<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">41. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân vị Vô Vi Tử viết: Khả ngôn bất khả hành, bất nhược vật ngôn. Khả hành bất khả ngôn, bất nhuợc vật hành. Phát ngôn tất lự kỳ sở chung, lập hành tất kê kỳ sở tế. Ư thị tiên triết, cẩn ư ngôn, trạch ư hành. Phát ngôn phi cẩu hiển kỳ lý, tương khải học giả chi vị ngộ, lập hành phi độc thiện kỳ thân, tương huấn học giả chi vị thành. Sở dĩ phát ngôn hữu loại, lập hành hữu lễ, toại năng ngôn bất tập họa, hành bất chiêu nhục. Ngôn vi tắc Kinh, hành vi tắc Pháp. Cố viết: "Ngôn hành nãi quân tử chi xu cơ, trị thân chi đại bản", động thiên địa cảm quỷ thần, đắc bất kính đồ.</B>
<P align="right"><B>Bạch Vân Quảng Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">41. DỊCH NGHĨA: <I>Bạch Vân bảo Vô Vi Tử</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>rằng: Nếu nói mà chẳng làm, thà rằng đừng nói, làm mà chẳng nói, thà rằng đừng làm. Phát ngôn phải lo đến hậu quả của nó, làm việc phải xét đến chỗ che đậy của nó. Bởi thế, bậc tiên triết cẩn thận ở lời nói, lựa chọn ở việc làm. Phát ngôn chẳng những để hiển đạo lý, mà còn đem mở bảo cho người học chưa ngộ. Làm việc không phải chỉ để hay riêng cho mình</I><SUP><B>(2)</B></SUP>, <I>mà còn đem dạy bảo cho người học chưa thành đạt. Vậy nên, phát ngôn có phát tắc, lập hành có lễ nghĩa, nên mỗi khi nói ra chẳng gặp vạ, mỗi khi làm chẳng bị nhục. Ðã nói ra thời là Kinh, làm việc thời là Pháp. Cho nên nói rằng: "Nói và làm là then chốt của người quân tử, là gốc lớn của việc sửa mình", động đến trời đất, cảm đến quỷ thần, thật đáng kính vậy".</I>
<P align="right"><B>Bạch Vân Quảng Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Vô Vi Tử</B>: <I>Tên là Dương Kiệt, tên chữ là Thứ Công, làm quan Lễ Bộ Ngoại Lang, biệt hiệu là Vô vi Tử, pháp tự của Thiên Y Hoài thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Hay riêng cho mình</B>: <I>Dịch ở chữ độc thiện kỳ thân. Thầy Mạnh Tử nói: "Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ". Nghĩa là: Cùng thì chỉ hay riêng cho mình, đạt thời hay khắp cho trong thiên hạ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">42. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân vị Diễn Tổ viết: Thiền giả trí năng, đa kiến ư dĩ nhiên bất năng kiến ư vị nhiên. Chỉ quán định tuệ phòng ư vị nhiên chi tiền, tác chỉ nhậm diệt giác ư dĩ nhiên chi hậu. Cố tác chỉ nhậm diệt, sở dung dị kiến, chỉ quán định tuệ sở vị nan tri. Duy cổ nhân chí tại ư đạo, tuyệt niệm ư vị manh, tuy hữu chỉ quán định tuệ, tác chỉ nhậm diệt, giai vi bản mạt chi luận dã. Sở dĩ vấn: "Nhược hữu hào đoan hứa ngôn ư bản mạt giả, giai vi tự khi, thử cổ nhân kiến triệt xứ nhi bất tự khi giả.</B>
<P align="right"><B>Thực Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">42. DỊCH NGHĨA: <I>Bạch Vân bảo Diễn Tổ rằng: Trí năng của bậc thiền, phần nhiều chỉ thấy những việc đã rồi, chẳng hay thấy được việc chưa tới. Chỉ quán định tuệ</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>thì phòng ngừa ở lúc trước của sự việc chưa tới, tác chỉ nhậm diệt</I><SUP><B>()</B></SUP> <I>2thì biết được sau của sự việc đã rồi. Cho nên chỗ dùng của tác chỉ nhậm diệt thời dễ thấy, chỗ làm của chỉ quán định tuệ thì khó biết. Tuy có chỉ quán định tuệ, tác chỉ nhậm diệt, cũng đều bàn về gốc ngọn vậy. Sở dĩ nói rằng: "Nếu có một mảy may nào nói tới gốc ngọn đều là tự dối mình, đó là chỗ thấy triệt để của cổ nhân chẳng bao giờ tự dối mình vậy"</I><SUP><B>(3)</B></SUP>.
