặt trời trí tuệ rạng muôn nơi
Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến
nhiếp tâm thiền tập.
<br>Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni <i>(3 lần)</i>
<p><b>KỆ CHUÔNG</b> <i>(Thời tĩnh tọa tối)</i>
<p style="padding-left: 56px;">Vững thân ngồi dưới cội bồ đề
Ba nghiệp lắng rồi hết thị phi
Thu nhiếp thân tâm vào chánh niệm
Rõ soi diện mục thoát bờ mê
Ngưỡng mong đại chúng tinh tiến
nhiếp tâm thiền tập.
<br>Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni. <i>(3 lần)</i>
<p><b>KỆ TRỐNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Trống sấm vừa xao nghiệp chướng tiêu
Ba hồi chín chuyển hướng tiêu diêu
Trên kia thiên giới quần tiên lạc
Dưới ấy u quan chúng quỷ siêu.
<br>Nam mô Bồ Tát Siêu Lạc Địa. <i>(3 lần)</i>
<p><b>MỞ KINH</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệm
Cơ duyên may được thụ trì
Xin nguyện đi vào biển tuệ
Tinh thông giáo nghĩa huyền vi.
<p><b>MỞ KINH</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Pháp Bụt cao siêu huyền diệu
Ngàn đời chưa dễ gặp đâu
Giờ đây có duyên trì tụng
Nguyện xin đạt ý nhiệm mầu.
<p><b>HỒI HƯỚNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Trì tụng kinh thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sanh mọi miền.
Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Bụt xin chứng nên.
<p><b>HỒI HƯỚNG TỊNH ĐỘ</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Nguyện sanh về Tịnh Độ
Sen nở thấy vô sanh
Chư Bụt và Bồ Tát
Là những bạn đồng hành.
Nguyện dứt hết phiền não
Cho trí tuệ phát sanh
Cho tội chướng tiêu tán
Quả giác ngộ viên thành.
<p><b>HỒI HƯỚNG TỊNH ĐỘ</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Các Bụt trong mười phương
A Di Đà bậc nhất
Chín phẩm sen độ người
Uy đức không lường được
Con xin nguyện quy y
Sám hối tội ba nghiệp
Gồm hết phước thiện xưa
Một lòng xin hồi hướng:
Nguyện công phu niệm Bụt
Cảm ứng được hiện tiền
Rồi đến giờ lâm chung
Cảnh Tây Phương hiển hiện
Những gì thấy và nghe
Đều làm con tinh tiến
Niệm Bụt quyết một lòng
Sanh về nước Cực Lạc
Thấy Bụt thoát sanh tử
Rồi được cùng với Bụt
Giáo hóa và độ sanh
Đoạn vô biên phiền não
Tu vô lượng pháp môn
Nguyền độ hết chúng sanh
Đều trọn thành chánh giác
Hư không hữu hạn
Nguyện con vô cùng
Hữu tình vô tình
Đều lên bờ giác.
<p><b>TẮM BỤT</b>
<p style="padding-left: 56px;">Hôm nay được tắm cho Như Lai
Trí tuệ quang minh công đức lớn
Chúng sanh ba cõi đang chìm đắm
Được thấy trần gian hiện pháp thân.
<br>Nam mô đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni.
<p><b>CÁT TƯỜNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Nguyện ngày an lành đêm an lành
Đêm ngày sáu thời đều an lành
An lành trong mỗi giây mỗi phút
Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở
Bốn loài sinh lên đất Tịnh
Ba cõi thác hóa tòa Sen
Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam hiền
Vạn loại hữu tình lên Thập Địa.
<br>Nam mô Bồ Tát Siêu Thập Địa.
<p><b>CAM LỘ</b>
<p style="padding-left: 56px;">Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành dương rưới cam lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng.
<br>Nam mô Bồ Tát Cam Lộ Vị.
<p><b>NƯỚC TỊNH</b> (1)
<p style="padding-left: 56px;">Đầu cành dương liễu vương cam lộ
Một giọt mười phương rưới cũng đầy
Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết
Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây.
Liễu biếc phất bày muôn thế giới
Sen hồng nở hé vạn lâu đài
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay.
<br>Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa.
<p><b>NƯỚC TỊNH</b> (2)
<p style="padding-left: 56px;">Nước này vốn sẵn tám công đức
Rửa đi trần cấu của muôn loài
Đưa vào cõi nhiệm mầu Hoa Tạng
Chúng sanh siêu thoát không riêng ai
Nước không rửa nước, pháp thân nhiệm
Bụi không vương bụi, tự tâm khai
Đàn tràng rưới lên đã thanh tịnh
Cây héo biến thành cây tốt tươi
Cõi uế hóa ra làm cõi tịnh
Mọi loài mát mẻ sống an vui.
<br>Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa.
<p><b>NƯỚC TỊNH</b> (3)
<p style="padding-left: 56px;">Cành dương nước tịnh
Rưới khắp tam thiên
Tánh không tám đức độ nhân thiên
Pháp giới sáng rộng thêm
Diệt mọi oan khiên
Biển lửa nở hoa sen.
<br>Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa.
<p><b>SIÊU ĐỘ</b>
<p style="padding-left: 56px;">Tây phương không xa cách
Tây phương trước mặt người
Ngàn sông về biển lớn
Trăng lặn không lìa trời
Âm dương không cách trở
Sanh tử vẫn tương dung
Niệm Bụt cầu siêu độ
Lắng nghe xin một lòng.
<p><b>VÃNG SANH</b>
<p style="padding-left: 56px;">Nam Kha mộng vừa tỉnh
Tịnh Độ sen nở rồi
Quê nhà đã về tới
An lạc và thảnh thơi
<br>Nam mô Bồ Tát An Lạc Địa
<p><b>XUẤT SANH</b>
<p style="padding-left: 56px;">Đại bàng Garuda
<br>Quỷ thần nơi khoáng dã
Mẹ con quỷ la sát
Cam lồ đều no đủ.
<br>Án mục đế tóa ha.
<p align="center"><b>NĂM QUÁN</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Thức ăn này là tặng phẩm của đất, trời, của muôn loài và công phu lao tác.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin nguyện ăn trong chánh niệm và với lòng biết ơn để xứng đáng thụ nhận thức ăn này.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ăn, xin nhớ nhận diện và chuyển hóa những tâm hành xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin nguyện ăn như thế nào để giảm thiểu khổ đau của mọi loài, bảo hộ được trái đất và chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì muốn xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ và để độ đời nên chúng con xin thụ nhận thức ăn này.
<p><b>ĂN CƠM</b>
<p style="padding-left: 56px;">Thìa thứ nhất, nguyện hiến tặng niềm vui.
Thìa thứ hai, nguyện làm vơi nỗi khổ.
Thìa thứ ba, nguyện giữ lòng hoan hỷ.
Thìa thứ tư, nguyện học hạnh đối xử bình đẳng, không kỳ thị và loại trừ.
<p><b>NHÌN BÁT KHI ĂN XONG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Bát cơm đã vơi
Bụng đã no rồi
Bốn ơn xin nhớ
Nguyện sẽ đền bồi.
<p><b>TIẾN TRÀ</b>
<p style="padding-left: 56px;">Trà trên đỉnh núi Tản
Nước giữa lòng sông Đà
Thiền vị chỉ một ngụm
Tịnh độ đã sanh qua.
<br>Nam mô Bồ Tát Siêu Lạc Độ.
<p><b>QIÁN TƯỞNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Trong thể tánh chân như
Không chủ thể đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như Đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy.
