ÔN CỐ TRI TÂN

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Tiếng vỗ một bàn tay

TIẾNG VỖ MỘT BÀN TAY


one-hand.jpg


Mokurai, Tiếng Sấm Tĩnh Lặng, là thiền sư trụ trì chùa Kennin. Sư có một đệ tử nhỏ tên Toyo mới 12 tuổi. Toyo thấy các đệ tử đàn anh vào phòng thầy mỗi sáng và tối để nhận giáo huấn trong lớp riêng một thầy một trò và được hướng dẫn cá nhân về cách dùng công án để chận tâm trí không đi lang thang.

Toyo cũng muốn được vào lớp riêng.

Mokurai nói, “Đợi một thời gian đã. Con còn nhỏ.”

Nhưng Toyo nằng nặc xin, vì vậy cuối cùng thầy cũng đồng ý.

Chiều tối, cậu bé Toyo đến đúng giờ, trước cửa phòng thầy Mokurai dùng làm lớp riêng. Cậu đánh một tiếng cồng báo hiệu đã có mặt, gập mình chào lễ phép ba lần ngoài cửa, và bước vào ngồi yên lặng một cách lễ độ trước mặt thầy: “Con có thể nghe âm thanh của hai bàn tay khi hai tay vỗ vào nhau,” Mokurai nói. “Bây giờ chỉ cho thầy tiếng vỗ của một bàn tay.”

Toyo cúi chào và về phòng để suy nghĩ vể câu hỏi. Từ cửa sổ cậu có thể nghe nhạc của các cô geishas. “A, tôi có rồi!” cậy bé tuyên bố.
Sáng hôm sau, khi thầy hỏi cậu trình bày tiếng vỗ của một bàn tay, Toyo làm tiếng nhạc của geishas.

“Không, không,” Modurai nói. “Không bao giờ được. Đó không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Con chẳng hiểu gì cả.’

Nghĩ là nhạc của geishas cắt đứt dòng suy tưởng, Toyo chuyển chỗ ở đến một nơi yên lặng hơn. Cậu bé thiền định. “Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?” Cậu bé nghe tiếng nước nhỏ giọt. “Tôi có rồi,” Toyo nghĩ.
Khi Toyo đến gặp thầy sau đó, cậu bé bắt chước tiếng nước nhỏ giọt.
“Cái gì vậy?” Mokurai hỏi. “Đó là tiếng nước nhỏ giọt, nhưng không phải là tiếng vỗ của một bàn tay. Cố thêm đi.”

Hoài công Toyo thiền định để nghe tiếng vỗ của một bàn tay. Cậu nghe tiếng thở dài của gió. Nhưng tiếng đó cũng bị thầy gạt bỏ.
Tiếng vỗ của một bàn tay cũng không phải là tiếng ve kêu.
Hơn mười lần Toyo vào thăm Mokurai với những loại tiếng khác nhau. Tất cả đều trật. Cả một năm, cậu bé suy nghĩ tiếng gì có thể là tiếng vỗ của một bàn tay.

Cuối cùng Toyo vào được thiền định thật sự và vượt lên trên tất cả mọi âm thanh . “Tôi chẳng còn tìm được tiếng nào nữa,” sau này cậu bé giải thích, “vì vậy tôi đạt được âm thanh im lặng.”
Toyo đã đạt được tiếng vỗ của một bàn tay.

Bình:

• Takeda Mokurai (1854-1930) (“Silent Thunder” – Tiếng Sấm Tĩnh Lặng) đi tu lúc còn nhỏ và được huấn luyện bởi các thiền sư hàng đầu thời đó. Mokurai trở thành sư trụ trì chùa Kennin, một trong những ngôi chùa cổ nhất và quan trọng nhất ở Kyoto, Nhật, vào năm 1892 khi Mokurai chỉ 38 tuổi. Mokujrai còn là một họa sĩ nổi tiếng với tên Sayu Núi Đông. Sayu vì một trong những bút danh của Mokurai là Sayutei, và Núi Đông là chỉ chùa Kennin.

• Bài này nói đển thủ tục lễ nghĩa khi đến gặp thầy để có lớp riêng với thầy (sanzen) rất rõ.

• “Dùng công án để chận tâm trí không đi lang thang.” Đây chính là yếu tính của công án. Đa số công án không phải là một câu hỏi cho một câu trả lời bằng chữ nghĩa hay lý luận, như câu hỏi “tiếng vỗ của một bàn tay” ở đây.
Người học trò, trong tiến trình tìm câu trả lời, sẽ tự nhiên tìm mọi cách để tập trung tư tưởng, không cho tư tưởng đi lang thang. Tâm sẽ lặng từ từ, như nghe tiếng nhạc, đến tiếng nước nhỏ giọt, tiếng thở dài của gió…

• Đến một lúc nào đó, tâm hoàn toàn tĩnh lặng đến nỗi không còn âm thanh nào có thể làm cho ta bị phân tâm. Tai nghe thì vẫn nghe, nhưng tâm hoàn toàn không xao động. Đó là “vượt lên trên” mọi âm thanh.

• Nhưng tại sao lại là tìm được “âm thanh tĩnh lặng” (soundless sound)?
Âm thanh tĩnh lặng (soundless sound) cũng là âm thanh của tĩnh lặng (sound of silence) như tên một bản nhạc của Simon and Garfunkel hay “tiếng thầm trong ngọc nói lời hay” của thiền sư Kiều Trí Huyền.
Tức là, trong tĩnh lặng ta “nghe”, “thấy”, “hiểu” hay “ngộ” được nhiều điều mà khi tâm ta bị phân tâm vì các “tiếng động” ta không nghe, không thấy, không hiểu.

Điều này thì chúng ta ai cũng đã có kinh nghiệm loáng thoáng phần nào—đôi khi ta tĩnh lặng, chẳng làm gì cả, chẳng suy nghĩ gì cả, tự nhiên bao nhiêu ý tưởng sáng tạo lại ùa đến. Tĩnh lặng làm con người thông thái ra, bao nhiêu vị thầy đã nói như thế.

• Tại sao vị học trò trong truyện này chỉ mới 12 tuổi?
Thưa, vì: (1) 12 tuổi thì ít có tiếng động trong đầu từ những lo lắng—con cái, công việc, chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện tiền bạc, chuyện nợ nần… và (2) 12 tuổi thí ít có kiến thức lý luận để mà có thành kiến “Làm sao một tay mà phát ra tiếng vỗ được? Vô l‎ý!”
Tức là nếu cái tâm ta càng nhẹ nhàng, giản dị, và không cố chấp, như trẻ thơ, thì ra sẽ thiền dễ hơn và đạt giác ngộ dễ hơn.
Muốn vào được thiên đàng thì hãy như trẻ thơ.



(Trần Đình Hoành dịch và bình)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48














WTTT.jpg
Ảnh minh họa
Một lần Đức Phật đang tịnh tọa ở bìa rừng thì có 30 thanh niên từ đâu chạy tới, thấy Đức Phật, họ hỏi:
- Thưa Sa-môn, Ngài có thấy một cô gái chạy qua đây không?
Một người trong số các thanh niên nói cho Đức Phật biết tại sao họ đi tìm cô gái ấy:
- 29 cặp vợ chồng chúng tôi đến đây vui chơi, riêng một người chưa có vợ nên dắt theo một nữ tỳ. Cô ta đã thừa dịp chúng tôi không để ý, lấy hết vàng bạc trốn đi mất.
Đức Phật ôn tồn hỏi các thanh niên:
- Này các thiện nam tử, đi tìm cô gái đó và đi tìm chính mình, việc nào quan trọng hơn?
Các thanh niên trả lời:
- Thưa Sa-môn, đi tìm chính mình là việc làm quan trọng hơn.
- Vậy các thiện nam tử hãy ngồi xuống đây!
Sau khi các thanh niên ngồi xuống, Đức Phật nói pháp Tứ Thánh đế cho họ nghe. Cuối bài pháp, cả 30 thanh niên đều giác ngộ, xin Phật xuất gia. Đức Phật chấp thuận cho họ xuất gia và gia nhập Tăng đoàn. (Theo Lịch sử Đức Phật)
Bài học đạo lý:
Ðức Phật nhắc nhở các thanh niên rằng tìm lại chính mình mới là việc làm quan trọng nhất, cũng như đánh mất bản thân mới là nỗi lo thật sự chứ không phải là vấn đề đánh mất các vật ngoài thân như sắc đẹp, tiền tài…
Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta thấy ngày nay có khá nhiều người đánh mất bản thân mình (dính vào tham nhũng, tham lạm công quỹ, mua quan bán chức, lừa đảo chiếm đoạt…) chỉ vì danh vọng, sắc đẹp, tiền tài để rồi lâm vào vòng lao lý mà hậu quả để lại không chỉ riêng bản thân họ mà còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Một bộ phận giới trẻ tự đánh mất mình khi ngày đêm vùi chôn tuổi thanh xuân vào những thú vui tạm bợ, bán rẻ tương lai, vắt kiệt nhựa sống, buông thả trong ăn chơi sa đọa như ma túy, rượu bia, sắc dục, bạc bài… trở thành những kẻ bê tha, bệ rạc. Trong khi xã hội rất cần họ biết đem tuổi trẻ của mình góp phần xây dựng quê hương, đất nước, sống hữu ích, làm đẹp cho tự thân và cuộc đời.
Giới trẻ nhận thức như thế nào về giá trị cuộc sống, về giá trị bản thân, và gia đình quản giáo con cái như thế nào, nhà trường giáo dục thế hệ con em những gì, thanh thiếu niên chịu ảnh hưởng như thế nào từ môi trường xã hội v.v... là những vấn đề mọi người cần quan tâm hướng đạo, dắt dìu để thế hệ trẻ không rơi vào chỗ đánh mất bản thân mà không hay biết.
Mấy ai biết giữ mình và tìm lại chính mình. Nên với những ai lầm lỡ đánh mất bản thân, xã hội phải giúp họ tìm lại giá trị bản thân, tìm lại ý nghĩa đích thực của đời sống, giúp họ trở thành những người hữu ích. Việc nhắc nhở, thức tỉnh, giúp họ tìm lại mình rất cần sự sẻ chia, nỗ lực của những người thân, của gia đình và toàn xã hội.
Do vậy, tìm về tuệ giác của đạo Phật để sống hướng thiện, bình an, đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người là điều trở nên vô cùng cần thiết. Tìm lại chính mình để hiểu rõ ràng và chính xác về thân, tâm cùng thế giới để thiết lập các quan niệm sống và những giá trị sống phù hợp với tuệ giác Duyên khởi mới đích thực là điều cần và nên làm để xây dựng hạnh phúc, an vui.

Phan Minh Đức
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
ĐOẠN ÁC DƯỠNG THIỆN

Kinh An Trú Tầm nói có năm biện pháp tất cả:
-- Biện pháp thứ nhất: là lấy niệm lành xua đuổi niệm ác. Thí dụ, lấy niệm từ bi xua đuổi niệm sân giận Đức Phật dùng ví dụ người thợ mộc khéo, dùng một cái nêm hay (Ý nghĩ lành) đánh bật một cái nêm khác (ý nghĩ ác).
-- Biện pháp thứ hai: Là ngẫm nghĩ về hậu quả tai hại của niệm ác sẽ dẫn tới tội ác và sự trừng phạt. Cũng như một người quan sát thấy mình đang đeo xung quanh cổ một cái xác chó chết, sợ quá, liền vứt bỏ đi. Cũng như hiện nay, người nghiện thuốc lá suy nghĩ thấy hút thuốc có thể gây cho mình và con cái mình (ngửi khói thuốc) mắc bệnh ung thư, phát sợ bèn bỏ thuốc hút.
-- Biện pháp thứ ba: là cố gắng, quên niệm ác đi, đừng nghĩ tới nó nữa. Phật lấy ví dụ một người nhắm mắt để khỏi phải thấy một vật gì đó có thể thúc đẩy mình làm ác.
-- Biện pháp thứ tư: là hãy chận giòng niệm ác lại, để cho nó giảm bớt sức mạnh. Đức Phật dùng ví dụ một người đang chạy, chuyển sang đi, rồi chuyển sang đứng, rồi ngồi, rồi nằm. Tôi có thể lấy ví dụ hút thuốc để minh họa lời Phật. Một người nghiện, thấy bao thuốc lá cầm ngay lấy, rút thuốc đánh diêm châm, hít hai ba hơi luôn. Bây giờ thấy bao thuốc, khoan cầm lấy bao, và khi đã cầm lấy bao rồi, thì khoan rút điếu thuốc rqa, khoan châm diêm, hay là đã châm diêm rồi, thì khoan hít một hơi v.v... Bởi vì, mỗi khi dừng lại như vậy, chúng ta đều có thể phản tỉnh, nhớ đến lời dặn của thầy thuốc về thuốc lá gây bệnh ung thư như thế nào, lời nhắn của vợ hút thuốc tốn tiền như thế nào v.v... nhờ vậy, có thể ngăn không hút thuốc nữa.
-- Biện pháp thứ năm: là dùng ý chí, nghị lực khống chế niệm ác, không cho nó sanh khởi, Phật ví dụ một người khoẻ vật ngã một người yếu.
Trên đây là năm biện pháp khống chế và loại trừ niệm ác, được Đức Phật giảng trong Kinh "An Trú tầm". Đó là những lời dạy thiết thực và cụ thể, mọi người đều có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày

Kinh An Trú Tầm (Kinh thứ 20, Trung Bộ Kinh 1)
BÀI HỌC RÚT RA:
Trên đây là năm biện pháp khống chế và loại trừ niệm ác, được Đức Phật giảng trong Kinh "An Trú tầm". Đó là những lời dạy thiết thực và cụ thể, mọi người đều có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Một điều chúng ta cần ghi nhớ là tất cả các niệm đều vô thường, dù ác hay thiện, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng những niệm tương ứng và nhất là việc làm tương ứng.