<P align="right"><B>Thực Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Chỉ quán định tuệ</B>: <I>Nương vào nguyên khí về phần thực tướng của thể tính mà nói là chỉ, về phần thường chiếu của bản giác gọi là quán, phần tam muội là định, phần bát nhã gọi là tuệ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Tác chỉ nhậm diệt</B>: <I>Ðó là chỉ về bốn căn bệnh thấy chép trong kinh Viên Giác: "Tác bệnh, nhậm bệnh, chỉ bệnh và diệt bệnh". Chỗ tu chứng của bậc thiện tri thức cần phải xa lìa căn bệnh này.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3): <I>Câu này là lời thị chúng của Ðức Sơn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">43. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân viết: Ða kiến nột tử, vị thường kinh cập viễn đại chi kế, dư khủng tùng lâm tự thử suy bạc hỹ. Dương Kỳ tiên sư mỗi ngôn: "Thượng hạ thâu an, tối vi pháp môn đại hoạn". Dư tích ẩn cử Qui Tông thư dường, phi duyệt kinh sử, bất thí sổ bách quá mục, kỳ giản biện tế cố cực hỹ. Nhiên mỗi khai quyển tất hữu tâm hoạch chi ý. Dư dĩ thị tư chi, học bất phụ nhân như thử.</B>
<P align="right"><B>Bạch Vân Thực.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">43. DỊCH NGHĨA: </I>Bạch Vân nói: Phần nhiều thấy những nột tử chưa từng trải kịp đến cái kế xa và lớn, ta sợ chốn tùng lâm sẽ suy vi từ đây. Dương Kỳ tiên sinh thường nói: "Trên dưới muốn lẫn tránh cho an nhàn, đó là mối đại họa cho chốn thiền môn". Ta trước ẩn náu ở thư viện Qui Tông, duyệt xem kinh sử, chẳng những chỉ vài trăm lần qua mắt, mà xem đến nỗi kinh sách đó cũ nát tới cùng cực. Nhưng mỗi khi mở quyển tất nhiên lại cùng thu hoạch được nhiều ý mới lạ, như vậy thì sự học chẳng phụ người là thế vậy.</I>
<P align="right"><B>Bạch Vân Thực Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">44. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân sơ trụ Cửu Giang Thừa Thiên, thứ thiên Viên Thông, niên xỉ thậm thiểu. Thời Hối Ðường tại Bảo Phong, vị Nguyệt Công Hối viết: Tân Viên Thông đỗng triệt kiến nguyên, bất thiểm Dương Kỳ chi tự, tích hồ phát dụng thái tảo, phi tùng lâm phúc. Công Hối nhân vấn kỳ cố. Hối Ðường viết: "Công danh mỹ khí, tạo vật tích chi, bất dữ nhân toàn, nhân cố dục chi thiên tất đoạt chi". Ðãi Bạch Vân chung vu thư chi Hải Hội, phương ngũ thập lục tuế. Thức giả vị: "Hối Ðường tri cơ vi, chân triết nhân hỹ".</B>
<P align="right"><B>Trạm Ðường Ký Văn.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">44. DỊCH NGHĨA: <I>Bạch Vân lúc đầu ở chùa Thừa Thiên thuộc Cửu Giang, sau dời về chùa Viên Thông, tuổi đời còn rất nhỏ. Khi bấy giờ Hối Ðường</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>ở Bảo Phong, bảo Nguyệt Công Hối</I><SUP><B>(2)</B></SUP> <I>rằng: "Tân Viên Thông là người thấu triệt được kiến nguyên</I><SUP><B>(3)</B></SUP>. <I>thực chẳng hổ là pháp tự của Dương Kỳ, chỉ tiếc là ra ứng cơ</I><SUP><B>(4)</B></SUP> <I>quá sớm nên chẳng phải là phúc của tùng lâm". Công Hối, nhân hỏi về nguyên cớ. Hối Ðường nói: "Cái mỹ khí của công danh, tạo vật đều tiếc, chẳng để trọn vẹn cho con người, nếu người cố tâm muốn có nó, thì trời tất nhiên sẽ cướp đi". Cuối cùng Bạch Vân mất ở chùa Hải Hội, thuộc Từ Châu vừa vặn năm mươi sáu tuổi. Người thức giả thường bảo rằng: "Hối Ðường chẳng những chỉ biết về thời cơ mà còn biết tới chỗ vi tế nữa, quả là một triết nhân vậy".</I>