<p><b>KHAI THỊ CHO NGƯỜI QUÁ CỐ</b>
<p style="padding-left: 56px;">Thân này không phải là tôi
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy
Tôi là sự sống thênh thang
Tôi chưa bao giờ từng sanh mà cũng chưa bao giờ từng diệt
Nhìn kia biển rộng trời cao
Muôn vàn tinh tú lao xao
Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức
Tự muôn đời tôi vẫn tự do
Tử sanh là cửa ngõ ra vào
Tử sanh là trò chơi cút bắt
Hãy cười cùng tôi
Hãy nắm tay tôi
Hãy vẫy tay chào
Để rồi tức thì gặp lại
Gặp lại hôm nay
Gặp lại ngày mai
Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn
Chúng ta sẽ gặp nhau từng phút giây trên muôn vàn nẻo sống.
<p><b>XƯNG TÁN TAM BẢO</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Kính lạy đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Biến Tri (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Bụt, Thế Tôn. (C)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Diệu Pháp của đức Thế Tôn là thiện thuyết, là hiện thân thụ chứng, là xa lìa nhiệt não, là vượt thoát thời gian, là đến để mà thấy, là dẫn đạo đi lên, là tự mình thông hiểu. (C)
<p style="padding-left: 56px;">Tăng thân của đức Thế Tôn
Đang đi trên đường diệu hạnh,
Trên đường trực hạnh,
Trên đường ứng lý
Trên đường chánh chân
Là đoàn thể tứ song bát bối.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Là đáng được cung dưỡng, đáng được tôn sùng, đáng được quy kính, đáng được chắp tay.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Là phước điền vô thượng trên đời. (C)
<p style="padding-left: 56px;"><b>PALI</b>
<br>Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa. (C)
Iti pi so bhagavā; araham sammā-sambuddho,
vijjā-caraṇa-sampanno sugato lokavidū,
anuttaro purisa-damma-sārathi satthā<br>-deva manussānam buddho bhagāva'ti. (C)
<br>Svākkhāto bhagavatā dhammo,
sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko,
opanayiko paccattam veditabbo
vinnūhi'ti (C)
<br>Supaṭipanno bhagavato sāvaka sangho,
ujupaṭipanno bhagavato sāvaka sangho,
ñāyapaṭipanno bhagavato sāvaka sangho,
sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvaka sangho,
yadidam cattāri purisayugāni aṭṭhapurisa-puggalā,
esa bhagavato sāvaka sangho,
<br>ahuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo
anuttaram puññakkhettam lokassā’ti. (C)
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p><b>SÁM QUY MẠNG</b>
<p style="padding-left: 56px;">Quy mạng mười phương Vô Thượng Giác
Pháp mầu vi diệu đã tuyên dương
Thánh tăng bốn quả ba thừa độ
Duỗi cánh tay vàng nguyện xót thương. (C)
<br>Ngược dòng chân tính từ lâu,
Chúng con trôi nổi biển sầu sông mê.
Thấy đâu lối thoát đường về,
Bập bềnh sóng nước chưa hề đoái lui.
Nguyên nhân hữu lậu gây rồi,
Bao nhiêu nghiệp chướng lâu đời tạo ra.
Biết đâu nẻo chính đường tà,
Oan khiên nghiệp báo thật là nặng sâu.
Nay con khẩn thiết cúi đầu,
Phơi bày sám hối cần cầu Hồng ân. (C)
<br>Chí thành cầu đấng Năng Nhân,
Từ bi cứu vớt trầm luân mọi loài.
Nguyện cùng thiện hữu ra khơi,
Tìm lên bờ giác lìa nơi não phiền.
Kiếp này xin nguyện xây thêm
Cao tòa phúc đức vững nền đạo tâm.
Chờ mong đạo nghiệp vun trồng,
Từ bi, trí tuệ nẩy mầm tốt tươi.
Sinh ra gặp pháp sống đời chân tu. (C)
<br>Dắt dìu nhờ bậc minh sư,
Nương vào chính tín hạnh từ xuất gia.
Sáu căn ba nghiệp thuần hòa,
Không vương tục lụy theo đà thế nhân.
Một lòng tấn đạo nghiêm thân,
Giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa.
Oai nghi phong độ chói lòa,
Lòng từ hộ mạng trước là vi sinh.
Lại thêm đầy đủ duyên lành,
Bao nhiêu tai nạn biến thành hư không.
Bồ Ðề nguyện kết một lòng,
Ðài sen Bát Nhã Chân Không hiện tiền.
Nhờ công tu tập tinh chuyên,
Ðại Thừa liễu ngộ chứng truyền chân tâm.
Thoát ngoài kiếp hải trầm luân,
Hoằng khai lục độ hạnh môn cứu người.
Ðạo tràng dựng khắp nơi nơi,
Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không.
Tà ma hàng phục đến cùng,
Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung.
Vâng làm Phật sự mười phương,
Không vì lao nhọc, nản lòng tinh chuyên.
Bao nhiêu diệu pháp thâm huyền,
Thảy đều thực hiện siêu nhiên độ mình.
Rồi đem phúc tuệ độ sinh,
Chứng nên Phật quả, hoàn thành Pháp thân. (C)
<br>Tùy cơ ứng biến cõi trần,
Phân thân vô số độ dần chúng sinh.
Nước Từ rưới khắp nhân thiên,
Mênh mông biển Hạnh lời nguyền độ tha.
Khắp hòa thế giới gần xa,
Diễn dương diệu pháp, trước là độ sinh.
Những nơi khổ thú trầm luân,
Hào quang chiếu diệu hiện thân tốt lành.
Chỉ cần thấy dạng nghe danh,
Muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.
Phát lời nguyện ước cao sâu
Muôn nghìn khổ địa thảy đều tiêu tan.
Bao nhiêu nghiệp trái hàm oan,
Bao nhiêu đau khổ trong hàng súc sinh,
Ðều nhờ thần lực oai linh,
Sương tan núi biếc bình minh rạng ngời.
Thuốc thang cứu cấp cho đời,
Áo cơm cứu giúp cho người bần dân.
Bao nhiêu lợi ích hưng sùng,
An vui thực hiện trong vòng trầm luân.
Bao nhiêu quyến thuộc thân oan
Cũng nguyền vượt biển trần gian nổi chìm.
Xa lìa ái nhiễm liên miên,
Ðoạn trừ những mối phược triền thân tâm.
Vun trồng đạo nghiệp thiện nhân,
Cùng bao loài khác pháp thân hướng về. (C)
<br>Hư không dù có chuyển di,
Nguyện con muôn kiếp không hề lung lay.
Nguyện cầu vạn pháp xưa nay,
Hoàn thành trí nghiệp vững cây Bồ Ðề. (CCC)</p>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p><b>THI KỆ NHẬT DỤNG
<br>THỨC DẬY</b>
<br>Thức dậy mỉm miệng cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.
<p><b>QUƠ DÉP</b>
<br>Đặt chân trên mặt đất
Là thể hiện thần thông
Từng bước chân tỉnh thức
Làm hiển lộ pháp thân.
<p><b>XUỐNG GIƯỜNG</b>
<br>Sáng, trưa, chiều và tối
Mọi loài hãy giữ gìn
Nếu dưới chân lỡ đạp
Xin nguyện chóng siêu sinh.
<p><b>MỞ CỬA SỔ</b>
<br>Mở cửa nhìn pháp thân
Đời mầu nhiệm không cùng
Lòng dặn lòng tỉnh thức
Dòng nước tâm trong ngần.
<p><b>VẶN NƯỚC</b>
<br>Nước từ nguồn suối cao
Nước từ lòng đất sâu
Nước mầu nhiệm tuôn chảy
Ơn nước luôn tràn đầy.