Tôi lấy ví dụ niệm hút thuốc của người hút thuốc lá. Niệm hút thuốc đó được nuôi dưỡng bằng những niệm như là hút thuốc là vô hại, hút thuốc thêm sáng kiến, hút một điếu có thể giảm thọ vài ba giây nhưg cười một tiếng lại tăng thọ bảy giây v.v.. Nếu chúng ta không nuôi dưõng niệm hút thuốc bằng những niệm như vậy, trái lại chống đối nó, bài trừ nó bằng những niệm như hút thuốc gây bệnh ung thư, hút thuốc hại phổi, hút thuốc tốn tiền v.v.. thì niệm hút thuốc có thể dần dần không còn chi phối chúng ta như trước nữa. Và chúng ta có thể tiến tới bỏ thuốc lá mà không gặp khó khăn gì.

Một điều nữa, chúng ta cũng cần ghi nhớ là niệm thiện nói chung mạnh hơn niệm ác, cũng như ánh sáng mạnh hơn bóng tối vậy. Niệm ác sỡ dĩ chi phối chúng ta được là vì chúng ta không biết nó là ac. Nếu nhận mặt nó được là ác, thì tự nhiên nó sẽ tan biến đi. Chính vì vậy, mà Kinh sách Phật khuyên chúng ta nên luôn luôn chánh niệm tỉnh giác, biết rõ mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì và ý nghĩ đó, lời nói đó, việc làm đó là thiện hay bất thiện, đem lại an lạc hay đau khổ cho mình và cho người. Có người nghĩ ác mà không biết mình là ác. Con người như thế rất khó tu tập bỏ ác làm lành. Cũng như có người làm điều thiện mà không biết mình làm điều thiện thì cũng rất khó tăng trưởng điều thiện.

Cuộc sống của người Phật tử phải là một cuộc sống tỉnh táo, biết thiện là thiện để phát huy điều thiện vốn có, học những điều thiện mình chưa có. Đồng thời cũng phải biết ác là ác thì mới loại bỏ điều ác mình đã phạm và phòng hộ những điều ác chưa sanh khởi. Nói tóm lại, tăng điều thiện vốn có, học những điều thiện chưa có, bỏ điều ác vốn có, tránh điều ác chưa có: đó phải là nếp sống tinh tấn của mọi Phật tử chúng ta.

Đó cũng là định nghĩa chữ "Chánh tinh tấn", Sammà vàyama, trong Bát chánh đạo mà Đức Phật khuyên tất cả Phật Tử chúng ta cần phải hành trì. "Vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn từ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nổ lực kiên trì tinh tấn, không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp".
(Tăng Chi II, trang 18).

HT THÍCH MINH CHÂU
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
CỤ GIÀ TU MƯỚN

Thiền sư Bạch Ẩn ở Nhật Bản có một tục gia đệ tử. Người này thường đến than thở rằng cha của y dù tuổi đã cao, vẫn cứ mải mê làm việc kiếm tiền chứ chẳng chịu tu niệm gì cả. Mỗi lần y nhắc nhở thì ông cụ quả quyết: "Nếu chuyện tu hành mà té tiền té bạc thì hãy nói với ta, bằng không thì đừng hòng!".

Hôm nọ, nghe xong nỗi băn khoăn của người đệ tử, Thiền sư Bạch Ẩn bảo: "Chiều nay con về bảo với cha con rằng: Hòa thượng Bạch Ẩn bận bịu công việc quá đỗi nên không thể tu hành như ý muốn được. Ngài nhờ con tìm một người tu mướn. Cứ mười chuỗi niệm Phật là một quan tiền. Cần chọn người tuổi cao như cha. Người làm mướn có thể lãnh tiền mỗi ngày hoặc hàng tuần cũng được".


Người đệ tử y lời về thưa với cha mình. Nhận thấy rằng đây là một công việc làm ăn té tiền té bạc hẳn hoi, ông lão sốt sắng nhận lời. Thêm vào đó, ngoài mười xâu chuỗi niệm Phật ăn tiền, ông còn hoan hỷ khuyến mãi biếu không cho Hòa thượng hai xâu nữa.

Giao kèo đã ký kết, ông cụ cứ đến chùa lãnh tiền hàng ngày. Về sau để khỏi mất thời giờ, cụ để dồn hàng tuần mới lãnh.

Bẵng đi một thời gian không thấy cụ đến lãnh tiền. Người con theo lời dạy của Hòa thượng, cứ để cha già làm theo ý muốn. Ngoài ba bữa ăn, ông cụ ngồi ngay ngắn trước điện Phật… mà làm mướn. Cho đến một hôm, thấy cha mình cơ hồ đã ngưng lần chuỗi, mắt khép nhẹ, hơi thở điều hòa, nhẹ nhàng. Người con liền đến báo tin Hòa thượng hay.

Thiền sư Bạch Ẩn đến tận nơi quan sát. Thấy cụ già có dáng người có hơi nghiêng, do tuổi tác chất chồng, nhưng mặt mũi hồng hào. Gương mặt ông phảng phất một niềm bình thản khinh an. Ngài nói khẽ với người con như một hơi gió thoảng: "Cha con đã nhập định".

Thiền sư Bạch Ẩn đã dạy thiền cho ông cụ bằng cách ấy.

(Theo Truyện cổ Phật giáo Nhật Bản)

Bài học đạo lý́:

C
ó một người cha đã đọc câu chuyện "Cụ già tu mướn" và thấy rằng đây là một câu chuyện rất hay! Thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin Ekaku, 1685-1768) đã rất giỏi khi dùng phương tiện để đạt cứu cánh. Và người cha kia đã học theo cách này để dạy một cậu con trai mới vào lớp một, vì cậu ta không được chăm chỉ cho lắm, có thể nói là ham chơi nhiều hơn học. Người cha đã nói với con nếu có được một điểm 10, ông sẽ thưởng cho cậu một ngàn đồng. Nghe vậy cậu ta khoái quá, hăng say học quên cả chơi, ngày nào tối thiểu cậu ta cũng có được một hoặc hai điểm 10. Sau một học kỳ, cậu ta rất vui mừng vì đã biết đọc. Cậu hí hửng đem con heo đất đầy tiền thưởng tặng bố và nói một câu ngắn gọn: "Con không lấy tiền của bố nữa đâu!".

Thế mới biết, để dẫn dắt một người mê quay về con đường tỉnh thức là rất khó, nhưng không phải không làm được. Điều quan trọng là phải có những bậc thầy giỏi như Thiền sư Bạch Ẩn. Thiền sư là người có trí tuệ, biết ông cụ đang say sưa mê mải kiếm tiền, chưa thích thú việc tu. Vì chưa tu học, cho nên ông cụ chưa biết những lợi lạc của việc tĩnh tâm tu niệm. Thiền sư đã nghĩ ra cách thuê tiền để cho ông cụ "tu mướn", vì ông đang thích tiền. Sau một thời gian "tu mướn" không lâu, ông cụ đã chuyển sang tu thật vì cảm nhận được nhiều điều lợi ích.

Hiện nay, không ít những gia đình có các thành viên rất siêng năng tu học, nhưng những người khác lại chỉ lo kiếm tiền, không quan tâm đến chuyện tu tâm, dưỡng tánh. Tất nhiên, việc kiếm tiền phục vụ cho đời sống là quan trọng nhưng cũng không được xao lãng việc tu, nếu không ta sẽ rơi vào con đường bất thiện. Điều trăn trở của vị đệ tử trong câu chuyện trên cũng là niềm trăn trở chung cho rất nhiều người Phật tử. May sao còn có những ngôi chùa và không thiếu những vị thầy giỏi để có thể giúp cho chúng ta hóa giải những bài toán khó mà mỗi gia đình đang gặp phải như gia đình của vị đệ tử trong câu chuyện "Cụ già tu mướn" kia.


Lê Đàn
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
LỆCH THỪA KHÔNG BẰNG NGAY THIẾU

Kiềm Lâu là một bậc cao sĩ nước Tề thời Xuân Thu, tính tình ông cương trực, lúc nào cũng trọng nghĩa khinh tài, không màng danh lợi.
Nhiều nước chư hầu mời ông ra làm khanh tướng nhưng ông không nhận. Vua Uy Vương nhà Chu kính thờ ông như thầy.​

Ông nghèo lắm, lúc mất chỉ có cái chăn ngắn, không liệm đủ thân thể. Thầy Tăng Tử đến viếng thấy vậy nói:
- Để lệch cái chăn đi thì liệm đủ thân thể.
Bà vợ ông bảo:
- Lệch mà có thừa, không bằng ngay mà chẳng đủ. Lúc sinh thời, tiên sinh chỉ vì tính thẳng mới được như thế. Bây giờ tiên sinh mất mà liệm lệch cho người thì chắc không được hợp ý tiên sinh.
Tăng Tử nghe, trong lòng thán phục:
- Chỉ có người chồng như thế mới có được người vợ như thế! (Theo Cổ học tinh hoa)
Bài học đạo lý:
Kiềm Lâu là một bậc ẩn sĩ có tri thức và chí khí cao vời. Ông giỏi có tiếng nhưng không chịu ra làm quan vì chẳng muốn vướng vào vòng lợi danh quan lại. Sống trong cảnh nghèo mà "không lấy sự nghèo hèn làm buồn rầu, không lấy sự giàu sang làm hâm mộ". Kiềm Lâu sống cao khiết đến độ khi mất chẳng có bất cứ vật gì trừ cái chăn ngắn không liệm đủ thân thể. Thầy Tăng Tử đến viếng khuyên nên để lệch cái chăn cho đủ, nhưng bà vợ của ông nhất quyết: "Lệch mà có thừa, không bằng ngay mà chẳng đủ!".
Người sống trên đời trong sạch và liêm khiết như Kiềm Lâu thì lúc sinh thời cho đến mất đi, không những vợ con, họ hàng mà cả thiên hạ đều vô cùng thương tiếc, kính phục. Chí khí thanh cao, xem thường lợi danh của ông là một bài học quý giá để mọi người noi theo.
Ở đời, sống ẩn dật và chối từ danh lợi như ông Kiềm Lâu đã là hiếm có. Tuy vậy, tìm ra một người vợ chịu chấp nhận cuộc sống nghèo nàn và ủng hộ quan điểm sống thanh cao của chồng như bà Kiềm Lâu lại càng hiếm hoi hơn. Bởi có không ít những đức ông chồng vốn chuộng cái tính "thẳng" để chí ít là sống cho ra người, ngẩng cao đầu trong thiên hạ mà các bà vợ không cam nổi nghèo khó nên đã biến cái tính "thẳng" ấy thành "lệch". Cho nên, có người chồng như thế lại gặp người vợ như thế, thật là xứng đôi và hiếm có nên thầy Tăng Tử khen rất phải.
Câu chuyện về đức liêm khiết của Kiềm Lâu dẫu là chuyện rất xa xưa trong bối cảnh xã hội thời Xuân Thu nhưng vẫn là một bài học đạo đức rất đáng để cho tất cả chúng ta học tập, noi gương, nhất là trong bối cảnh tham nhũng đang là quốc nạn hiện nay. Bởi vì có thể, có một lúc nào đó vì chuyện áo cơm vất vả lo toan, sợ thua chúng kém bạn nên cố chạy theo vật chất xa hoa mà chúng ta sống không "thẳng", bị "lệch" đi theo chiều hướng hưởng thụ, vị kỷ.