<P align="right"><B>Trạm Ðường Ký Văn<SUP>(5)</SUP>.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Hối Ðường</B>: <I>Hối Ðường Bảo Quốc Tổ Tâm thiền sư, người đất Nam Hùng, pháp tự của Hoàng Long Nam thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Nguyệt Công Hối</B>: <I>Hiểu Nguyệt thiền sư, pháp tự của Lang Nha Giác thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <B>Kiến nguyên</B>: <I>Kiến tính.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) <B>Ứng cơ:</B>: <I>Dịch ở chữ dụng, có nghĩa là ra tiếp hóa tế độ cho đời như trụ trì v.v...</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) <B>Trạm Ðường</B>: <I>Lặc Ðàm Văn Chuẩn thiền sư,hiệu là Trạm Ðường, pháp tự của Thực Phong Văn thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">45. CHỮ HÁN: <B>Hối Ðường Tâm Hòa thượng tham Nguyệt Công Hối vu Bảo Phong. Công Hối đỗng minh Lăng Nghiêm thâm chỉ, hải thượng độc bộ. Hối Ðường mỗi văn, nhất cú nhất tự, như hoạch chí bảo, hỷ bất tự thắng. Nột tử trung, gián hữu thiết nghị giả. Hối Ðường văn chi viết: "Khấu bỉ sở trường, lệ ngả sở đoản, ngô hà hiềm yên". Anh Thiệu Võ viết: "Hối Ðường sư huynh đạo học vi thiền nột sở tôn, do dĩ tôn đức tự thắng vi cường, dĩ vị kiến vị văn vi quý, sử tùng lâm tự quảng nhi hiệp ư nhân giả, hữu sở căng thức, khởi tiểu bổ tai".</B>
<P align="right"><B>Linh Nguyên Thập Di.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">45. DỊCH NGHĨA: <I>Hối Ðường Tâm Hòa thượng tham thiền với Nguyệt Công Hối ở Bảo Phong. Công Hối thông hiểu triệt để tông chỉ kinh Lăng Nghiêm một cách trác tuyệt vô song. Hối Ðường mỗi khi nghe được một câu một chữ, như là người được viên ngọc báu</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>vui mừng khôn xiết. Trong đám nột tử có người bàn lén việc này. Hối Công nghe biết và nói: "Học chỗ sở trường của người, sửa chỗ sở đoản của ta, ta có nề hà chi vậy". Anh Thiệu Võ</I><SUP><B>(2)</B></SUP> <I>nói: "Sự học đạo của Hối sư huynh, đã được các nột tử chốn tùng lâm lấy làm tông chỉ, thế mà còn lấy chỗ tôn đức tự thắng làm vui, lấy điều chưa thấy nghe làm xấu hổ, khiến cho tùng lâm tu rộng mà lại hẹp ở con người, để có chỗ, làm khuôn phép</I><SUP><B>(3)</B></SUP>, <I>thì đâu phải là bổ ích nhỏ vậy".</I>
<P align="right"><B>Linh Nguyên Thập Di.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Ngọc báu</B>: <I>Thứ ngọc quý toàn bích không một tỳ vết.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Anh Thiệu Võ</B>: <I>Tức Hồng Anh thiền sư, pháp tự của Hoàng Long thiền sư, vì là người của Thiệu Võ Quán, nên gọi là Anh Thiệu Võ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <B>Khuôn phép</B>: <I>Dịch ở chữ căng thức. Căng nghĩa là kinh, thức là pháp tắc, nghĩa là mô phạm hay khuôn phép.</I></P>