<p><b>RỬA TAY</b>
<br>Múc nước để rửa tay
Xin nguyện cho mọi người
Có đôi bàn tay khéo
Gìn giữ trái đất này.
<p><b>SÚC MIỆNG, ĐÁNH RĂNG</b>
<br>Đánh răng và súc miệng
Cho sạch nghiệp nói năng
Miệng thơm lời chánh ngữ
Hoa nở tự vườn tâm.
<p><b>SÚC MIỆNG</b>
<br>Súc miệng lòng cũng sạch
Vũ trụ ngát hoa hương
Ba nghiệp thường thanh tịnh
Cùng Bụt chơi Tây phương.
<p><b>VÀO NHÀ CẦU</b>
<br>Không nhơ cũn gkhông sạch
Không bớt cũng không thêm
Trí tuệ Ba la mật
Không có pháp nào trên.
<p><b>MẶC ÁO</b>
<br>Cơm ngày hai bữa ơn cày cấy
Áo mặc bốn mùa nghĩa dệt may.
<p><b>MẶC ÁO NHẬT BÌNH</b>
<br>Mang áo của người tu
Tâm tư thường khỏe nhẹ
Nguyện sống đời thảnh thơi
Đem vui cho trần thế.
<p><b>KHOÁC CÀ SA</b>
<i>(Nâng ngang trán)</i>
<br>Đẹp thay áo giải thoát
Áo ruộng phước nhiệm mầu
Con cúi đầu tiếp nhận
Đời đời nguyện mang theo.
<p><b>TẮM</b>
<br>Không sinh cũng không diệt
Không trước cũng không sau
Trao truyền và nhiếp thọ
Pháp giới tính nhiệm mầu.
<p><b>SOI GƯƠNG</b>
<br>Chánh niệm là đài gương
Gương soi hình tứ đại
Đẹp nhất là tình thương
Và cái nhìn rộng rãi.
<p><b>RỬA CHÂN</b>
<br>Sự an lạc
Của ngón chân
Niềm an lạc
Của thân tâm.
<p><b>VÀO THIỀN ĐƯỜNG</b>
<br>Vào thiền đường
Thấy chân tâm
Một ngồi xuống
Dứt trầm luân.
<p><b>NGỒI XUỐNG</b>
<br>Ngồi đây ngồi cội Bồ đề
Vững thân chánh niệm không hề lãng xao.
<p><b>ĐIỀU THÂN</b>
<br>Trong tư thế kiết già
Đóa hoa nhân phẩm nở
Hoa Ưu đàm muôn thuở
Vẫn tỏa ngát hương thơm.
<p><b>ĐIỀU CHỈNH HƠI THỞ</b>
<br>Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra mỉm miệng cười
Án trú trong hiện tại
Giờ phút đẹp tuyệt với.
<p><b>TÊ CHÂN ĐỔI CÁCH NGỒI</b>
<br>Khổ thọ và lạc thọ
Như mây trời theo gió
Hơi thở là dây neo
Thuyền về nơi bến cũ.
<p><b>QUÁN TƯỞNG TRƯỚC KHI LẠY</b>
<br>Trong thể tính chân như
Không chủ thể, đối tượng
Đệ tử kính lạy Bụt
Trong tương cảm nhiệm mầu
Biểu hiện khắp mười phương
Như đế châu ảnh chiếu
Nơi nào cũng có Bụt
Và có con kính lạy.
<p><b>CHẮP TAY CHÀO</b>
<br>Sen búp xin tặng người
Một vị Bụt tương lai.
<p><b>CHÙI CẦU TIÊU</b>
<br>Đẹp thay sự quét dọn
Tịnh nghiệp ngày thêm lớn.
<p><b>QUÉT TƯỚC</b>
<br>Siêng năng quét đất Bụt
Cây tuệ nẩy mầm xanh.
<p><b>DỌN THIỀN ĐƯỜNG</b>
<br>Nơi thiền đường im mát
Quét dọn không thấy mệt.
<p><b>ĐỔ RÁC</b>
<br>Một thùng rác bẩn
Một bông hồng thơm
Muôn vật chuyển hóa
Thường trong vô thường.
<p><b>CẮT HOA</b>
<br>Xin cắt một cành hoa
Tặng phẩm của đất trời
Hoa là vị Bồ tát
Làm đẹp cho cuộc đời.
<p><b>CẮM HOA</b>
<br>Trang nghiêm Tịnh độ
Nơi cõi Ta bà
Đất tâm thanh tịnh
Hiển lộ ngàn hoa.
<p><b>THAY NƯỚC BÌNH HOA</b>
<br>Nước giữ hoa tươi
Hoa nở cho người
Hoa thở tôi thở
Hoa cười tôi cười.
<p><b>ĐỐT NẾN</b>
<br>Thắp lên một ngọn đèn
Cúng dường vô lượng Bụt
Một tâm niệm an lành
Làm rạng ngời trái đất.
<p><b>BẬT ĐÈN</b>
<br>Thất niệm là bóng đèn
Chánh niệm là ánh sáng
Đưa tỉnh thức trở về
Cho thế gian tỏ rạng.
<p><b>LẶT RAU</b>
<br>Mặt trời xanh rờn
Một rỗ rau tươi
Vạn pháp nương nhau
Làm nên cuộc đời.
<p><b>LÀM VƯỜN</b>
<br>Đất đưa ta ra đời
Rồi đất ôm ấp ta
Sinh diệt trong hơi thở
Sinh diệt như hằng hà.
<p><b>TRỒNG CÂY</b>
<br>Tôi gửi tôi cho đất
Đất gửi đất cho tôi
Tôi gửi tôi nơi Bụt
Bụt gửi Bụt nơi tôi.
<p><b>TƯỚI CÂY</b>
<br>Nước mát và mặt trời
Cùng làm nên màu xanh
Cam lồ của Bồ tát
Rỏ xuông nơi sa mạc
Thành biển xanh
Mông mênh.
<p><b>TƯỚI CÂY TRONG CHẬU</b>
<br>Đừng thấy mình riêng lẻ cây ơi
Nước mát này tuôn chảy từ mạch đất trời
Nước này là đại địa
Ta có nhau tự muôn đời.
<p><b>UỐNG TRÀ</b>
<br>Chén trà trong tay
Chánh niệm nâng tròn đầy
Thân và tâm an trú
Bây giờ và ở đây.
<p><b>NÂNG BÁT CƠM</b>
<br>Ai ơi nâng chén bát đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
<p><b>CẦM ỐNG ĐIỆN THOẠI LÊN</b>
<br>Tiếng đi ngoài ngàn dặm
Xây dựng niềm tin yêu
Mỗi lời là châu ngọc
Mỗi lời là gấm thêu.
<p><b>THIỀN HÀNH</b>
<br>Ý về muôn vạn nẻo
Thiền lộ tâm an nhiên
Từng bước gió mát dậy
Từng bước nở hoa sen.
<p><b>ĐI XE ĐẠP</b>
<br>Ngồi thẳng trên xe đạp
Vững chãi giữ thăng bằng
Phúc xin tu cùng tuệ
Hành và giải song song.
<p><b>TRƯỚC KHI RỒ MÁY XE</b>
<br>Trước khi cho máy nổ
Tôi biết tôi đi đâu
Xe với tôi là một
Xe mau tôi cũng mau.
<p><b>GẮN DÂY LƯNG AN TOÀN</b>
<br>Hai phần ba tai nạn
Xảy ra ở gần nhà
Biết vậy tôi cẩn trọng
Dù không đi đâu xa.
<p><b>NHÌN BÀN TAY</b>
<br>Bàn tay là của ai
Chưa từng một lần chết
Ai ngày qua đã sinh
Ai ngày mai sẽ diệt.