Cho nên, "Lệch thừa không bằng ngay thiếu", sống liêm khiết mà thanh cao và thảnh thơi là một trong những đạo lý sống có từ ngàn xưa mà vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận hôm nay và cả ngày mai
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
PHẬT DẠY LÀM CHA MẸ

Sanh con ra, tự nhiên bạn lên ngôi vị cha mẹ. Ngôi vị đó được hình thành một cách tự nhiên, như nhiên và đôi khi kéo theo sự hoảng hốt, ngỡ ngàng đối với một số cá nhân, vì họ chưa hề kịp chuẩn bị. Ai cũng bảo rằng, cha mẹ là một thiên chức cao cả, thiêng liêng. Thế nhưng, thiên chức đó tự dưng hình thành hay do học tập rèn luyện? Thử hỏi những bậc đã là cha mẹ, kiến thức đó họ học được từ đâu? Hay vừa chăm con vừa kiện toàn thiên chức? Và, những đôi trai gái đang đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân, có mấy ai biết rõ làm cha mẹ phải hội đủ những tiêu chuẩn gì, để xứng đáng với phẩm vị mà nhân loại xưa nay luôn tán thán, tôn vinh?


Đành rằng có những tri thức mà con đường kiện toàn không nhất thiết phải thông qua trường lớp. Tuy nhiên, với những tri thức quan trọng, có khả năng ảnh hưởng đến mình và những người yêu thương, đòi hỏi chúng ta cần phải có một thái độ nghiêm túc trong việc củng cố và kiện toàn. Tri thức làm cha, mẹ là một trường hợp như vậy.

Sinh con, nuôi lớn
Với đạo Phật, làm cha mẹ là cả một quá trình dài. Ngay khi con cái vừa nhập thai, thì người mẹ cần phải giữ giới một cách hồn nhiên để đứa con sinh ra được kế thừa những phẩm chất tối thắng. Theo cách nói của Đức Phật, người mẹ khi mang thai cần phải cẩn trọng trong mọi bề. Thái quá hoặc bất cập trong ăn uống hoặc trong tâm tưởng, đều không phù hợp với một người mẹ hoài thai. Sự cẩn trọng, quan tâm đến con là tư duy luôn thường trực trong suy nghĩ của một người mẹ. Quan tâm đó được đẩy lên thành một mối lo to lớn mà kinh gọi là sự lo âu lớn đối với gánh nặng và kéo dài liên tục, miên man sau chín hay mười tháng trường.

Với con trẻ, phải tập trung cao độ mọi sự quan tâm của mẹ và cha. Vì chỉ cần một chút lơ là bất cẩn, thì sức khỏe hoặc tính mạng của con trẻ sẽ rơi vào vùng nguy hiểm ngay. Thực tế đã có những đứa trẻ lớn lên với vết hằn năm tháng, do sơ suất hoặc do lỗi lầm không cố ý của ba mẹ, và ở đây, sự dằn vặt lương tâm sẽ là nỗi trăn trở khôn nguôi cho cả mẹ và cha mang theo đến cuối cuộc đời. Kinh Được nuôi dưỡng tế nhị mặc dù chỉ là sự mô tả khá chi tiết về việc vua Tịnh Phạn nuôi dưỡng thái tử Tất Đạt Đa, nhưng cũng là một gợi ý tham khảo cho bất cứ ai muốn nuôi con bằng tất cả những gì có thể. Và, dù quý tộc hay thứ dân, thức ăn cho bé sơ sinh thì xưa nay không gì bằng sữa mẹ. Kinh văn mô tả rằng, khi đã sinh, người mẹ nuôi hài nhi ấy với máu của mình , mà ở đây, theo luật của bậc Thánh, sữa của bà mẹ được xem là máu .
Máu của mẹ, con đã hấp thụ từ thuở ban sơ, để con vươn lên, vững bước thành người.

Dạy con nên người
Dạy dỗ con cái và giới thiệu chúng vào đời là một trong những trách vụ quan trọng của những bậc làm cha mẹ được Phật dạy trong kinh Tăng Chi . Từ thực tế cho thấy, có nhiều người sanh con ra nhưng chưa hề quan tâm đến vấn đề dưỡng dục. Chính vì vậy mà đã có những đứa trẻ lớn lên trong tủi nhục, trong khổ đau, khiếm khuyết và bất hạnh nhiều bề. “Trời sinh voi sinh cỏ” là một quan niệm không đúng theo tiêu chí dưỡng dục mà Đức Phật đã dạy trong kinh. Trong liên hệ rạch ròi của nhân quả, tiêu chuẩn dạy con tác động rất lớn đến sự hình thành những phẩm chất tích cực của một con người. Sanh con thì dễ, nhưng nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng thành người là cả một nỗ lực vô bờ của mẹ và cha.

Ở đây, kiến thức về giới tính, về tâm sinh lý của từng giai đoạn tuổi tác cũng là một điều lưu ý quan trọng để các bậc cha mẹ nâng đỡ con cái của mình. Với trẻ con, cần phải tuần tự dắt dẫn. Hình ảnh Chậu nước bẩn và Cái gương soi mà Đức Phật viện dẫn trong kinh Trung Bộ để giảng dạy cho La Hầu La là một kinh nghiệm quý giá. Đôi khi với con, cha mẹ phải xem như bạn bè mới có thể gần con, để rồi từng bước hiểu con và tiến đến chia sẻ.
Đó cũng là điều mà kinh gọi: Bạn ở nhà là mẹ là một điều cần học hỏi đối với các bậc làm mẹ, làm cha. Với con, hiểu được chúng muốn gì, cần gì khi con cái bắt đầu bộc lộ tự ngã bản thân, là một lưu ý quan trọng. Thình lình một mai, khi con trẻ bất ngờ tuyên bố: cha mẹ không hiểu gì về con, tức khi ấy, đã bộc lộ ra những dấu hiệu gián đoạn tạm thời, trong việc truyền thông giữa các thế hệ. Khi hiểu được con muốn gì, con cần gì, thì liệu pháp giáo dục, phương thức nâng đỡ, định hướng của ba mẹ sẽ trở nên hiệu quả và thực tế hơn.

Thương ai bằng thương con, tuy chỉ là lời cảm hứng của một vị Trời nhưng đồng thời, đó cũng là chân lý phổ quát của bất cứ bậc làm cha mẹ đúng mực và đúng nghĩa. Rõ ràng, thương con là khả tính tự nhiên của bất cứ bậc làm cha làm mẹ nào. Kinh Từ Bi cũng cũng xác chứng tình cảm của cha mẹ bao la:

Như tấm lòng người mẹ/
Ðối với con của mình/
Trọn đời lo che chở/
Con độc nhất mình sinh

Tuy nhiên, thương con không đồng nghĩa với việc chiều con, hoặc dung dưỡng con khi con phạm phải lỗi lầm. Mặc dù phản đối việc giáo dục con bằng hình phạt, tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt, với những đối tượng đặc biệt, việc cân nhắc hình phạt có chừng mực là điều mà được Đức Phật chấp thuận. Hình ảnh một đứa trẻ bị mắc dị vật và người chăm sóc trẻ cố gắng lấy dị vật đó ra bằng những phương tiện có thể, là điều mà Đức Phật lặp lại nhiều lần.
Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật đã hỏi vương tử Vô Úy: Nếu đứa con nít này, do sự vô ý của vương tử, hay do sự vô ý của người vú hầu, thọc một cái que hay nuốt một hòn đá vào trong miệng, vậy vương tử phải làm gì? - Bạch Thế Tôn, con phải móc cho ra. Bạch Thế Tôn, nếu con không thể móc ra lập tức, thời với tay trái con nắm đầu nó lại, với tay mặt lấy ngón tay làm như cái móc, con sẽ móc cho vật ấy ra, dầu có phải chảy máu.
Vì sao vậy?
Bạch Thế Tôn, vì con có lòng thương tưởng đứa trẻ

Cũng vậy, trong kinh Tăng Chi, hình ảnh ấy được lặp lại không phải hình ảnh vương tử mà là sự chăm sóc đứa trẻ của bà vú hầu. Theo Đức Phật, dẫu rằng quá trình giải cứu đứa trẻ ấy không phải không có hại.
Như vậy, này các Tỷ kheo, người vú hầu phải làm như vậy vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn (đứa trẻ) . Phải chăng chân lý thương cho roi cho vọt vẫn được Phật cho phép, nếu như có sự cân nhắc hợp lý và tùy tình hình?

Lập gia thất và cho con thừa tự
Cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con 14 là hai trách vụ quan trọng mà Phật đã dạy bậc làm cha mẹ cần phải thực hiện khi con đến tuổi trưởng thành. Thời xưa, Ấn Độ cũng như Trung Quốc, việc lập gia thất cho con, cha mẹ dường như toàn quyền quyết định. Ngày nay, bối cảnh xã hội đổi thay, trai gái tự tìm hiểu và tự do đến với nhau. Mặc dù vậy, sự định hướng của cha mẹ đối với việc lập gia đình của con cái là điều rất mực cần thiết. Bởi lẽ, với nhận thức đã trưởng thành của một người từng trải, với kinh nghiệm tự thân cũng như kinh nghiệm đúc kết từ cuộc sống, việc cha mẹ định hướng, tư vấn về người phối ngẫu là việc rất cần. Kinh nghiệm của bậc làm cha mẹ như gia chủ Nakula được ghi lại trong kinh Tăng Chi, sẽ giúp cho các đôi vợ chồng không những thấy mặt nhau trong đời này, và cũng muốn thấy mặt nhau trong đời sau là những giá trị hữu ích, vượt thời gian mà các đôi yêu nhau cần ghi nhớ. Ở ngày nay, bậc cha mẹ tốt sẽ khéo léo tham vấn những điều cần thiết, và nhường quyền quyết định chọn người phối ngẫu cho con cái của mình.

phatday-2.gif


Như một lẽ tự nhiên, cho con tài sản kề thừa dường như là một thuộc tính cố hữu của bất cứ bậc làm cha mẹ nào. Ngay như Đức Phật, trong chuyến trở về hoàng cung lần thứ nhất, La Hầu La nắm tay Phật cầu xin của thừa tự, Đức Phật đã hoan hỷ chấp thuận bằng cách nhờ Tôn giả Xá Lợi Phất xuất gia cho cậu ta. Với bậc Thánh, của thừa tự chính là Chánh pháp. Với thế gian, của thừa tự chính là tài sản và những giá trị tinh thần. Ở đây, cần phải hiều rằng, của thừa tự cho con không hẳn là vật chất thuần túy hoặc tài sản cụ thể, mà có thể là phương cách tạo ra tài sản ấy. Trong hai phương diện thừa tự, việc trao cho con thừa tự sinh kế mà kinh gọi là dạy con nghề nghiệp, là điều quan trọng và bền vững vô cùng. Bởi lẽ, tuy được thừa tự của cải vật chất, nhưng nếu như gặp phải nghịch tử, thì gia sản mà cha mẹ để dành sẽ nhanh chóng tiêu vong. Kinh Tăng Chi cảnh báo tài sản sẽ bị nguy hiểm về các người thừa tự không khả ái . Do vậy, các bậc làm cha mẹ cần cân nhắc về vấn đề cho con của cải. Cho như thế nào, cho vào lúc nào với số lượng bao nhiêu… cũng là điều cần phải căn cứ vào từng biệt nghiệp của các con và tùy tình hình cụ thể. Đừng để như Bà la môn Mahàsàla19, mặc dù là đại phú hào, sau khi chia của cho các con, phải chống gậy xin ăn vì các người con đối xử với ông không tốt.