</span></span>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">41. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân vị Vô Vi Tử viết: Khả ngôn bất khả hành, bất nhược vật ngôn. Khả hành bất khả ngôn, bất nhuợc vật hành. Phát ngôn tất lự kỳ sở chung, lập hành tất kê kỳ sở tế. Ư thị tiên triết, cẩn ư ngôn, trạch ư hành. Phát ngôn phi cẩu hiển kỳ lý, tương khải học giả chi vị ngộ, lập hành phi độc thiện kỳ thân, tương huấn học giả chi vị thành. Sở dĩ phát ngôn hữu loại, lập hành hữu lễ, toại năng ngôn bất tập họa, hành bất chiêu nhục. Ngôn vi tắc Kinh, hành vi tắc Pháp. Cố viết: "Ngôn hành nãi quân tử chi xu cơ, trị thân chi đại bản", động thiên địa cảm quỷ thần, đắc bất kính đồ.</B>
<P align="right"><B>Bạch Vân Quảng Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">41. DỊCH NGHĨA: <I>Bạch Vân bảo Vô Vi Tử</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>rằng: Nếu nói mà chẳng làm, thà rằng đừng nói, làm mà chẳng nói, thà rằng đừng làm. Phát ngôn phải lo đến hậu quả của nó, làm việc phải xét đến chỗ che đậy của nó. Bởi thế, bậc tiên triết cẩn thận ở lời nói, lựa chọn ở việc làm. Phát ngôn chẳng những để hiển đạo lý, mà còn đem mở bảo cho người học chưa ngộ. Làm việc không phải chỉ để hay riêng cho mình</I><SUP><B>(2)</B></SUP>, <I>mà còn đem dạy bảo cho người học chưa thành đạt. Vậy nên, phát ngôn có phát tắc, lập hành có lễ nghĩa, nên mỗi khi nói ra chẳng gặp vạ, mỗi khi làm chẳng bị nhục. Ðã nói ra thời là Kinh, làm việc thời là Pháp. Cho nên nói rằng: "Nói và làm là then chốt của người quân tử, là gốc lớn của việc sửa mình", động đến trời đất, cảm đến quỷ thần, thật đáng kính vậy".</I>
<P align="right"><B>Bạch Vân Quảng Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Vô Vi Tử</B>: <I>Tên là Dương Kiệt, tên chữ là Thứ Công, làm quan Lễ Bộ Ngoại Lang, biệt hiệu là Vô vi Tử, pháp tự của Thiên Y Hoài thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Hay riêng cho mình</B>: <I>Dịch ở chữ độc thiện kỳ thân. Thầy Mạnh Tử nói: "Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ". Nghĩa là: Cùng thì chỉ hay riêng cho mình, đạt thời hay khắp cho trong thiên hạ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">42. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân vị Diễn Tổ viết: Thiền giả trí năng, đa kiến ư dĩ nhiên bất năng kiến ư vị nhiên. Chỉ quán định tuệ phòng ư vị nhiên chi tiền, tác chỉ nhậm diệt giác ư dĩ nhiên chi hậu. Cố tác chỉ nhậm diệt, sở dung dị kiến, chỉ quán định tuệ sở vị nan tri. Duy cổ nhân chí tại ư đạo, tuyệt niệm ư vị manh, tuy hữu chỉ quán định tuệ, tác chỉ nhậm diệt, giai vi bản mạt chi luận dã. Sở dĩ vấn: "Nhược hữu hào đoan hứa ngôn ư bản mạt giả, giai vi tự khi, thử cổ nhân kiến triệt xứ nhi bất tự khi giả.</B>
<P align="right"><B>Thực Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">42. DỊCH NGHĨA: <I>Bạch Vân bảo Diễn Tổ rằng: Trí năng của bậc thiền, phần nhiều chỉ thấy những việc đã rồi, chẳng hay thấy được việc chưa tới. Chỉ quán định tuệ</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>thì phòng ngừa ở lúc trước của sự việc chưa tới, tác chỉ nhậm diệt</I><SUP><B>()</B></SUP> <I>2thì biết được sau của sự việc đã rồi. Cho nên chỗ dùng của tác chỉ nhậm diệt thời dễ thấy, chỗ làm của chỉ quán định tuệ thì khó biết. Tuy có chỉ quán định tuệ, tác chỉ nhậm diệt, cũng đều bàn về gốc ngọn vậy. Sở dĩ nói rằng: "Nếu có một mảy may nào nói tới gốc ngọn đều là tự dối mình, đó là chỗ thấy triệt để của cổ nhân chẳng bao giờ tự dối mình vậy"</I><SUP><B>(3)</B></SUP>.