<p><b>GIẬN</b>
<br>Cái giận làm tôi xấu
Biết vậy tôi mỉm cười
Quay về tủ hộ ý
Từ quán không buông lơi.
<p><b>MỞ MÁY VI TÍNH</b>
<br>Thắp lên máy vi tính
Ý tiếp xúc với tàng
Tập khí nguyện chuyển hóa
Nuôi lớn Hiểu và Thương.</p>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p><b>KỆ THỰC TẬP
TIẾP XÚC BẢN MÔN</b>
<p><b>ĐI CHƠI</b> (1)
<br>Đi chơi chốn bản môn
Nên đi bằng hai chân
Không nên đi bằng đầu
Đi bằng đầu sẽ lạc.
<p><b>ĐI CHƠI</b> (2)
<br>Đi chơi chốn bản mô
Tay ta nắm tay người
Ngàn xưa và ngàn sau
Cùng về chung một lối
<p><b>NGỒI CHƠI</b> (1)
<br>Ngồi chơi chốn tích môn
Dựa mình trên ghế dá
Con bướm ấy còn kia
Đóa hồng này không lạ.
<p><b>NGỒI CHƠI</b> (2)
<br>Ngồi chơi chốn tích môn
Ta gọi ta về đủ
Mở cửa bản môn rồi
Nhìn nhau cười thích thú.
<p><b>NGỒI CHƠI</b> (3)
<br>Ngồi chơi chốn tích môn
Nếu bạn nghe sốt ruột
Hãy nhìn bản môn cười
Ba đời cùng thông suốt.
<p><b>NẰM CHƠI</b>
<br>Nằm chơi trong bản môn
Gối đầu trên núi tuyết
Hai tay ôm mây hồng
Thành núi đồi trùng điệp.
<p><b>MẶC ÁO</b>
<br>Mặc áo trong tích môn
Trang nghiêm y chánh báo
Tịnh độ trong tầm tay
Nước non cùng sáng tạo.
<p><b>ĂN CƠM</b> (1)
<br>Ăn cơm nơi tích môn
Nuôi sống cả tổ tiên
Mở đường cho con cháu
Cùng tìm hướng đi lên.
<p><b>ĂN CƠM</b> (2)
<br>Ăn cơm nơi tích môn
Nhai đều như nhịp thở
Nhiệm mầu ta nuôi nhau
Từ bi nguyền cứu độ.
<p><b>RỬA BÁT</b> (1)
<br>Rửa bát trong tích môn
Ta rửa bát ngàn đời
Bát dơ rồi bát sạch
Đều trên đường rong chơi.
<p><b>RỬA BÁT</b> (2)
<br>Rửa bát trong tích môn
Ta nhìn ta mỉm cười
Ta làm chi đó vậy
Kìa nụ hồng đang tươi.
<p><b>RỬA BÁT</b> (3)
<br>Rửa bát nơi tích môn
Chồng lên ba vạn cái
Nhìn qua cửa bản môn
Bát rửa hoài không ngại.
<p><b>NHỔ CỎ</b> (1)
<br>Nhổ cỏ nơi tích môn
Nhớ đến Lý Huệ Tông
Ta nhổ cỏ dùm vua
Hiến tặng đời sự sống.
<p><b>NHỔ CỎ</b> (2)
Nhổ cỏ nơi tích môn
Nhớ đến Trần Thái Tông
Nhổ cỏ dùm Chiêu Hoàng
Cho sông dài biển rộng.
<p><b>NHỔ CỎ</b> (3)
<br>Nhổ cỏ chốn bản môn
Ta nhớ chú điệu xưa
Bụt che chở ngàn đời
Cho muôn ngàn cậu (cô) bé.
<p><b>NHỔ CỎ</b> (4)
<br>Nhổ cỏ nơi tích môn
Nhờ nhìn bản môn cười
Bản môn không che mặt
Tích môn liền thảnh thơi.
<p><b>QUÉT LÁ</b> (1)
<br>Quét lá nơi bản môn
Lá nào cũng thị hiện
Chơi đi trốn đi tìm
Chẳng đi mà chẳng đến
<p><b>QUÉT LÁ</b> (2)
<br>Quét là chốn bản môn
Ta cùng người thị hiện
Đi về phía mặt trời
Hẹn nhau cùng lên tiếng.
<p><b>KHÂU ÁO</b>
<br>Khâu áo chốn tích môn
Cho đời lành lặn lại
Mũi kim sợi chỉ này
Là công phu gặt hái.
<p><b>TƯỚI CÂY</b>
<br>Tưới cây trong bản môn
Tham dự vào sự sống
May tuyết cùng một dòng
Núi cao về biển rộng
<p><b>ĐỔ RÁC</b>
<br>Đổ rác chốn bản môn
Nhìn cái nhìn bất nhị
Gởi gắm về tương lai
Bông hoa đầu thế kỷ.
<p><b>ĐỐT LÒ</b>
<br>Đốt lò trong bản môn
Gửi mây về mùa Hạ
Cất mặt trời để dành
Cho những ngày Đông giá.
<p><b>NÓI PHÁP</b> (1)
<br>Nói pháp trong bản môn
Lá thu rụng đầy trời
Trăng thu đầy lối cũ
Pháp không đầy không vơi.
<p><b>NÓI PHÁP</b> (2)
<br>Nói pháp trong bản môn
Ta nhìn nhau mỉm cười
Ngươi chính là ta đó
Nghe cũng là nói rồi.
<p><b>NGỒI THIỀN</b> (1)
<br>Ngồi thiền trong tích môn
Nơi nào không thành đạo
Sanh tử trải bao lần
Phút giây này độc đáo
<p><b>NGỒI THIỀN</b> (2)
<br>Ngồi thiền trong bản môn
Giây nào cũng thành đạo
Cội nào cũng Bồ đề
Tòa nào cũng Đa Bảo.
<p><b>ĐI TIỂU</b>
<br>Đi tiểu trong bản môn
Đổi trao nào kỳ diệu
Ta và người không hai
Không dư mà không thiếu.
<p><b>GIẬN NHAU</b> (1)
<br>Giận nhau trong tích môn
Thở nhìn bản môn cười
Trò ghét thương đắp đổi
Sông nước cứ đầy vơi.
<p><b>GIẬN NHAU</b> (2)
<br>Giận nhau trong tích môn
Nhắm mắt nhìn mai sau
Trong ba trăm năm nữa
Ngươi đâu và ta đâu?
<p><b>CÔ ĐƠN</b>
<br>Cô đơn trong tích môn
Hãy ôm niềm hờn tủi
Ru nhẹ lời ca dao
Tuyết hoa rơi đầy núi.</p>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p align="right"><b>NHỮNG CHỈ DẪN VỀ SỰ THỰC TẬP BA CÁI LẠY</b>
<br><i>(Xem công phu chiều thứ năm)</i>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba lạy được biểu tượng bằng một chữ thập và vòng tròn.