Hướng con về nẻo thiện lành
Đi qua gần cuối cuộc đời, ai đó chợt bàng hoàng tự hỏi, mình đã thực hiện trọn vẹn thiên chức làm cha làm mẹ hay chưa? Với Phật giáo, còn một trách vụ quan trọng mà cha mẹ phải làm, đó là Ngăn chặn con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện 20 mà ở đây chính là hướng con quy y Tam bảo.

Đọc lại những vần kệ của một nữ Dạ xoa khi ru dỗ con khóc, mới thấm thía làm sao ý nghĩa gieo mầm Phật pháp từ khi con còn ẵm ngửa, nằm nôi:
… Ðời ái lạc con mình/
Ðời ái lạc chồng mình/
Nhưng đối với đạo pháp/
Mẹ ái lạc nhiều hơn./
Con hay chồng dầu thân/
Không cứu ta thoát khổ/
Không như nghe diệu pháp/
Chúng sanh được thoát khổ/
Trong đau khổ đời sau/
Dính liền già và chết/
Chánh pháp Ngài giác ngộ/
Giải thoát khỏi già chết/
Mẹ muốn nghe pháp ấy/
Hãy nín đi con ơi/
Này Punabbasu .

Xuyên qua nhiều pháp thoại liên quan đến vai trò làm cha mẹ, được Đức Phật tùy nghi chỉ bày trong kinh điển, mặc dù vậy, đôi chỗ cũng cần phải soi sáng thêm kiến thức từ thực tiễn, mới có thể kiện toàn tri thức cho những bậc làm cha mẹ ngày nay. Cha mẹ là vị thầy cao cả đầu đời. Trong kinh điển, cha mẹ còn được ví sáng chói như Phạm thiên. Ý thức được vai trò quan trọng và thiêng liêng đó để củng cố kiện toàn cách thức, tri thức làm cha mẹ, là tâm thế tích cực trước khi bước lên phẩm vị thiêng liêng: được làm cha mẹ trên đời.

(GNO-Chúc Phú


1 Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp, số 123. 2 Kinh Trung Bộ, tập 1, Đại kinh đoạn tận ái, số 38. 3 Kinh đã dẫn. 4 Kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của Trời, Kinh Được nuôi dưỡng tế nhị. 5 Kinh Trung Bộ, tập 1, Đại kinh Đoạn tận ái, số 38. 6 Kinh đã dẫn. 7 Kinh Tăng Chi, chương ba pháp, phẩm Sứ giả của Trời, Kinh Ngang bằng với Phạm Thiên. 8 Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Giáo giới La Hầu La ở rừng Am Bà La, số 61. 9 Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, Tương ưng chư thiên, Phẩm Già, Kinh Bạn. 10 Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, Tương ưng chư Thiên, phẩm Vườn hoan hỷ, Kinh Không ai bằng con. 11 Kinh Tiểu Bộ, Kinh Tập, Kinh Từ Bi. 12 Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Vương tử Vô Úy. 13 Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Sức mạnh hữu học, Kinh Dục vọng. 14 Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt, số 31. 15 Kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Nguồn sanh phước, Kinh Xứng đôi. 16 Xem thêm Trung Bộ kinh, tập 1, Kinh Thừa tự pháp, số 3. 17 Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt, số 31. 18 Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, Phẩm Du hành dài, Kinh Tài sản. 19 Kinh Tương Ưng, tập 1, chương VII, tương ưng Bà La Môn, phẩm Cư sĩ, Kinh Mahasala: Đại phú giả hay y choàng thô. 20 Kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt, số 31. 21 Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương X, Tương ưng Dạ xoa, Kinh Punabbasu
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
CHỈ TIN MỘT NGƯỜI

Một thời Thế Tôn ở Kimbilà, tại Veluvana, dạy các Tỷ kheo: Có năm nguy hại này, này các Tỷ kheo, trong lòng tịnh tín đối với một người.
Thế nào là năm?
Này các Tỷ kheo, người nào được một người tịnh tín, rồi người ấy phạm lỗi và chúng Tăng tùy theo lỗi đã phạm ngưng chức người ấy, bắt người ấy xuống ngồi cuối. Lại nữa, người nào được một người tịnh tín, rồi người ấy đi đến nơi khác hoặc người ấy bị loạn tâm hay người ấy bị mạng chung.



<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
Người này suy nghĩ: “Người mà ta ái mộ, ưa thích, nay người ấy bị chúng Tăng ngưng chức, bị bắt xuống ngồi cuối; nay người ấy đã đi xa, bị loạn tâm, bị mạng chung” và người này không còn tịnh tín với các Tỷ kheo. Do không còn liên hệ với các Tỷ kheo khác, người này không nghe diệu pháp, do không nghe diệu pháp nên người này thối đọa khỏi Chánh pháp.

Này các Tỷ kheo, đây là năm nguy hại đối với việc chỉ tịnh tín đối với một người.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Ác hành, phần Tịnh tín đối với một người [lược], VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.745)



LỜI BÀN:


Đức tin vào Tam bảo, nhất là tin Tăng được xem là một yếu tố quan trọng của niềm tịnh tín, làm tăng trưởng phước báo và thăng hoa tinh thần của tự thân. Tăng là một đoàn thể thanh tịnh và hòa hợp, tin Tăng đúng nghĩa là gởi trọn niềm tin vào đoàn thể ấy. Dựa trên niềm tin Tăng bảo, một Phật tử có thể thân cận, gần gũi để được hướng dẫn và tu học với một vị xuất gia. Thế nhưng chỉ tin vào một vị Tăng duy nhất và gần như phớt lờ với Tăng già, đó là điều nguy hại.



Cộng đồng xuất gia ngày nay chưa thể gọi là rốt ráo thanh tịnh, bởi một số vị chưa làm tròn bổn phận xuất gia của mình. Sự thật này tuy ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của chư Tăng nói chung nhưng đó là việc cá nhân, không hề liên hệ đến bản thể Tăng già vốn thanh tịnh và hòa hợp. Cũng chính vì thế mà hiện tồn tại hiện tượng một số người (có thể chưa hiểu sâu sắc về giáo lý hay do sự hướng dẫn thiên kiến của thầy mình) chỉ tin vào một người duy nhất là thầy của tôi, sư phụ của tôi, chân sư của tôi… và đánh mất niềm tin Tăng già.

Cách tin này dễ rơi vào sự sùng kính thái quá đến mê muội, khó tránh khỏi chấp thủ cho người tin và làm tăng tự mãn đối với người được kính tin. Theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những nguy hại. Bởi khi chỉ đặt niềm tin vào một người, rồi người ấy chẳng may thăng trầm, suy thịnh theo lẽ vô thường, dẫn đến chao đảo, hụt hẩng, mất nơi nương tựa tinh thần và thối đọa trong Chánh pháp.



Vì thế, người con Phật phải xây dựng niềm tin, sự kính trọng vào Tăng bảo. Thầy của mình chỉ là một chiếc lá của cây Tăng, một tế bào của cơ thể Tăng. Cây Tăng luôn to lớn, cành lá sum sê, gốc rễ bền chặt. Chiếc lá có thể vàng úa và rụng rơi nhưng đại thọ kia thì luôn vững chãi. Bỏ quên cây lớn để nắm bắt chiếc lá là một thiệt thòi, lầm tưởng chiếc lá là đại thụ lại càng đáng thương hơn. Và đây cũng là điều mà hàng sơ học cần suy tư để thành tựu niềm tịnh tín Tăng bảo.




Quảng Tánh
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
BỐ THÍ VỚI TÂM RỘNG LỚN

Một thời, Thế Tôn ở Campà, trên bờ hồ Gaggara. Bấy giờ có nhiều cư sĩ ở Campà cùng Tôn giả Sàriputta đi đến đảnh lễ, bạch Thế Tôn: Có thể, bạch Thế Tôn, ở đây có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn. Nhưng bạch Thế Tôn, ở đây có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn.


<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì có hạng người bố thí như vậy, không được quả lớn, không được lợi ích lớn và do nhân gì, do duyên gì có hạng người bố thí như vậy, được quả lớn, được lợi ích lớn?

Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc (về kết quả), bố thí với ý nghĩ “tôi sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau”. Vị ấy bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung được cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Tứ Thiên Vương. Khi nghiệp lực được đoạn tận, thần lực, danh tiếng và uy quyền đoạn tận thì trở lui trạng thái này.

Nhưng ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí không với ý nghĩ “ta sẽ hưởng thọ cái này ở đời sau”, chỉ bố thí với ý nghĩ “lành thay sự bố thí”. Vị ấy bố thí để trang nghiêm tâm. Do bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Phạm Chúng. Khi nghiệp lực đoạn tận, thần lực, danh tiếng và uy quyền đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, chương 7, phẩm Tế đàn, phần Bố thí, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.355)

LỜI BÀN:

Bố thí là một pháp tu quan trọng, phổ biến, dễ thực hành đối với hàng Phật tử nhằm cải thiện và tăng thượng phước báo cho tự thân. Bố thí có nhiều chủng loại, pháp thức, mục đích và tâm nguyện khác nhau. Do vậy, cùng tu tập về bố thí nhưng tùy mục đích và tâm nguyện của mỗi người mà có kết quả, phước báo sai biệt.

Điều mà ai cũng biết là bố thí sẽ mang lại phước báo tốt lành trong hiện tại và mai sau. Tuy nhiên, ngoài việc mong cầu phước báo, bố thí còn là một hình thức của tu tập về xả, nhằm đoạn tận chấp thủ và đạt đến ly tham. Do vậy, hành giả tu tập bố thí phải nỗ lực để vươn tới đỉnh cao Bố thí Ba la mật. Bố thí Ba la mật là một hình thức bố thí siêu việt chủ thể và đối tượng. Ở đây, hoàn toàn vắng mặt tác ý phân biệt về người cho, người được cho và cái đem cho đồng thời siêu việt cả kết quả, nhờ đó công đức trở thành vô lượng.

Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu bố thí với hữu tâm, có điều kiện thì gặt được phước báo hữu hạn. Đó là phước báo đầy đủ, sung mãn của cõi trời Tứ Thiên Vương, thuộc Dục giới. Nhưng nếu bố thí vô tâm, không điều kiện, chỉ “lành thay, sự bố thí” thì được sanh vào Phạm Chúng thiên, thuộc Sắc giới. Và điều đáng lưu tâm ở đây là khi hết phước báo ở cõi trời thì người bố thí hữu tâm sanh lại cõi người, trong khi đó người bố thí vô tâm sẽ chứng đắc Đệ tam Thánh quả A na hàm, trở thành vị Bất lai, không còn đọa lạc.

Vì thế, tu tập bố thí muốn đạt được lợi ích lớn và kết quả lớn thì tâm phải rộng lớn, không mong cầu, không trói buộc, vô tâm; bởi chỉ có vô tâm mới đạt được công đức, phước báo vô lượng.


Quảng Tánh
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
BỐ THÍ và CÚNG DƯỜNG NHƯ PHÁP

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Velukandaki làm một thí vật gồm có sáu phần cúng dường chúng Tăng. Bấy giờ, Thế Tôn với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên thấy mẹ của Nanda làm một thí vật gồm có sáu phần liền bảo các Tỷ kheo:
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
Này các Tỷ kheo, có ba phần thuộc về người bố thí và có ba phần thuộc về người nhận vật phẩm bố thí. Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí? Này các Tỷ kheo, người bố thí, trước khi bố thí, ý được vui lòng; trong khi bố thí, tâm được tịnh tín; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ. Đây là ba phần của người bố thí. Thế nào là ba phần của người nhận phẩm vật bố thí? Ở đây, này các Tỷ kheo, những người nhận phẩm vật bố thí, đã được ly tham hay đang thực hành hạnh ly tham; đã được ly sân hay đang thực hành hạnh ly sân; đã được ly si hay đang thực hành hạnh ly si. Đây là ba phần của người nhận phẩm vật bố thí. Như vậy, này các Tỷ kheo, đây là thí vật có sáu phần.

Này các Tỷ kheo, công đức của thí vật sáu phần thật vô lượng: “Là nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, hạnh phúc và an lạc”.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, phẩm Chư thiên, phần Bố thí, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.91)
LỜI BÀN:

Bố thí và cúng dường là pháp tu phổ biến của hàng Phật tử. Tuy nhiên, để đạt được sự bố thí và cúng dường đúng như pháp là việc không phải dễ dàng đối với người thí và cả người thọ thí.