<P align="right"><B>Thực Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Chỉ quán định tuệ</B>: <I>Nương vào nguyên khí về phần thực tướng của thể tính mà nói là chỉ, về phần thường chiếu của bản giác gọi là quán, phần tam muội là định, phần bát nhã gọi là tuệ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Tác chỉ nhậm diệt</B>: <I>Ðó là chỉ về bốn căn bệnh thấy chép trong kinh Viên Giác: "Tác bệnh, nhậm bệnh, chỉ bệnh và diệt bệnh". Chỗ tu chứng của bậc thiện tri thức cần phải xa lìa căn bệnh này.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3): <I>Câu này là lời thị chúng của Ðức Sơn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">43. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân viết: Ða kiến nột tử, vị thường kinh cập viễn đại chi kế, dư khủng tùng lâm tự thử suy bạc hỹ. Dương Kỳ tiên sư mỗi ngôn: "Thượng hạ thâu an, tối vi pháp môn đại hoạn". Dư tích ẩn cử Qui Tông thư dường, phi duyệt kinh sử, bất thí sổ bách quá mục, kỳ giản biện tế cố cực hỹ. Nhiên mỗi khai quyển tất hữu tâm hoạch chi ý. Dư dĩ thị tư chi, học bất phụ nhân như thử.</B>
<P align="right"><B>Bạch Vân Thực.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">43. DỊCH NGHĨA: </I>Bạch Vân nói: Phần nhiều thấy những nột tử chưa từng trải kịp đến cái kế xa và lớn, ta sợ chốn tùng lâm sẽ suy vi từ đây. Dương Kỳ tiên sinh thường nói: "Trên dưới muốn lẫn tránh cho an nhàn, đó là mối đại họa cho chốn thiền môn". Ta trước ẩn náu ở thư viện Qui Tông, duyệt xem kinh sử, chẳng những chỉ vài trăm lần qua mắt, mà xem đến nỗi kinh sách đó cũ nát tới cùng cực. Nhưng mỗi khi mở quyển tất nhiên lại cùng thu hoạch được nhiều ý mới lạ, như vậy thì sự học chẳng phụ người là thế vậy.</I>
<P align="right"><B>Bạch Vân Thực Lục.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">44. CHỮ HÁN: <B>Bạch Vân sơ trụ Cửu Giang Thừa Thiên, thứ thiên Viên Thông, niên xỉ thậm thiểu. Thời Hối Ðường tại Bảo Phong, vị Nguyệt Công Hối viết: Tân Viên Thông đỗng triệt kiến nguyên, bất thiểm Dương Kỳ chi tự, tích hồ phát dụng thái tảo, phi tùng lâm phúc. Công Hối nhân vấn kỳ cố. Hối Ðường viết: "Công danh mỹ khí, tạo vật tích chi, bất dữ nhân toàn, nhân cố dục chi thiên tất đoạt chi". Ðãi Bạch Vân chung vu thư chi Hải Hội, phương ngũ thập lục tuế. Thức giả vị: "Hối Ðường tri cơ vi, chân triết nhân hỹ".</B>
<P align="right"><B>Trạm Ðường Ký Văn.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">44. DỊCH NGHĨA: <I>Bạch Vân lúc đầu ở chùa Thừa Thiên thuộc Cửu Giang, sau dời về chùa Viên Thông, tuổi đời còn rất nhỏ. Khi bấy giờ Hối Ðường</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>ở Bảo Phong, bảo Nguyệt Công Hối</I><SUP><B>(2)</B></SUP> <I>rằng: "Tân Viên Thông là người thấu triệt được kiến nguyên</I><SUP><B>(3)</B></SUP>. <I>thực chẳng hổ là pháp tự của Dương Kỳ, chỉ tiếc là ra ứng cơ</I><SUP><B>(4)</B></SUP> <I>quá sớm nên chẳng phải là phúc của tùng lâm". Công Hối, nhân hỏi về nguyên cớ. Hối Ðường nói: "Cái mỹ khí của công danh, tạo vật đều tiếc, chẳng để trọn vẹn cho con người, nếu người cố tâm muốn có nó, thì trời tất nhiên sẽ cướp đi". Cuối cùng Bạch Vân mất ở chùa Hải Hội, thuộc Từ Châu vừa vặn năm mươi sáu tuổi. Người thức giả thường bảo rằng: "Hối Ðường chẳng những chỉ biết về thời cơ mà còn biết tới chỗ vi tế nữa, quả là một triết nhân vậy".</I>