<CENTER>
vongtron.jpg
</CENTER>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Ta bắt đầu bằng con đường dọc rồi tiếp đến bằng con đường ngang và sau hết là vòng tròn. Khi lạy xuống cái lạy đầu tiên, ta quán chiếu về tổ tiên và con cháu. Khi lạy ta nên lạy mọp xuống, càng sát đất càng tốt. Hai chân và hai tay sát xuống đất, trán cũng dính vào đất. Trong tư thế ấy, ta bắt đầu buông thư tất cả các bắp thịt trong cơ thể. Ta phải buông bỏ hết những gì ta nghĩ là ta, là của ta, để có thể hòa nhập được vào dòng sanh mạng của tổ tiên, trong đó có ta. "Con có tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị Bồ Tát, các vị thánh tăng. Có nhiều vị đã đạt tới mức toàn hảo về trí tuệ cũng như về thương yêu, nhưng cũng có các vị chưa đạt tới mức ấy, cũng còn những yếu kém, những khó khăn, những lên xuống". Bên phía gia đình huyết thống cũng vậy. "Con có những vị tổ tiên rất cao, rất đẹp, nhưng cũng có những vị tổ tiên còn đau khổ, còn lên xuống. Nhìn vào con, con thấy con có những cái rất hay, rất tốt, nhưng con cũng còn có những yếu kém, nhu nhược, những lỗi lầm, những khuyết điểm. Con là ai mà không dám chấp nhận tổ tiên của con, vì vậy con chấp nhận tất cả quí vị là tổ tiên của con, và con hòa đồng với quí vị". Lạy được như vậy, tự nhiên ta hòa giải được với tất cả tổ tiên của ta. Nếu ta giận thầy hay giận cha, giận mẹ, giận anh, giận chị thì cái lạy này là cái lạy để hòa giải với tất cả. Tất cả đều là tổ tiên của mình, trong đó có cha, có mẹ, chú, bác, cô, dì và có cả anh, cả chị nữa. Tất cả những người sanh ra trước mình đều là tổ tiên của mình. Đối với người xuất gia cũng vậy. Người thụ giới trước mình là anh mình hoặc là chị mình, dù người đó ít tuổi hơn. Dù người đó còn dở hơn mình về phương diện học hỏi cũng như về phương diện tu tập, thì người đó vẫn là anh của mình, vẫn là chị của mình, và mình chấp nhận người đó là anh, là chị của mình, chứ mình không nói: người đó giỏi gì hơn tôi mà lại làm anh tôi hay là làm chị tôi? Tổ tiên của ta cũng vậy. Tổ tiên của ta có những vị rất xuất sắc và cũng có những người còn yếu kém, nông nổi, nhưng tất cả đều là tổ tiên của ta và ta phải chấp nhận họ. Cha mẹ và anh chị của ta cũng vậy. Trong họ có những điều rất hay rất tốt nhưng trong họ cũng có những yếu kém. Ta biết rằng ta cũng vậy. Trong ta có những cái hay cái đẹp nhưng cũng có những yếu kém, vì vậy cho nên ta chấp nhận anh ta, ta chấp nhận chị ta. Ta không nói: "Người đó không xứng đáng làm anh tôi, người đó không xứng đáng làm chị tôi, tại vì người đó có hơn tôi gì đâu?" Tổ tiên là tổ tiên thôi. Giỏi hay dở đều là tổ tiên. Cha mẹ là cha mẹ thôi, dù giỏi hay dở cũng là cha mẹ. Trong truyền thống đạo Bụt, người xuất gia được coi là trưởng tử và trưởng nữ của Bụt, tại vì khi phát tâm xuất gia, họ bỏ gia đình, ra nhập vào tăng đoàn và đóng vai trò của người anh và người chị của giáo đoàn. Vì vậy, dù còn nhỏ tuổi, còn học dở, còn yếu kém về giới luật và uy nghi, họ vẫn là anh là chị của ta như thường. "Những người xuất gia đó, tuổi nhỏ hơn tôi, học Phật pháp chưa bằng tôi, tu cũng chưa đến đâu, tại sao họ lại ngồi trước, họ lại ngồi trên, họ làm anh làm chị tôi sao được". Nói như vậy là chưa hiểu được cái ý nghĩa thế nào là tổ tiên, thế nào là người xuất gia, là trưởng tử của Như Lai. Trưởng tử là con lớn. Dù có hư hèn, dù có khuyết giới, người đó cũng vẫn là anh của ta, là chị của ta, tại vì truyền thống là như thế. Họ là trưởng tử của Như Lai, ta có thể giỏi hơn họ, nhưng ta không thể nói rằng họ không phải là sư phụ của ta, sư thúc của ta, sư bá của ta, sư anh của ta, sư chị của ta. Họ là họ. Tại vì họ chưa có điều kiện, chưa có nhân duyên nên họ chưa giỏi đó thôi. Từ đó mà ta đi xuống các em ta, tới các con ta. Những người giận em, ganh với em, những người thấy em mình dở, em mình cứng đầu, em mình khó chịu, em mình hỗn; những người giận con, ghét con, muốn từ con, từ cháu, những người đó phải thực tập cho tinh chuyên cái lạy thứ nhất. "Lạy đức Thế Tôn, ở trong con có những điểm rất gần với sự toàn bích, nhưng bạch đức Thế Tôn, trong con cũng có những yếu kém, những lên xuống, những nội kết và khổ đau, vì vậy con có quyền gì mà không chấp nhận các em của con và các con của con khi các em, các con của con còn có những yếu kém, những lên xuống, cứng đầu và khổ đau. Con chấp nhận tất cả những người ấy là em của con, là con của con, là cháu của con". Trong cái lạy thứ nhất ta phải làm cho được việc này, nghĩa là ta phải thực tập hòa giải được với những người trên ta và với những người dưới ta. Nếu cha mẹ mình đã sanh ra mình và chấp nhận mình là con, thì mình phải chấp nhận cha mẹ là cha mẹ, mình phải chấp nhận anh của mình là anh của mình, chị của mình là chị của mình, và em của mình là em của mình. Ta phải ôm lấy họ hết dù họ có hư hèn, dù họ có ương ngạnh, dù họ có khó khăn, dù họ có khổ đau, tại vì chánh trong ta cũng có những điểm tiêu cực đó. Mình là ai mà không chấp nhận cha mẹ mình, không chấp nhận anh chị của mình. Nếu thầy mình đã sanh ra mình, nếu thầy mình đã chấp nhận mình là học trò thì tại sao mình không chấp nhận người sư chị của mình là chị của mình, người sư anh của mình là anh của mình, người sư em của mình là em của mình. Dù người sư anh, sư chị hay sư em ấy còn có những yếu kém, còn có những lên xuống, còn có những trồi sụt, thì họ vẫn là sư anh của mình, sư chị của mình hay sư em của mình. Mình phải chấp nhận, mình phải hòa giải với người đó và chỉ có con đường ấy mới có thể giúp được những người kia. Cái lạy đầu tiên này ta phải lạy hàng ngày. Nhất là khi ta có vấn đề với cha mẹ, với thầy, với sư huynh, với sư đệ thì ta phải lạy cho thật hết lòng, phải phủ phục năm vóc sát đất.