Người thí chủ thực hành bố thí và cúng dường trước hết phải xuất phát từ sự hân hoan, hoàn toàn tự giác và tự nguyện. Phát tâm bố thí và cúng dường phải đứng trên nền tảng tịnh tín. Bởi lẽ, nếu thiếu tịnh tín thì việc làm cao cả ấy sẽ lệch hướng, chỉ nuôi lớn lòng ngã mạn vì thấy rằng ta là kẻ ban ơn. Vì “của cho không bằng cách cho”, do vậy chưa hẳn nhiều tiền lắm của mà thực hành được tịnh thí. Mặt khác, tu tập bố thí và cúng dường phải thành tựu hoan hỷ, vui vẻ khi đem niềm vui đến cho người. Đây là ba yếu tố cơ bản người thí chủ cần tu tập để đạt được sự bố thí và cúng dường như pháp.

Đối với chúng Tăng, những người thọ thí, lại càng phải nỗ lực để hoàn thiện tự thân hơn vì bao giờ “của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Nếu không trau dồi, tu sửa thân tâm, đoạn trừ phiền não thì “tín thí nan tiêu”. Sự thọ nhận càng nhiều chỉ mang nợ đàn na thí chủ càng lớn đồng thời không tạo ra công đức để hồi hướng cho thí chủ. Vì vậy, song hành với tịnh thí của người thí chủ thì người thọ nhận phẩm vật bố thí, cúng dường phải đạt được sự tịnh thọ, tức sự thọ nhận với tâm thanh tịnh, tâm của người nhận đã và đang đoạn tận tham lam, sân hận và si mê.

Do đó, để việc bố thí và cúng dường như pháp, đạt được lợi ích lớn, công đức vô lượng thì người thí chủ và người thọ thí phải thành tựu “thí vật có sáu phần” như lời Đức Phật đã dạy.


Quảng Tánh
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
KHÔNG CHẾ NGỰ
Một thời, rất nhiều Tỷ kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại khu rừng nọ, cống cao, ngạo mạn, ồn ào, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự.
Rồi một vị thiên trú ở khu rừng ấy, vì lòng thương xót, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến các Tỷ kheo nói lên bài kệ sau:

Xưa sống thật an lạc/
Chúng đệ tử Cù Đàm/
Không tham tìm món ăn/
Không tham tìm chỗ trú/
Biết đời là vô thường/
Họ chấm dứt khổ đau/
Nay tự làm ác hạnh/
Như thôn trưởng trong làng/
Họ ăn, ăn ngã gục/
Thèm khát vật nhà người/
Con vái chào chúng Tăng/
Đảnh lễ một vài vị/
Vất vưởng không hướng dẫn/
Họ sống như ngạ quỷ/
Những ai sống phóng dật/
Vì họ, con nói lên/
Những ai không phóng dật/
Chân thành con đảnh lễ.
Các vị Tỷ kheo ấy được vị thiên cảnh tỉnh, tâm hết sức xúc động.

(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 9, phần Không chế ngự căn hay nhiều Tỷ kheo, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.448)

LỜI BÀN:
Từ thời Thế Tôn, vẫn có một vài hội chúng Tỷ kheo phóng dật, tham đắm lợi dưỡng, không mấy thú hướng tu hành để đạt đến giải thoát, Niết bàn. Nhất là về sau khi Tăng đoàn phát triển lớn mạnh, người xuất gia ngày càng đông và những kẻ cơ hội đã trà trộn vào hàng ngũ xuất gia nhưng không vì mục tiêu giải thoát càng nhiều thì những tệ đoan bắt đầu gia tăng.

Rất dễ dàng để nhận ra một hội chúng Tỷ kheo kém phẩm chất, khiếm khuyết về phạm hạnh, không được thanh tịnh thông qua các biểu hiện như “cống cao, ngạo mạn, ồn ào, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự”. Và những hội chúng Tỷ kheo nào mà trong nội dung các hoạt động tu tập và Phật sự thiếu vắng tinh thần giới, định và tuệ thì hội chúng đó chỉ còn hình thức, danh nghĩa mà thôi.
Có điều chắc chắn rằng, khi một hội chúng Tỷ kheo không thanh tịnh thì sự ngưỡng mộ và quy hướng của tín đồ suy giảm dần, ngày càng mất đi sự ủng hộ của hàng cư sĩ và chư thiên. Do vậy, vai trò hộ pháp của cư sĩ và chư thiên không chỉ tận lực ủng hộ về cúng dường tài vật mà còn thể hiện bằng tinh thần xây dựng, củng cố Tăng đoàn.
Vì thanh tịnh của Tăng đoàn, vì tồn vong của đạo pháp, chư thiên và cư sĩ hộ pháp luôn quan tâm đến chư Tăng, ủng hộ và bảo vệ hết lòng, chia sẻ khi khó khăn, góp ý và thức tỉnh lúc phóng dật… với tất cả tâm từ như vị thiên trong pháp thoại trên đây, chính là trách nhiệm hộ pháp của mỗi người đệ tử Phật.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Giới đức là cao quý nhất


<table class="ctcPictureTable" align="left" border="0" cellpadding="0" cellspacing="0"><tbody><tr><td>
</td></tr></tbody></table> Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetanava, vườn ông Anàthapindika, dạy các Tỷ-kheo:


Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Có hạng người đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống chung, không cần phải hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, cần phải nhìn một cách thản nhiên, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống chung, không cần phải hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người ác giới, tính tình độc ác, sở hành bất tịnh, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng hiện tướng Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, đầy những tham dục, tánh tình bất tịnh. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống chung, không cần phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Vì rằng, dầu không thuận theo một chút nào tri kiến của người như vậy, nhưng tiếng xấu được đồn xa về người ấy là có bạn ác, có bằng hữu ác, tôn sùng kẻ ác…
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người cần phải nhìn một cách thản nhiên, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, dầu có bị nói chút ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, hiện rõ phẫn nộ, sân hận và bực tức. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải nhìn với cặp mắt thản nhiên, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Vì nghĩ rằng: “Người ấy có thể nhục mạ ta. Người ấy có thể chửi mắng ta. Người ấy có thể làm hại ta”…
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người giữ giới, tánh tình hiền thiện. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường. Vì cớ sao? Vì rằng, dầu không thuận theo chút nào tri kiến của người như vậy, nhưng tiếng tốt được đồn xa về người ấy là có bạn lành, là có bằng hữu lành, là tôn sùng kẻ lành. Cho nên, hạng người như vậy, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường.
(Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 3, phẩm Người [lược])

SUY NGHIỆM:

Sống và ứng xử với mọi người trong xã hội sao cho đúng đắn, thuận tình và hợp lý là cả một nghệ thuật. Đức Thế Tôn thật minh triết khi chỉ dạy quan điểm ứng xử với mọi người, nhất là với người xuất gia thật phân minh, rõ ràng. Theo Thế Tôn, giới hạnh hay đức hạnh, đạo đức của một cá nhân chính là nhân tố quan trọng nhất để hàng Phật tử chúng ta bày tỏ và thể hiện ứng xử cung kính, thân cận nhằm nương tựa học tập noi gương. Ngoài yếu tố đạo đức ra, dù cá nhân ấy có mang bất cứ hình thức nào cũng chỉ là hạng người “đáng ghê tởm”, không đáng để quan tâm hay chỉ “nhìn một cách thản nhiên” mà thôi.
Trước hết, đối với hạng người tham lam, độc ác, luôn gian dối và che đậy những việc làm xấu ác và tệ hại của mình, không chỉ là người thế tục mà có thể họ là một số người tu biến chất hay đội lốt người tu vì những mục đích xấu xa, những người này dù họ có hình thức như thế nào đi nữa cũng đáng bị khinh miệt, ghê tởm. Người con Phật chân chính quyết không thân cận cũng như hầu hạ, cúng dường hạng người này.

Đối với hạng người nhiều nóng giận, hay sân si, lắm bực bội thì chúng ta nên tránh xa, cũng chẳng nên thân cận vì lợi bất cập hại, như cầm đuốc đi ngược gió sẽ khó tránh được họa cháy tay. Chỉ “nhìn một cách thản nhiên” tức không quan tâm để ý hay ly khai với người nhiều nóng giận là một cách ứng xử khôn ngoan, tinh tế nhất. Trong trường hợp phải sống chung thì cần “kính nhi viễn chi”, kính mà không gần họ, dù cho đó là bề trên đi nữa.


Chỉ có hạng người có giới đức, đạo hạnh với tính tình hiền thiện mới đáng để cho chúng ta “cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường”. Dù rằng, những người này có thể họ rất bình thường, không danh phận, không chức vụ và thậm chí cũng có thể chư vị là những hành giả sống ẩn dật hay lang thang vô định.

Mới hay, phẩm chất đạo đức hay giới hạnh của một người mới là điều quan trọng nhất. Vì có giới mới có định, tuệ và có sự thảnh thơi, giải thoát. Cho nên, những người con Phật chúng ta phải tỉnh táo và mở to đôi mắt trí tuệ để ứng xử hợp lý nhằm thân cận, tôn vinh và cúng dường sao cho mình và mọi người đều được lợi lạc.

Quảng Tánh

(Theo Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay 14)​
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Xuất gia và hoàn tục

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, gọi các Tỷ kheo:
Này các Tỷ kheo, Tỷ kheo hay Tỷ kheo ni nào, từ bỏ học pháp, trở lui đời sống thế tục, có năm vấn đề hợp pháp để tự trách và chỉ trích đến với vị ấy ngay trong hiện tại. Thế nào là năm ?


Trong Thầy (vị ấy nghĩ) không có lòng tin đối với các thiện pháp, trong Thầy không có lòng hổ thẹn đối với các thiện pháp, trong Thầy không có lòng sợ hãi đối với các thiện pháp, trong Thầy không có tinh tấn đối với các thiện pháp, trong Thầy không có trí tuệ đối với các thiện pháp.
Tỷ kheo hay Tỷ kheo ni nào, này các Tỷ kheo, từ bỏ họ pháp, trơ lui đồi sống thế tục, năm vấn đề hợp pháp này để tự trách và chỉ trích đến với vị ấy ngay trong hiện tại.


(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phầm Sức mạnh hữu học, phần Học pháp [trích], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.309)

LỜI BÀN:
Xuất gia là phát nguyện đi theo con đường Thánh, lộ trình ấy thường được gọi là nghịch lưu. Bởi không xuôi theo những cám dỗ đam mê của thế thường nên người sơ tâm phải đối diện với vô vàn khó khăn trước tình cảnh phước mỏng, nghiệp dày. Với thách thức này, không phải người xuất gia nào cũng dễ dàng vượt qua nên có người phải trở về rồi quay lại hoặc về hẳn làm người con Phật tại gia, tu thân và học pháp.
Không còn tiếp tục con đường xuất gia, trở về đời sống cư sĩ tại gia là chuyện rất bình thường. Đôi khi, hoàn tục là điều hay cho những ai nhận thấy sức mình không kham nổi hoặc thối thất chí nguyện ban đầu hay gặp những hoàn cảnh xảy ra ngoài ý muốn. Thời Thế Tôn tại thế, nhiều vị xuất gia đã hoàn tục, dù có quở trách ít nhiều song hầu hết Phật đều tùy thuận. Bởi Ngài thấu rõ duyên nghiệp mỗi người và nhất là tu tập hoàn toàn dựa trên nền tảng tự nguyện, mọi sự ép uổng sẽ không đem lại kết quả mà đôi khi còn phản tác dụng.
Với bất cứ hoàn cảnh nào, người con Phật cũng cần quán sát nguyên nhân. Khi đã thấy rõ duyên khởi của vấn đề thì chúng ta không trách cứ hay phàn nàn về ai cả. Do thầy tổ không quan tâm, do huynh đệ không đùm bọc, do Phật tử không ủng hộ ư ? Điều quan trọng nhất phải nhận ra là do mình. Dấn thân bước tới, dừng lại hưởng an nhàn hay thoái lui hoàn tục, xét cho cùng cũng do mình tự quyết định. Vì thế, nếu trách trước phải nên tự trách mình.
Cố nhiên hoàn tục là thối thất trong sự nghiệp xuất gia nhưng điều quan trọng là chúng ta nhìn nhận vấn đề như thế nào và bản thân người hoàn tục nhận thức ra sao về trách nhiệm của mình với Đạo pháp ? Đâu đó vần còn những nhìn nhận, đánh giá thiếu cảm thông và nhất là chưa có giải pháp thỏa đáng cho những vị đã hoàn tục có điều kiện tiếp tục cống hiến xây dựng ngôi nhà Phật pháp. Điều này thiết nghĩ cũng là thao thức, trăn trở của tất cả những nguời con Phật trong bối cảnh hiện nay.