<P align="right"><B>Trạm Ðường Ký Văn<SUP>(5)</SUP>.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Hối Ðường</B>: <I>Hối Ðường Bảo Quốc Tổ Tâm thiền sư, người đất Nam Hùng, pháp tự của Hoàng Long Nam thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Nguyệt Công Hối</B>: <I>Hiểu Nguyệt thiền sư, pháp tự của Lang Nha Giác thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <B>Kiến nguyên</B>: <I>Kiến tính.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) <B>Ứng cơ:</B>: <I>Dịch ở chữ dụng, có nghĩa là ra tiếp hóa tế độ cho đời như trụ trì v.v...</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) <B>Trạm Ðường</B>: <I>Lặc Ðàm Văn Chuẩn thiền sư,hiệu là Trạm Ðường, pháp tự của Thực Phong Văn thiền sư.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">45. CHỮ HÁN: <B>Hối Ðường Tâm Hòa thượng tham Nguyệt Công Hối vu Bảo Phong. Công Hối đỗng minh Lăng Nghiêm thâm chỉ, hải thượng độc bộ. Hối Ðường mỗi văn, nhất cú nhất tự, như hoạch chí bảo, hỷ bất tự thắng. Nột tử trung, gián hữu thiết nghị giả. Hối Ðường văn chi viết: "Khấu bỉ sở trường, lệ ngả sở đoản, ngô hà hiềm yên". Anh Thiệu Võ viết: "Hối Ðường sư huynh đạo học vi thiền nột sở tôn, do dĩ tôn đức tự thắng vi cường, dĩ vị kiến vị văn vi quý, sử tùng lâm tự quảng nhi hiệp ư nhân giả, hữu sở căng thức, khởi tiểu bổ tai".</B>
<P align="right"><B>Linh Nguyên Thập Di.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">45. DỊCH NGHĨA: <I>Hối Ðường Tâm Hòa thượng tham thiền với Nguyệt Công Hối ở Bảo Phong. Công Hối thông hiểu triệt để tông chỉ kinh Lăng Nghiêm một cách trác tuyệt vô song. Hối Ðường mỗi khi nghe được một câu một chữ, như là người được viên ngọc báu</I><SUP><B>(1)</B></SUP> <I>vui mừng khôn xiết. Trong đám nột tử có người bàn lén việc này. Hối Công nghe biết và nói: "Học chỗ sở trường của người, sửa chỗ sở đoản của ta, ta có nề hà chi vậy". Anh Thiệu Võ</I><SUP><B>(2)</B></SUP> <I>nói: "Sự học đạo của Hối sư huynh, đã được các nột tử chốn tùng lâm lấy làm tông chỉ, thế mà còn lấy chỗ tôn đức tự thắng làm vui, lấy điều chưa thấy nghe làm xấu hổ, khiến cho tùng lâm tu rộng mà lại hẹp ở con người, để có chỗ, làm khuôn phép</I><SUP><B>(3)</B></SUP>, <I>thì đâu phải là bổ ích nhỏ vậy".</I>
<P align="right"><B>Linh Nguyên Thập Di.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">CHÚ THÍCH:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Ngọc báu</B>: <I>Thứ ngọc quý toàn bích không một tỳ vết.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Anh Thiệu Võ</B>: <I>Tức Hồng Anh thiền sư, pháp tự của Hoàng Long thiền sư, vì là người của Thiệu Võ Quán, nên gọi là Anh Thiệu Võ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <B>Khuôn phép</B>: <I>Dịch ở chữ căng thức. Căng nghĩa là kinh, thức là pháp tắc, nghĩa là mô phạm hay khuôn phép.</I></P>
</span></span>