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Cái lạy thứ hai là cái lạy trong đó ta tiếp xúc với những con người và những chúng sanh có mặt cùng thời với ta, trong thời gian này, trong giờ phút hiện tại. Cũng như trong cái lạy đầu, ta phải mọp xuống sát đất, ta phải làm cho cái ngã của ta hòa nhập với dòng sanh mạng của thế giới trong giây phút hiện tại. Ta có thể hướng tới những vị Bồ Tát, những vị đại nhân đang có mặt trên thế giới, đang có mặt xung quanh ta trong giây phút hiện tại. Ta gọi họ là Bồ Tát hay không là Bồ Tát thì họ vẫn là các vị Bồ Tát. Họ mang danh hiệu Bồ Tát hay không mang danh hiệu Bồ Tát thì họ vẫn là Bồ Tát, tại vì trong họ có yếu tố của sự vững chãi, thảnh thơi và thương yêu. Họ ở khắp nơi. Có thể trong các tổ chức thiện nguyện như Médecins Sans Frontières hay Ecole Sans Frontières có những vị Bồ Tát như vậy. Có những tổ chức thiện nguyện đi làm việc khắp nơi trên thế giới; tình thương, sự vững chãi và sự thảnh thơi của họ đang được sử dụng để làm vơi bớt những khổ đau đang tràn ngập thế giới. Trong số những người đi làm việc cứu trợ, có người có chất liệu của sự vững chãi, thảnh thơi và an lạc, và vì vậy trong khi làm việc, họ không bị chìm đắm trong biển khổ. Nếu không có chất liệu của an lạc, thảnh thơi và vững chãi thì khi đi làm công việc xã hội, giúp đỡ người ta, mình sẽ bị chìm đắm luôn với người ta, mình sẽ giận hờn, mình sẽ thù hận. Nếu có những người không bị chìm đắm trong biển khổ là tại vì trong họ có những chất liệu vững chãi và thảnh thơi. Ngay ở quanh ta, chúng ta cũng đang có những vị Bồ Tát như vậy. Mở mắt ra là chúng ta có thể tiếp xúc với họ, chúng ta hòa nhập với họ : "Tôi với các vị là một, tôi đang nương vào các vị, và tôi đang được thừa hưởng chất liệu thảnh thơi, vững chãi và an lạc của quý vị". Ta phải hòa nhập với họ nếu không thì ta sẽ yếu lắm. Ta phải dựa vào họ mà đừng cần đi tìm đâu xa tại vì họ có mặt ngay tại đây. Các vị đại nhân đó, các vị Bồ Tát đó không cần phải lớn tuổi, đôi khi họ còn rất nhỏ và ta có thể nhận thấy trong họ chất liệu của sự vững chãi, của sự thảnh thơi, của sự an bình và hạnh phúc mà ta rất cần đến. Trong cái lạy thứ hai này, ta hòa nhập với họ để tiếp nhận năng lượng đó của họ, ta biết rằng họ có mặt đó là may mắn cho ta lắm. Sau khi đã tiếp xúc với họ, ta lại tập tiếp xúc với những loài chúng sanh đang lặn ngụp chìm đắm trong biển khổ. Những người đang đau khổ vì chiến tranh ở Bosnia, những em bé đói ở Uganda, những người đang bị tù đày, những người đang khổ đau, những người đang bị áp bức bóc lột, những em bé lớn lên không được đi học phải đi lượm thức ăn từ những thùng rác... Tất cả những người đó đều là ta cả. Ta phải thấy ta là con ếch đang bơi thảnh thơi trong hồ thu, ta cũng thấy ta là con rắn nước trườn đi để tìm thức ăn và nuốt con ếch đó vào bụng. Con rắn nước cũng cần ăn, cần sống. Trong cuộc đời có những khổ đau như vậy, và tiếp xúc với những khổ đau đó, ta đau niềm đau của tất cả chúng sanh, ta thấy ta là một với họ, nhưng ta không đắm chìm trong biển khổ, tại vì ta đã có chỗ nương tựa, chỗ nương tựa của ta là các vị Bồ Tát, các bậc đại nhân. Những người có hạnh phúc, an lạc và thảnh thơi, ta không cần phải đi tìm ở đâu xa, họ có mặt ngay trong tăng thân. Những người đau khổ cũng vậy, ta không cần phải đi tìm đâu xa, họ nằm ngay ở trong tăng thân. Ta là họ, và khi ta nhận diện được họ rồi, con mắt ta đang nhìn họ đã chứng tỏ rằng ta đã thấy được cái đau khổ của họ. Ta thương xót họ, ta có lòng từ bi với họ và họ sẽ cảm nhận được ngay điều đó. Cái lạy thứ hai đem lại hạnh phúc cho ta ngay trong thời gian ta thực tập. Cái lạy thứ hai cho ta nhận diện được những người có chất liệu vững chãi, thảnh thơi và thương yêu, để chúng ta có thể nương vào họ và đồng nhất với họ. Cái lạy này cũng giúp ta nhận diện những kẻ đang đau khổ vì nhận thức sai lầm của họ, vì những nội kết trong quá khứ, vì những điều không may mắn đã xảy ra trong quá khứ của họ, để ta có thể ôm lấy được họ trong hai vòng tay, để có thể thông cảm và đồng nhất với họ. Ta hành xử với cái nhìn sâu sắc và thái độ từ bi. Chất liệu từ bi từ đâu mà có? Từ bi có được là do ta nhìn sâu và thấy rõ. Cái hiểu và cái thấy đưa tới cái thương. Trong cái lạy thứ hai này, ta nương tựa và hòa nhập với những người mạnh khỏe, an lạc, vững chãi và thảnh thơi nhưng ta cũng hòa đồng với những người có những khó khăn và đau khổ; và chánh cái thấy đó giúp ta phát khởi được tâm từ bi. Tâm từ bi một khi phát sanh sẽ được biểu hiện trên ánh mắt, trên bàn tay và bước chân của chúng ta. Và những cái đó bắt đầu giúp được người kia. Giúp được người kia nhưng đồng thời ta cũng giúp được chánh ta. Khi có chất liệu từ bi trong lòng, ta bắt đầu có hạnh phúc. Đối tượng của từ bi là người kia. Không biết người kia đã nhận được hạnh phúc nào từ từ bi ấy chưa, nhưng một khi giọt nước cam lộ của từ bi đã được ứa ra từ trái tim ta thì ta được hưởng trước. Người nào không có từ bi thì không có hạnh phúc, đó là điều mà ta đã học được trong đạo Bụt. Chất liệu từ bi càng lớn, hạnh phúc của ta càng lớn.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Lạy thứ ba bao trùm thời gian và không gian. "Lạy xuống, con buông bỏ ý niệm con chỉ là cái hình hài này". Đây là sự thực tập mà thiền sư Tăng Hội gọi là "phóng khí xu mạng". Thường thường ta nghĩ rằng chỉ có cái hình hài này là ta. Một số các phụ nữ ở Pháp vừa mới tổ chức biểu tình để đòi quyền phá thai, trong khi đó một số phụ nữ Pháp khác lại tổ chức một cuộc biểu tình chống lại cuộc biểu tình này. Các phụ nữ đòi quyền phá thai đưa ra lý luận như thế này: thân này là của tôi, tôi phải có chủ quyền trên thân tôi, tôi muốn làm gì thân tôi thì làm. Nhiều người nghe câu đó nghĩ là đúng. Nhưng trong tuệ giác nhà Phật thì cái đó không đúng: thân này không phải chỉ là của ta, thân này là của tổ tiên, của cha mẹ, của con cháu ta, của nhân loại, của vũ trụ. Ta cần phải quán chiếu. Sự an vui của thân này có liên hệ tới sự an vui của thân khác. Trong cái lạy thứ ba, ta thấy rằng ta không phải chỉ là hình hài này, đã được sanh ra ngày ấy, tháng ấy, năm ấy và sẽ không còn nữa từ ngày ấy, tháng ấy, năm ấy. Trong kinh, sự thật này được Bụt nhắc lại nhiều lần: thân này không phải là tôi. Trong cái lạy đầu, nếu thực tập đàng hoàng, ta đã thấy sự thật đó rồi: tổ tiên của con là con, cha mẹ của con là con, anh của con là con, chị của con là con, em của con là con, con của con là con. Tôi lớn hơn cái mà tôi tưởng là tôi. Trong cái lạy này, ta hòa nhập vào trong dòng sanh mạng, ta thấy cái mà ta gọi là ta vượt thoát giới hạn của hình hài này. Cái lạy thứ nhất đã chứa đựng cái lạy thứ ba rồi. "Con lạy xuống và buông bỏ ý niệm hình hài này là tất cả những gì mà con có". "Hình hài này là con, con chỉ là hình hài này", ta phải buông bỏ ý niệm đó. "Con lạy xuống và con thấy rằng sanh mạng của con không phải được giới hạn trong bảy hay tám chục năm. Con đã có mặt từ trước khi con sanh ra và con sẽ tiếp tục có mặt sau khi con chết đi. Thọ mạng của con là vô lượng. Thọ mạng của con không bị vướng vào thời gian". Đó là cái lạy thứ ba, mà tuệ giác của cái lạy thứ ba chẳng qua là do cái lạy thứ nhất và thứ hai đưa tới thôi. Nghe như cái lạy thứ ba khó thực tập hơn hai cái lạy đầu, nhưng kỳ thực nếu ta đã thành công trong cái lạy thứ nhất và cái lạy thứ hai, thì cái lạy thứ ba đã bắt đầu thành công rồi.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu có thể, ta nên thực tập ba cái lạy này mỗi ngày. Thực tập ba cái lạy cho sâu sắc, ta có thể thoát ly được sanh tử.</p>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,013