Quảng Tánh

LỜI PHẬT DẠY TRONG KINH TẠNG NIKÀYA, tập I, NXB Tôn Giáo, 2008​
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
LÀM GIÀU

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại khu vườn ông Anàthapindika. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến, sau khi đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika.
Này gia chủ, có năm lý do để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm?
Ở đây, này gia chủ, vị Thánh đệ tử được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh của bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi, thâu được một cách hợp pháp. Tự mình làm an lạc, hoan hỷ. Làm cho cha mẹ, vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ nhất để gầy dựng tài sản.
Lại nữa, này gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn... Vị này làm cho bạn bè, thân hữu an lạc, hoan hỷ. Đây là lý do thứ hai để gầy dựng tài sản.
Này gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn... Các tai hoa để trở thành trắng tay bị chặn đứng và vị ấy giữ tài sản được an toàn cho vị ấy. Đây là lý do thứ ba để gầy dựng tài sản.
Lại nữa, này gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn... Vị ấy có thể hiến cúng cho bà con, cho khách, cho hương linh đã chết; hiến cúng cho vua và chư thiên. Đây là lý do thứ tư để gầy dựng tài sản.
Này gia chủ, vị Thánh đệ tử kiếm được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn... Vị ấy tổ chức cúng dường các vị Sa môn, Bà la môn. Sự cúng dường tối thượng này đưa đến phước báo vô lượng ở cõi người, cõi trời. Đây là lý do thứ năm để gầy dựng tài sản.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Vua Munda, phần Trở thành giàu [lược], VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.374)

LỜI BÀN:
Đề cập đến Phật giáo, xưa nay đa phần đều nghĩ về khuynh hướng ly dục, muốn ít và thanh bần. Ít ai ngờ rằng, Thế Tôn từng khuyến khích hàng đệ tử phải cố gắng làm giàu. Hãy gầy dựng tài sản, làm giàu với năm mục đích cao thượng.
Làm cho cá nhân và xã hội trở nên giàu có, thịnh vượng là khát vọng của nhân loại. Thế nhưng, con đường để trở thành giàu có không phải ở đâu và lúc nào cũng chân chính, là thành quả lao động khó nhọc từ khối óc và bàn tay. Vì thế, người Phật tử vâng lời Thế Tôn dạy, làm giàu chân chính bằng sự nỗ lực, cố gắng; bằng tất cả trí tuệ và sức lực; bằng các phương thức lao động, kinh doanh hợp pháp. Đồng thời, việc tạo ra của cải vật chất với mục đích cao cả là đem lại sự an vui và hạnh phúc cho mình và tha nhân.
Người Phật tử làm giàu trước hết nhằm đem lại hạnh phúc cho tự thân, gia đình và các nhân công, người phục vụ. Kế đến, đem tài sản của mình làm ra cho bà con, thân hữu, bè bạn và tha nhân được an vui, hạnh phúc. Mặt khác, biết cách bảo vệ thành quả lao động đồng thời không lãng phí và đầu tư vào những công việc không đem lại lợi ích cho con người. Ngoài ra, người Phật tử phải biết đem tài sản do mình làm ra để xây dựng các công trình văn hoá, nhớ về cội nguồn, cúng tế ông bà, tổ tiên và bố thí cho các vong hồn đói khát. Sau cùng, người con Phật phải biết hướng về các vị bô lão, những người có đời sống đạo đức, phạm hạnh như Sa môn để cúng dường đồng thời học theo đức hạnh của các ngài nhằm xây dựng phước báo tốt đẹp cho tự thân trong đời này và đời sau.
Làm giàu với năm mục đích cao thượng như trên, người con Phật đã góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, công bằng, tiến bộ và văn minh.
Quảng Tánh
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
SANH TỪ CHỖ VÔ SANH

HỎI: Tôi đọc trong kinh sử Phật giáo biết rằng Bồ tát Tất Đạt Đa đản sanh từ hông bên phải của Hoàng hậu Ma Gia khi đưa tay phải vin cành Vô ưu. Khi xem các khán đài vào dịp Phật đản thì thấy có nơi Hoàng hậu Ma Gia đưa tay phải lên nhưng cũng có chỗ Hoàng hậu lại đưa tay trái lên vin cành Vô ưu. Thấy vậy tôi rất ngạc nhiên nên muốn biết chính xác Hoàng hậu Ma gia lúc sanh Bồ tát đưa tay nào lên? Bồ tát Đản sanh từ bên hông nào? Ý nghĩa của việc ấy ra sao?

ĐÁP:
Chúng ta đều biết, trước khi đản sanh, Bồ tát Hộ Minh ở cung trời Đâu Suất là vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, đã đoạn tận phiền não, tự tại với sanh tử, đầy đủ thần lực. Vì thế, những hiện tượng nhập thai, trụ thai, xuất thai và thị hiện đản sanh của Bồ tát Tất Đạt Đa là những việc bất khả tư nghì.
mahamaya.jpg
Sự kiện Bồ tát đản sanh từ hông bên hữu của Thánh mẫu Ma Gia khi đưa tay phải vin cành Vô ưu là một trong những thoại tướng của bậc xuất thế, báo hiệu đấng Đạo sư tối thượng xuất hiện trong cuộc đời, cứu khổ chúng sanh.

Theo kinh Phật Bản Hạnh Tập, trước giờ phút Bồ tát đản sanh, Hoàng hậu Ma Gia ở trong tâm trạng vô cùng hoan hỷ, không một chút lo lắng, tham đắm hoặc sợ hãi. Về thân thể thì không hề bị đau đớn, bức bách và rất đoan nghiêm. Khi Hoàng hậu đứng ngắm những đoá hoa nở rộ dưới cội Vô ưu, ngước mắt nhìn lên và đưa cánh tay mặt từ từ vin cành hoa xuống, liền đó Bồ tát từ hông bên phải của Hoàng hậu sanh ra.

Cứ kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh, sự sinh nở rất hy hữu của Thánh mẫu Ma gia là một trong những pháp kỳ đặc chưa từng có. “… Người nữ trong thế gian gần lúc sanh con, thân thể đau ốm nhức mỏi, hoặc ngồi hoặc nằm không yên. Bồ tát thì khác, lúc sanh người mẹ vô cùng an lạc, không có các sự khổ não. Người mẹ hoan hỷ dạo chơi nơi vườn cảnh, đứng dưới gốc cây đưa tay phải vin cành mà sanh. Đây là pháp kỳ đặc chưa từng có thứ mười”.

Sự kiện Bồ tát đản sanh từ hông bên phải, khi Thánh mẫu đưa tay vin cành cây có tính truyền thống, không phải chỉ duy nhất Phật Thích Ca mới có mà là một thường pháp của chư Phật. “Bồ tát Tỳ Bà Thi (Phật quá khứ) đương lúc sanh ra từ hông bên phải của mẹ thì chuyên niệm không loạn và mẹ của Bồ tát lúc ấy, tay vin cành cây, không ngồi, không nằm. Đây là thường pháp của chư Phật” (Trường A Hàm I, Kinh Đại Bổn Duyên).

Bồ tát Đản sanh từ hông bên phải của Thánh mẫu Ma Gia mang ý nghĩa sanh ra từ chỗ vô sanh. Thực ra, Thánh mẫu Ma Gia không chỉ làm mẹ của Bồ tát tất Đạt Đa mà đã từng làm mẹ bảy đời chư Phật trong quá khứ (Trường A Hàm I, Kinh Đại Bổn Duyên). Cùng quan điểm này, kinh Hoa Nghiêm nói: Trong nhiều đời quá khứ, Thánh mẫu Ma Gia đã từng làm mẹ của vô lượng Bồ tát Nhất sanh bổ xứ (phẩm Nhập Pháp Giới). Do đó, sanh ra từ hông bên phải là năng lực của sự thị hiện. Vì bi nguyện độ sanh mà Bồ tát thị hiện Đản sanh trong Ta Bà ác trược, làm con của Thánh mẫu. Ngài đã thân chứng Vô sanh, tự tại trong sanh tử nên không sanh ra trong đường sanh tử (cơ quan sinh sản) mà sanh ra từ hông bên phải thanh tịnh, không vướng hồng trần ái dục.

Mặt khác, Bồ tát đản sanh từ hông bên phải còn mang ý nghĩa tuỳ thuận thế gian mà sanh. Tất cả những biến dịch hoặc vận động theo hướng phải được gọi là thuận thế. Các biểu tượng của Phật giáo như Pháp luân, Cát tường (chữ Vạn) hay đi kinh hành, nhiễu Phật tháp đều vận hành theo hướng bên phải. Vì chúng sanh đang mong cầu một đấng Đạo sư toàn trí toàn năng để hướng đạo; nhân loại đang khát khao một tuệ giác vô ngã để dập tắt mọi lầm chấp, si mê; những người phát tâm hướng thiện cần một đoàn thể xuất gia chân tu thực học để nương tựa và noi theo nên Bồ tát thuận thế thị hiện đản sanh chứng thành Phật quả, giáo hoá chúng sanh, vì cứu khổ, ban vui, đem an lạc và hạnh phúc cho muôn loài.

Như vậy, căn cứ vào những kinh điển đã nêu khẳng định Thánh mẫu Ma Gia lúc sanh Bồ tát đưa tay phải vin cành Vô ưu đồng thời Bồ tát từ hông bên phải mà sanh ra. Vì thế, tất cả những nhận thức hoặc trình bày, trang trí, minh hoạ về thoại tướng Đản sanh ngược lại (Thánh mẫu đưa tay trái lên…) đều không đúng với giáo điển Phật giáo.

Lễ hội Phật đản đang gần kề, chúng tôi hy vọng rằng hàng Phật tử và nhân dân Việt nam được chiêm ngưỡng hình ảnh Thánh mẫu Ma gia đưa tay phải vin cành Vô ưu và Bồ tát đản sanh bước đi trên bảy hoa sen bất nhiễm.
Quảng Tánh
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
SỐNG ĐẸP VỚI TỨ NHIẾP PHÁP
Bạn hãy thử hỏi lại mình:
- Có khi nào bạn cảm thấy mình thật nhỏ nhen, ích kỷ không?
- Có khi nào bạn tự trách mình vì lỗi lầm của kẻ khác không?
- Có khi nào bạn chạnh lòng thương xót, sẻ chia với một kẻ xin ăn tật nguyền, khốn khổ hay chưa?
- Có khi nào bạn thật sự cảm thông với một kẻ điên khùng, ăn mặc nhếch nhác, đầu tóc rũ rượi, khóc, cười… mà không giễu cười chế nhạo, coi khinh họ không?
- Có khi nào bạn sẵn sàng giúp đỡ một ai đó, dù chính mình đang là kẻ gặp phải những khó khăn?
- Có khi nào bạn có thể mở lòng tha thứ cho kẻ đã hại mình không?
- Có khi nào bạn nhắc nhở, khuyên lơn người khác không nên đi vào vết xe đổ của mình chưa?
- Có khi nào bạn có thể thương yêu một loài vật như một người thân yêu, dẫu biết rằng đó không phải là đồng loại của mình?
- Có khi nào bạn cảm thấy rất run sợ trước những hiểm nguy bất ngờ gặp phải khi đi cùng người khác, mà vẫn tỏ ra bình tĩnh, trấn an họ và sẵn sàng bảo vệ họ trước mọi khó khăn có thể xảy ra, thay vì ngược lại không?
- Có khi nào bạn vẫn có thể ôn tồn, nhẹ nhàng trước những cử chỉ thô bạo và xúc phạm mình không?