Điểm tương tác
289
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p align="center"><b>NGUỒN GỐC KINH VĂN SỬ DỤNG
TRONG SÁCH NHẬT TỤNG THIỀN MÔN</b>
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Sáng Thứ Hai</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Kim Cương Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não:</b> Kinh này được dịch từ tạng Hán, nguyên tên là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật do thầy Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào đầu thế kỷ thứ năm. Kinh này là kinh số 335 trong tạng kinh Đại Chánh. Tiếng Phạn Vajracchedika có nghĩa là Kim Cương có khả năng chặt đứt (phiền não), dịch là Kim Cương Năng Đoạn hoặc Năng Đoạn Kim Cương. Các thầy Cấp Đa (đời Tùy) và Nghĩa Tịnh (đời Đường) đều dịch là Kim Cương Năng Đoạn.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh này từ xưa đến nay đã được nhận thức như một trong những kinh đại thừa căn bản của Thiền, nghĩa lý vô cùng thâm sâu. Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sinh tử và khổ đau, nhất là bốn ý niệm ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả mà kinh gọi là tướng. Muốn nắm bắt được tinh yếu của kinh, xin hành giả tham cứu sách Kim Cương Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não (nhà xuất bản Lá Bối) do thiền sư Nhất Hạnh trước thuật.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Thương Yêu:</b> Kinh này vốn tên là Metta Sutta, dịch từ tạng Pali, trong bộ Sutta Nipata, phần I. Kinh này dạy phương pháp nuôi dưỡng lòng từ bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao đẹp nhất, câu kinh sáng ngời ấy đã được trích ở kinh này.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Chiều Thứ Hai</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Phổ Hiền:</b> Kinh này được trích trong phẩm Nhập Bất Tư Nghị Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, do thầy Bát Nhã dịch vào thế kỷ thứ bảy. Kinh này là kinh số 293 trong tạng kinh Đại Chánh. Tinh túy của kinh này là mười hạnh nguyện lớn của bồ tát Phổ Hiền: lễ kính Chư Bụt, xưng tán Như Lai, cúng dường cùng khắp, sám hối nghiệp chướng, tùy hỉ công đức, thỉnh Bụt chuyển Pháp luân, thỉnh Bụt ở lại cõi đời, theo Bụt học hỏi, hằng thuận chúng sinh và hồi hướng cùng khắp. Những hạnh nguyện này đều được thực tập trong tuệ giác tương tức và tương nhập: một là tất cả, tất cả là một.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Diệt Trừ Phiền Giận:</b> Kinh này được dịch từ kinh Thủy Dụ, kinh thứ 25 của bộ Trung A Hàm (26, tạng kinh Đại Chánh). Kinh tương đương trong tạng Pali là kinh Aghatavinaya của Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya IIỊ186). Tuệ giác và hạnh nguyện của thầy Xá Lợi Phất trong kinh này chứng tỏ thầy xứng đáng là bậc cao đệ của Bụt. Sống trong chúng xuất gia, nếu thực tập được theo những giáo huấn của kinh này ta sẽ có nhiều an lạc và sẽ tạo được an lạc cho cả tăng thân ta.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Sáng Thứ Ba</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Quán Niệm Hơi Thở:</b> Kinh này được dịch từ tạng Pali, tên kinh là Anapanasatisutta, dịch theo Hán là Nhập Tức Xuất Tức Niệm Kinh. Kinh này là kinh 118 của Trung Bộ (Majjhina Nikaya). Trong tạng Hán, nếu ta góp chung các kinh số 815, 803 và 810 của bộ Tạp A Hàm (kinh 99 của tạng kinh Đại Chánh) lại thì sẽ có nội dung tương đương với kinh này. Quán Niệm Hơi Thở là một trong những thiền kinh căn bản nhất của đạo Bụt nguyên thỉ. Muốn học hỏi cách thức thực tập kinh này trong đời sống hàng ngày để tự nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa, xin tham khảo sách Kinh Quán Niệm Hơi Thở (nhà xuất bản Lá Bối) của thiền sư Nhất Hạnh.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Chiều Thứ Ba</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Các Bậc Đại Nhân:</b> Kinh này được dịch từ kinh Bát Đại Nhân Giác của tạng Hán, do thầy An Thế Cao dịch từ tiếng Phạn. Đây là kinh 779 của tạng kinh Đại Chánh. Hành giả có thể tham khảo thêm kinh A Na Luật Bát Niệm của tạng Pali (Anuruddhamahàvitakkasutta)trong Tăng Nhất Bộ (Anguttara Kikàya) và kinh Bát Niệm, kinh số 74 của bộ Trung A Hàm. (Kinh 26 của tạng kinh Đại Chánh). Kinh này tuy ngắn nhưng có đầy đủ những đề tài quán chiếu căn bản đưa tới tuệ giác và giải thoát. Xin tham khảo sách Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân của thiền sư Nhất Hạnh chú giải và do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Sức Mạnh Quan Âm:</b> Đây là phần trùng tụng của phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25 của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dịch từ tạng Hán. Kinh Pháp Hoa này do thầy Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn vào đầu thế kỷ thứ năm. Đây là kinh số 262 của tạng Đại Chánh. Thần lực của bồ tát Quan Thế Âm là do các pháp quán chiếu Chân quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại trí tuệ quán, Bi quán và Từ quán mà có. Tất cả đều do khả năng lắng nghe mà thành tựu. Trì tụng kinh này không phải chỉ để cầu nguyện sức gia hộ của bồ tát mà còn để học hỏi về pháp lắng nghe và năm pháp quán chiếu ấy.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Sáng Thứ Tư</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Bốn Lãnh Vực Quán Niệm:</b> Kinh này được dịch từ tạng Pali, tên kinh là Satipatthàna Sutta, kinh số 10 của Trung Bộ (Majjhima Nikaya). Đây là kinh thiền tập căn bản nhất của đạo Bụt nguyên thỉ. Tất cả các thầy và các sư cô thời Bụt đều thuộc lòng kinh này. Trong truyền thống Nam Tông, hiện thời cũng có nhiều thầy thuộc lòng. Đây là kinh gối đầu giường của thiền giả. Người hấp hối cũng được nghe kinh này, hy vọng vào những giờ phút chót của cuộc đời, nhờ nghe kinh mà thực tập được những gì chưa thực tập được. Trong tạng Hán, ta có kinh Niệm Xứ (kinh 98 của bộ Trung A Hàm, 26, tạng kinh Đại Chánh) của bộ phái Thuyết Nhất Thiết Hữu và kinh Nhất Nhập Đạo, quyển thứ 12 trong bộ Tăng Nhất A Hàm của bộ phái Ma Ha Tăng Kỳ; hai kinh này là hai kinh có nội dung tương đương. Hành giả có thể tham khảo sách Con Đường Chuyển Hóa của thiền sư Nhất Hạnh, trong đó có đầy đủ những chỉ dẫn về phương pháp thực tập.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Chiều Thứ Tư</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Trung Đạo Nhân Duyên:</b> Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chánh. Kinh này nói về tri kiến chân chính vượt thoát các ý niệm có và không và xác nhận tính duyên sinh của vạn pháp. Ta có thể tham khảo thêm kinh Kaccayanagotta của tạng Pali, trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya II, 16-17).
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Soi Gương:</b> Kinh này vốn tên là kinh Anumànasutta, kinh số 15 trong Trung Bộ (Majjhima Nikaya). Kinh này rất cần thiết cho hạnh phúc của những người xuất gia cùng sống dưới một mái tu viện. Trong tạng Hán, ta cũng có kinh Tỳ Khưu Thỉnh, nội dung tương đương. Kinh Tỳ Khưu Thỉnh là kinh 89 của bộ Trung A Hàm, kinh số 26 tạng kinh Đại Chánh.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Sáng Thứ Năm</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Người Biết Sống Một Mình:</b> Kinh này được dịch từ tạng Pali, kinh Bhaddekaratta Sutta của Trung Bộ (Majjhima Nikaya 131). Kinh này dạy ta cách an trú chánh niệm trong giây phút hiện tại để sống sâu sắc từng giây phút của đời sống hàng ngày, quán chiếu những gì đang xảy ra trong giây phút ấy để đạt tới tuệ giác và tự do, không bị quá khứ, tương lai và các tâm hành bất thiện lôi kéo. Trong Trung Bộ còn có nhiều kinh khác cũng cùng một đề tài, đó là các kinh 132, 133, 134. Trong tạng Hán, có các kinh A Nan Thuyết, Ôn Tuyền Lâm Thiên, Thích Trung Thiền Thất cũng cùng một đề tài và nội dung. Ba kinh này là các kinh số 167, 165 và số 166 của Trung Bộ. Ngoài ra còn có kinh Tôn Thượng (77, tạng kinh Đại Chánh) do thầy Pháp Hộ dịch, cũng có cùng một đề tài.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh này là văn kiện xưa nhất của lịch sử văn học loài người dạy về nghệ thuật sống trong hiện tại, vững chãi và thảnh thơi. Xin tham khảo sách Kinh Người Biết Sống Một Mình của thiền sư Nhất Hạnh, trong ấy tác giả đã đưa ra nhiều phương pháp hành trì kinh rất cụ thể.
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Bát Nhã Hành:</b> Kinh này được dịch từ phần trùng tụng của kinh Phật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã Ba La Mật trong tạng Hán do thầy Pháp Hiền dịch vào đầu thế kỷ thứ 11 (229, tạng kinh Đại Chánh). Đây là kinh Bát Nhã xuất hiện sớm nhất trong nền văn học Bát Nhã. Những tư tưởng căn bản của Bát Nhã đều đã được hàm chứa trong kinh này.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Chiều Thứ Năm</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Ba Cửa Giải Thoát:</b> Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chánh) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười. Ta có thể tham khảo thêm kinh Thánh Pháp Ấn (103, tạng kinh Đại Chánh) do thầy Pháp Hộ dịch vào cuối thế kỷ thứ ba, và kinh số 80 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chánh).
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh A Na Luật Đà:</b> Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikaya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chánh). Kinh này tuy ngắn nhưng lại là một đề tài quán chiếu quan trọng vào bậc nhất giúp ta vượt được các ý niệm sinh/diệt, có/không, tới/đi và một/ khác. Các tư tưởng của hệ thống Trung Quán đều được phát xuất từ các kinh căn bản như kinh này.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Sáng Thứ Sáu</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Người Bắt Rắn:</b> Kinh này dịch từ kinh A Lê Sá, kinh thứ 220 của bộ Trung A Hàm trong tạng Hán (26, tạng kinh Đại Chánh), do thầy Tăng Già Đề Bà dịch vào cuối thế kỷ thứ tư. Kinh này hàm chứa nhiều tư tưởng uyên áo và là gốc rễ của những kinh đại thừa lớn sau này như kinh Kim Cương và kinh Duy Ma Cật. Kinh tương đương trong tạng Pali là kinh Xà Dụ (Alagaddùpama sutta), kinh thứ 22 của Trung Bộ (Majjhima Nikaya).
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Chiều Thứ Sáu</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh A Di Đà:</b> Kinh này được dịch từ tạng Hán, đây là kinh số 366 của tạng kinh Đại Chánh do thầy Cưu Ma La Thập dịch từ kinh Sukhàvàtivyùhasùtra vào đầu thế kỷ thứ năm. Ở đây ta có một bản dịch quốc văn rất đẹp, gọn và sáng sủa. Người trì tụng kinh này có thực tập thiền quán sẽ thấy những gì nói tới trong kinh đều có thể nhận diện được ngay trong tâm thức và thế giới hiện tại.
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Sáng Thứ Bảy</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Độ Người Hấp Hối:</b> Kinh này dịch từ bộ Tăng Nhất A Hàm của tạng Hán, kinh số 8, phẩm 51. Tăng Nhất A Hàm là kinh số 125 của tạng kinh Đại Chánh, do thầy Tăng Già Đề Bà dịch vào cuối thế kỷ thứ tư. Thực tập quán chiếu để thấy được tính cách không sinh, không diệt, không tới, không đi, không có, không không, v.v... của thực tại, ta có thể vượt được sự sợ hãi, và ngồi bên giường người hấp hối ta có thể hướng dẫn cho người bệnh thiết lập sự an bình trong cơ thể và tâm hồn, giúp người ấy buông bỏ sầu khổ, sợ hãi và thoát hóa một cách an nhiên. Hành giả có thể tham khảo kinh Anathapindikovada, kinh số 143 của Trung Bộ (Majjhima Nikaya) và kinh số 28 của bộ Trung A Hàm (26, tạng kinh Đại Chánh).
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Chiều Thứ Bảy</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Phước Đức:</b> Kinh này được dịch từ Mahamangala sutta (Sutta Nipata II) trong tạng Pali. Kinh tương đương trong tạng Hán là phẩm Cát Tường (phẩm thứ 42) của kinh Pháp Cú Thí Dụ (211, tạng kinh Đại Chánh).
<p style="TEXT-INDENT: 56pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Sáng Chủ Nhật</b>
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Tuổi Trẻ và Hạnh Phúc:</b> Kinh này được dịch từ kinh Tam Di Đề, kinh số 1078 của bộ Tạp A Hàm trong tạng Hán (99, tạng kinh Đại Chánh). Kinh này dạy về hạnh phúc của sự hành trì chánh pháp theo nguyên tắc hiện pháp lạc trú, sống sâu sắc, an lạc, vững chãi và thảnh thơi trong giờ phút hiện tại, thoát ra ngoài mọi mặc cảm và thèm khát về ngũ dục. Kinh tương đương trong tạng Pali là kinh Samiddhi của Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya I, 2.10)
<p style="TEXT-INDENT: 20pt; TEXT-ALIGN: justify"><b>Kinh Hải Đảo Tự Thân:</b> Kinh này dịch từ kinh 639 của bộ Tạp A Hàm (99, tạng kinh Đại Chánh). Có thể tham khảo Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya V, 152) và kinh Du Hành (kinh số 2 của bộ Trường A Hàm) do các thầy Phật Đà Gia Xá và Trúc Phật Niệm dịch vào đầu thế kỷ thứ năm (1, tạng kinh Đại Chánh). Kinh này được Bụt nói vào độ một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
lutram2a.jpg
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top