Có thể đến lúc này, bạn vẫn chưa làm được một vài điều trên. Nhưng nếu một lần chiêm nghiệm những lời dạy của Đức Thế Tôn về Tứ nhiếp pháp, bạn sẽ cảm thấy mình không khó lắm để làm được chúng. Hãy mở rộng tấm lòng, thế chỗ sự tham lam, ích kỷ, hẹp hòi bằng những mầm vị tha, nhân ái bạn sẽ không ngờ rằng những việc làm đó có thể mang lại cho mình những lợi ích vô biên. Bạn trở nên khoan dung khi có thể tha thứ những điều mà tưởng chừng như không thể. Khi bạn có thể yêu thương loài vật thì bạn sẽ dễ dàng đón nhận, thương yêu đồng loại của mình hơn. Bạn trở nên gần gũi hơn khi san sẻ, cảm thông trước nỗi đau của kẻ khác và được nhận lại tình yêu thương, lòng cảm mến của mọi người. Dám xả thân vì một nghĩa cử cao đẹp để bạn mãi là một tấm gương dũng cảm. Khuyên lơn người khác cũng là cách mà bạn nhắc lại bài học cho mình, thêm một lần để nhớ. Bạn trở nên chín chắn hơn khi biết suy xét lại mình, đó cũng là cách hoàn thiện mình hơn. Vượt qua những thị hiếu tầm thường, khoan dung, hỷ xả trước những hỷ nộ ái ố của kẻ khác cũng là cách bạn bảo vệ mối quan hệ của bạn trong gia đình, bạn bè và xã hội ngày một vững bền và tốt đẹp hơn.
Làm được những điều này, chắc chắn rằng bạn là người rất hạnh phúc, vì bạn tự giúp mình trở nên thanh cao, đáng quý và đáng được trân trọng. Quan trọng là tâm hồn của bạn lúc nào cũng an lạc, hoan hỷ, ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Và đời sống của chính bạn khiến cho mọi người ấn tượng tốt đẹp, tin tưởng vào Chánh pháp. Tất cả những việc làm trên đều là những bài thực tập đơn giản của Tứ nhiếp pháp.
Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp nhiếp hóa người khác hướng thiện, gồm có: Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp. Thoạt nghe thì ngắn gọn, dễ nhớ, song bao hàm trong mỗi phương pháp là cách chuyển hóa những nguyên nhân sản sinh ra mâu thuẫn trong các mối quan hệ xã hội, quyết định giữa cái tốt hay xấu. Tứ nhiếp pháp còn là những bài học sâu xa để rèn luyện đạo đức, nhân phẩm con người, thể hiện trách nhiệm của một công dân trong xã hội.
Bố thí nhiếp gồm có tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là sự sẻ chia về vật chất, thể hiện tinh thần tương thân tương ái. Pháp thí là đem những lời dạy của Đức Phật, các bậc Thánh Hiền Tăng giảng dạy cho chúng sanh. Pháp thí còn mang ý nghĩa chia sẻ những bài học, kiến thức, kinh nghiệm quý báu có được trong cuộc sống này để giúp ích cho mọi người. Vô úy thí, trước hết tự thân ta vượt qua nỗi sợ hãi khi đối mặt với những khó khăn nguy hiểm, sau đó là giúp người vượt qua mọi sự sợ hãi. Bố thí chính là sự cho đi nhưng thực chất là nhận lại rất nhiều. Chưa hẳn những điều mình làm cho người đã nhiều bằng những gì ta nhận lại từ người. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của sự thí xả và hơn thế nữa là sự yêu thương, kính nể, trân trọng của mọi người. Khi mọi người đã có cảm tình tốt đẹp, ta có thể khuyến hóa họ hướng về nẻo thiện, bỏ ác làm lành… Đấy chính là mục đích và ý nghĩa của Bố thí nhiếp.
Ái ngữ nhiếp là nói lời yêu thương để dìu dắt người sống lương thiện, hỷ xả, nhẹ nhàng. “Lời nói chẳng mất tiền mua/Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Một ngày chúng ta chỉ ăn ba bữa, mặc hai hoặc ba bộ quần áo, làm một số công việc nhưng giao tiếp cần dùng đến lời nói thì nhiều vô kể. Trong những mối quan hệ gia đình, quan hệ xã hội… ta đều phải dùng đến lời nói. Lời nói ra thì dễ nhưng lấy lại thì khó. Vì vậy, mỗi người cần phải làm chủ được lời nói của mình. Nói những lời hay, ý đẹp bằng tất cả lòng chân thành tràn đầy yêu thương nhất. Thuật nói dối một cách trong sáng có thể mang lại niềm vui, lợi ích cho người khác cũng nên dùng đến. Một người biết nói chân thật, yêu thương có thể làm người khác an vui, hạnh phúc, gieo vào lòng người một hạt mầm tinh thần hướng thiện đáng quý để họ có thêm nghị lực đứng lên đối mặt với những khó khăn, chướng ngại trong cuộc đời.
Lợi hành nhiếp là cùng mang đến lợi ích cho mình và người để dẫn đắt họ trở về với Chánh pháp. Tôi từng được biết những câu nói rất hay: “Hãy chăm sóc tâm ý của bạn vì chúng sẽ trở thành lời nói và hành động của bạn. Hãy chăm sóc hành động của bạn vì chúng có thể trở thành thói quen của bạn. Hãy chăm sóc thói quen của bạn vì chúng sẽ hình thành bản tánh của bạn. Hãy chăm sóc bản tánh của bạn vì chúng sẽ hình thành định mệnh của bạn. Và định mệnh của bạn sẽ là cuộc đời của bạn”. Hãy nuôi dưỡng tâm ý, từ đó hình thành nên lời nói, hành động, bản tánh, định mệnh của cuộc đời mình. Không nên đổ lỗi cho số phận mà cố gắng làm việc thật tốt để giúp mình và giúp đời. Chỉ cần mang đến lợi ích cho người thì chúng ta sẽ dễ dàng nhiếp hóa họ sống lương thiện theo Chánh pháp.
- Đồng sự nhiếp là cùng đồng cam cộng khổ, chung lưng đấu cật gánh vác trách nhiệm cũng như sẻ chia quyền lợi, nhờ đó nhiếp hóa được người khác thông qua hành động cụ thể. Một người quản lý giỏi phải là tấm gương sáng để cấp dưới nể trọng, phục tùng và học hỏi. Và người đó phải biết chăm sóc, biết dung hòa với nhân viên. Được như thế thì nội bộ cơ quan hay công ty đó sẽ có mối quan hệ tốt đẹp, có sự đoàn kết tốt. Mọi người biết quan tâm và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thi đua phấn đấu một cách công bằng chắc chắn công ty ấy sẽ phồn thịnh, phát triển vững bền. Ngược lại, nếu nội bộ không đoàn kết, mọi người tranh giành, hãm hại lẫn nhau, người này giẫm đạp lên thành quả của kẻ khác để đi đến thành công thì công ty đó, dù có thành công, sớm muộn cũng sẽ đổ vỡ. Thế mới thấy tầm quan trọng của Đồng sự nhiếp.
Những mâu thuẫn, bất đồng trong đời sống xã hội đều phát xuất từ lòng ích kỷ, tham lam của con người. Và con người cũng chính là nguyên nhân làm cho xã hội trở nên hỗn loạn, bất công, nảy sinh tệ nạn, cái ác, cái xấu… Trong thời hiện đại, lòng người càng tha hóa trước những danh vọng, tiền tài, chỉ biết mưu cầu tư lợi mà dần mất đi thiện tánh trong mình, thay vào đó là sự thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của kẻ khác. Cái ác, cái xấu thừa cơ sinh sôi nảy nở đồng thời mầm thiện, mầm lành dần tàn lụi, héo khô vì người ta ngày càng xa rời chân tâm, Phật tánh của mình. Đức Phật đã khẳng định rằng: “Mỗi chúng sanh đều có Phật tánh”. Con người may mắn hơn các loại chúng sanh khác là có ý thức và thuận lợi hơn trong việc tu hành giác ngộ. Song, biển khổ luân hồi vẫn đêm ngày dìm nhấn những kẻ u mê không nhận chân được những lời dạy của Ngài. Những tập khí xấu xa, ác độc, tham sân si đã ăn sâu vào trái tim, khối óc của họ nên cần được Chánh pháp soi rạng qua tinh thần thực tập Tứ nhiếp pháp của những người con Phật.
Cái thiện, cái đẹp như hạt ngọc giữa sa mạc cát mênh mông, như ngọn đuốc giữa màn đêm u tối và như bông hoa sen giữa bùn lầy. Âu cũng nhờ vậy mà viên ngọc kia trở nên lấp lánh, ngọn đuốc kia thêm rạng ngời, bông hoa kia mãi ngát hương. Vậy sao ta lại không dưỡng nuôi Phật tánh trong ta và trong mọi người để được thơm ngát như hoa, được đẹp như ngọc, được lung linh tỏa sáng như ngọn đuốc. Tuy Đức Phật đã giảng dạy giáo pháp trong một hoàn cảnh xã hội khác rất nhiều so với hoàn cảnh thực tế của xã hội hiện nay. Song việc áp dụng những triết lý của Tứ nhiếp pháp vẫn không bao giờ bị cũ đi, lạc lõng hay xa rời thực tế mà rất khoa học, phù hợp với mọi hoàn cảnh trong mọi thời đại. Việc giải quyết mâu thuẫn trước tiên là tìm ra nguyên nhân nảy sinh ra nó, rồi từng bước tìm ra chiếc chìa khóa để tháo gỡ những mối xung đột, những vấn đề nan giải của xã hội phải được bắt đầu chính từ sự chuyển hóa tham sân si nơi con người. Tinh thần Tứ nhiếp pháp nếu được áp dụng trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, nhân phẩm ở nhà trường cũng như tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội thì lợi ích mà nó mang lại là rất lớn. Nếu ai cũng hiểu được những giá trị nhân văn của Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí trong Bố thí nhiếp, cái hay của Ái ngữ nhiếp, cái lợi của Lợi hành nhiếp và cái hòa của Đồng sự nhiếp mà thực hành, cảm hóa người khác sống thiện lành thì xã hội sẽ bớt đi những tệ nạn, bất công, tội lỗi và khổ đau, con người sẽ được sống trong thịnh vượng, hòa bình.
Chúc Tâm Ảnh
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Tặng một vầng trăng
Kẻ trộm, trộm vặt của người trong xóm làng, ai sơ hở vật gì thì lập tức mất ngay, âu đó cũng là chuyện thường trong thời đói kém, túng quẫn và đạo đức con người, xã hội xuống cấp. Thế nhưng, đột nhập đền chùa miếu mạo, trộm của “thánh thần”, chẳng hề kiêng sợ, không chút bận tâm thì chỉ có trong thời loạn, ấy vậy mà việc này cũng thường xảy ra…

Sách 101 câu chuyện Thiền kể rằng: “Ryokan, vị thiền sư sống cuộc đời hết sức giản đơn trong một thảo am ở dưới chân núi. Một đêm, có kẻ đạo chích đột nhập thảo am nhưng nhìn quanh chẳng có gì đáng lấy cả. Vừa lúc Ryokan trở về, bắt gặp kẻ trộm.

- Có lẽ ngươi từ xa xôi đến thăm ta, ngài nói với hắn, vậy không nên về tay không. Hãy cầm lấy áo choàng của ta như là một chút quà mọn.

Kẻ trộm sững sốt. Hắn vơ tấm áo và chuồn ngay.

Ryokan mình trần ngồi ngắm trăng.

Thiệt đáng thương! Ngài trầm ngâm: Ước gì ta có thể tặng cho hắn vầng trăng tuyệt đẹp này”.


Thường thì “bần cùng sinh đạo tặc” nhưng không phải bất cứ ai bần cùng đều trở thành đạo tặc cả. Không hiếm người hiện khấm khá, giàu sang từng là kẻ tay trắng, đi lên từ một quá khứ cơ hàn. Vấn đề là làm thế nào để thức tỉnh và chuyển hóa họ trở thành người tốt.

Cố nhiên hành vi trộm cắp là xấu nhưng người trộm cắp chưa hẵn đã là người xấu. Chính thái độ và hành xử của chúng ta đã góp phần xô đẩy những ai trót dại lỡ lầm dấn sâu vào con đường tội tỗi hay đánh thức lương tri, giúp họ hoàn lương. Tâm con người như vầng trăng sáng, những thói hư tật xấu của họ là những đám mây, chợt ẩn chợt hiện che lấp mặt trăng. Đây là mấu chốt của niềm tin vào sự phục thiện của con người.

Do đó, đối với người xấu cần tránh xa, cảnh giác hay khinh ghét, tẩy chay họ hoặc cứng rắn hơn, nghiêm trị theo pháp luật là điều cần nhưng chưa đủ. Bởi thực tế cho thấy, nhà nhà đều kín cổng cao tường, nơi nơi đều có bảo vệ và nhà tù không bao giờ vắng người, vậy mà tệ nạn xã hội vẫn cứ hoành hành.

Vậy thì, thay vì cố nắm giữ chúng ta thử buông bớt ra! Hãy cho những ai còn thiếu một phần nhỏ của những gì mình đang có; không chỉ tài sản, tiền bạc, thực phẩm mà cả tình thương, sự hiểu biết và tha thứ, cảm thông… để thấy và cảm nhận được sự chuyển hóa nhiệm mầu.

Như Ryokan, một sơn tăng nghèo hèn, thậm chí nghèo hơn cả kẻ trộm. Ấy vậy mà khi bắt được quả tang tên trộm, vị thiền sư hồn nhiên như gặp bạn, lại còn tặng quà. Chiếc áo choàng dù tơi tả dùng để che gió sương nhưng đó là cả một gia tài lớn đối với ngài. Để rồi, khi ngồi mình trần trong đêm lạnh, nhìn ánh trăng sáng mà tâm hồn ấm áp, Ryokan ao ước tặng cho người bạn “trộm” mới gặp kia luôn cả vầng trăng.

Dẫu Ryokan không thể làm được gì với vầng trăng trên trời nhưng chắc chắn sẽ khiến cho vầng trăng lương tâm của người bạn “trộm” tỏa sáng. Và khi tất cả chúng ta “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”, dù chỉ “để gió cuốn đi” nhưng làn gió kia sẽ cuốn phăng những đám mây u ám, vụng dại, lỡ lầm để cho vầng trăng tâm luôn ngời sáng.

Một tấm lòng! Rất cần cho tôi, cho bạn và mọi người.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
"CHẺ QUÂY ... TÌM LỬA

Xưa, có người bện tóc thờ lửa, sống trong căn nhà lá tại một khu rừng nọ. Một hôm, có đoàn người di cư ghé qua khu rừng và nghỉ lại một đêm. Hôm sau, khi đoàn người đi khỏi, người đó nghĩ: “Nếu mình đến chỗ người thống lãnh đoàn di cư nọ thì có thể sẽ kiếm được một vài đồ vật hữu dụng”.
Nghĩ vậy, ông liền ra đi. Đến nơi, người bện tóc thờ lửa thấy một đứa bé bị quăng nằm ngửa ở đó, liền nghĩ: “Nếu ta cứ cố đi tìm vật dụng mà để đứa trẻ này bị chết thì thật không phải”, bèn đem đứa trẻ về nuôi.
Khi đứa trẻ được chừng mười - mười hai tuổi, người bện tóc thờ lửa có việc phải xuống đồng bằng, căn dặn cậu bé: “Con ở nhà hãy chăm sóc ngọn lửa, đừng để nó tắt. Nếu lửa tắt, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quaây để nhóm lửa, con hãy nhen lại và chăm sóc nó”.
Người thờ lửa đi rồi, cậu bé vì mải chơi, để cho lửa tắt. Nhớ lời cha nuôi dặn, cậu liền đem những vật dụng kia ra nhen lửa. Cậu lấy búa chẻ quây, nghĩ rằng: “Ta sẽ tìm thấy lửa”, nhưng lửa vẫn không có. Cậu tiếp tục chẻ quây làm ba, làm tư,... rồi làm mười, làm trăm... Cậu cứ thế chẻ vụn quây, rồi lấy chày mà giã, sau khi đã giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn, nghĩ: “Ta sẽ tìm thấy lửa”. Nhưng lửa vẫn không có.
Người bện tóc, sau khi xong việc ở đồng bằng, trở về thấy lửa tắt, bèn hỏi con. Cậu bé đem hết sự việc kể lại, rằng cậu đã chẻ quây như thế nào, nỗ lực như thế nào..., nhưng vẫn không có lửa.
Người ấy nghe vậy, nghĩ: “Ðứa trẻ này thật ngu si và kém thông minh. Sao lại đi tìm lửa một cách thiếu suy tư như thế?”. Rồi, trong khi cậu bé đứng nhìn, ông cầm đồ quây lửa, nhen lửa lên và nói: “Này con, nhen lửa phải làm như vậy đó, chớ không phải như con ngu si và kém thông minh, tìm lửa một cách thiếu suy tư như thế”.
(Kể theo kinh Trường bộ, tập 2, kinh Tệ Túc - Pàyàsi-Suttanta. HT.Thích Minh Châu dịch)
Bàn thêm:
Sai lạc dẫn khởi từ vô minh. Do vô minh nên sự thấy biết và hành động thiếu chân xác; nỗ lực nhiều nhưng kết quả lắm khi trái ngược.
Ẩn dụ trên mang dáng dấp của một câu chuyện khôi hài, nhưng ý nghĩa của nó thì lại không khôi hài chút nào!
Chúng ta sống trên đời, ai cũng đều mong cầu sự bình an, hạnh phúc. Vậy mà lắm kẻ kiếm hạnh phúc lại nhận được đau khổ; lắm kẻ kiếm bình an lại nhận được âu lo, bấn loạn. Đơn cử như trong hạnh phúc lứa đôi, hai người nam - nữ đến với nhau, ước mong xây dựng hạnh phúc lâu dài. Tình yêu của họ là có thật, nhưng sự tham ái, chấp thủ và bản ngã cũng hiện diện. Nên, nhân danh tình yêu, họ trói buộc nhau, phụ thuộc nhau, dằn vặt nhau, gây đau khổ cho nhau. Tổ ấm hóa thành địa ngục. Trong trường hợp này, họ tìm hạnh phúc không đúng cách. Họ “chẻ” nhau ra chứ không phải kết hợp lại để tạo nên hơi ấm chan hòa…
Đó là chuyện thế tục. Còn trong việc tu hành, y cứ kinh điển, mặc dù có đến 84.000 pháp môn để chọn lựa, nhưng không phải hành giả nào cũng chọn được pháp môn thích hợp, và quan trọng hơn là thực hành đúng pháp môn đó. Trong kinh Tương ưng bộ, Đức Phật nêu ra ba điều khó làm trong giáo pháp: thứ nhất - xuất gia là điều khó làm; thứ hai: đối với người xuất gia, hoan hỷ là điều khó làm; thứ ba: đối với người đã hoan hỷ, sự thực hành đúng pháp và tùy pháp là điều khó làm. Nếu đã xuất gia, đạt được sự hoan hỷ, cộng với sự thực hành đúng pháp và tùy pháp, không bao lâu vị ấy sẽ chứng được Thánh quả A-la-hán. (tập IV, chương Sáu xứ, Tương ưng Jambukhàdaka - XVI. Khó làm).
Trước khi tìm ra Con đường, Đức Phật cũng đã trải qua quá trình tìm tòi và thể nghiệm nhiều phương pháp tu tập. Đỉnh cao của sự thể nghiệm ấy là giai đoạn tu khổ hạnh, được Ngài kể lại trong kinh Trung bộ - Đại kinh Sư tử hống như sau: “Trong khi Ta chỉ sống ăn một hột gạo, thân thể của Ta trở thành hết sức ốm yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà… Nếu Ta nghĩ: ‘Ta hãy sờ da bụng’, thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: ‘Ta hãy rờ xương sống’, thì chính da bụng bị Ta nắm lấy…”. Hay: “Ta dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, …, sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ ngoài trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, sống không uống nước lạnh,… Như vậy Ta sống theo hạnh hành hạ, dày vò thân thể theo nhiều cách”. Dù vậy, Ngài vẫn không đạt được giải thoát, giác ngộ.
Do đó, Ngài thường dạy rằng: “Có hai cực đoan mà người xuất gia không nên thực hành: Một là say đắm dục lạc đối với các dục vọng hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích. Hai là hành hạ tự thân, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Từ bỏ hai cực đoan này là con đường Trung đạo, đã được Như Lai giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”. Và con đường Trung đạo “là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, chánh niệm, Chánh định” (kinh Tương ưng bộ, Tương ưng thôn trưởng, XII. Ràsiya).
Khi hai tu sĩ khổ hạnh - một người theo hạnh con chó, tên Punna Koliyaputta và một người tu theo hạnh con bò, tên Seniya - đến tham vấn, Đức Phật đã không ngần ngại bảo rằng: Người nào hành trì hạnh, giới, tâm, uy nghi của con chó / con bò một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó / loài bò. Nếu có tà kiến rằng: Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác, thời đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, nếu hạnh con chó / con bò được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục (kinh Trung bộ, tập II, kinh Hạnh con chó). Như vậy, một khi đã tu hành không đúng pháp và không tùy pháp, thì hành giả càng nỗ lực bao nhiêu, kết quả lại càng tai hại bấy nhiêu.
Đó là chuyện thời Đức Phật. Còn hiện nay, khi phương tiện thông tin đại chúng phát triển mạnh mẽ, người tu học hàng ngày phải tiếp cận với vô số thông tin qua sách báo, băng đĩa bàn về các pháp môn tu học; cộng thêm đó là những pháp môn “mới”, được dẫn dụ bởi những kẻ truyền đạo nhiệt tình như pháp môn Quán Âm nhĩ căn viên thông của Thanh Hải “vô thượng sư”, Thiền minh sát của “đạo sư” Duy Tuệ cùng hiện tượng “cải đạo” đang diễn ra âm thầm mà mãnh liệt, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn cho mình con đường chân chánh nhằm tránh cái quả khổ đau nơi địa ngục.
Điều cần thiết của một người tu Phật là phải hiểu rõ và thực hành Bát chánh đạo, mà trước tiên là Chánh kiến - trí tuệ thực sự để tránh khỏi những mê lầm. Đức Phật đã nhấn mạnh: “Này các Tỳ-kheo, ví như sợi râu của lúa mì hay sợi râu của lúa mạch đặt hướng sai lạc, khi bị tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm đổ máu; sự tình này không xảy ra. Vì sao? Này các Tỳ-kheo, vì sợi râu bị đặt hướng sai lạc. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo kiến bị đặt hướng sai lạc, con đường tu tập bị đặt hướng sai lạc, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể đạt Niết-bàn; sự tình này không xảy ra. Vì sao? Này các Tỳ-kheo, vì kiến bị đặt hướng sai lạc” (kinh Tương Ưng Bộ, tập V, Tương ưng đạo, phẩm Vô minh - 9.IX. Sùka).
Tóm lại, muốn có lửa thì phải biết phương tiện và nhân duyên tạo lửa, tránh “chẻ quây tìm lửa” như đứa trẻ ngu ngốc nọ; muốn có được hạnh phúc, an lạc cho đời này và đời sau thì phải thực hành Bát chánh đạo - con đường đưa đến giải thoát, Niết-bàn. Nếu không theo đúng con đường này thì chắc chắn càng đi càng xa rời nẻo giác
A Lan Nhã
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
CHIẾC CÙM BẰNG NGỌC

Thuở xưa, có một nàng công chúa bị quân địch bắt về giam giữ tại một hang núi nọ. Quân giặc trói nàng bằng một chiếc cùm bằng sắt, nạn nhân liền phản đối ấm ĩ, lúc nào cũng tìm cách thoát thân.

Cuối cùng bọn giặc nhốt nàng vào một chiếc lầu sơn son thếp vàng thật đẹp, đổi chiếc cùm bằng sắt bằng chiếc cùm vàng nạm ngọc... Nạn nhân liền đổi giận làm vui, nghĩ rằng từ nay mình được sở hữu cả một gia tài khổng lồ nên đành cam chịu cảnh tù tội, không bao giờ nghĩ cách thoát thân nũa.

BÀI HỌC
Quý vị thân mến!

Những chiếc cùm dù có làm bằng phẩm lượng khác nhau đi nữa, chúng cũng có cùng mục đích là trói buộc, tước đoạt sự tự do của chúng ta. Cởi bỏ một chiếc cùm bằng sắt, bằng gỗ... tuy là khó thật nhưng so với chiếc cùm bằng vàng bạc, kim cương... thì mới là thiên nan vạn nan. Những người bị trói bằng chiếc cùm quý có thể tự tử chết nếu được giải thoát. Quý vị có thấy điều ấy không?

Có lẽ vì thế mà kinh Kim Cang có câu: “Pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp”, nghĩa là “Cùm vàng cũng phải cởi nữa là cùm bằng kẽm gai chăng?”
(NT)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên