Thiền Uyển Tập Anh

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Vạn pháp quy không



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vanphapquykhong_zps1d5bf935.jpg"].




































.[/NEN]

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Nỗi buồn Mạt pháp



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/noibuonmatphap_zps338b28d6.jpg"].


































.[/NEN]​
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Biết nói gì .....?



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/bietnoigi2_zps0ce0a9e7.jpg"].

































.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
31. THIỀN SƯ Giác Hải

Chùa Diên phúc, Hải thanh, người Hải thanh, họ Nguyễn, nhỏ thích đánh cá đi câu, thường dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh khắp sông biển. Năm 25 tuổi, Sư bỏ nghề, xuống tóc làm Tăng.
Ban đầu, Sư và Không Lộ cùng thờ Hà Trạch. Sau Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ.
Đời vua Lý Nhân Tông, Sư thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát Liên manh hầu hạ, bỗng có tiếng cắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo "Đang còn một con, để đó cho Sa Môn". Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài thơ khen:

"Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông cùng biến hóa
Một Phật, một thần tiên"
(1)

Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, Tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải thanh, vua tất đến chùa Sư trước. Một hôm, vua hỏi Sư: "Phép ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng? Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư không, cách đất vài trượng rồi lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho Sư một kiệu vai, để ra vào cửa khuyết.
Đến đời Thần Tôn, nhiều lần triệu vào, nhưng Sư từ chối, viện cớ già bệnh mà không tới.
Có vị Tăng hỏi:
"Phật và chúng sanh ai khách, ai chủ?".
Sư dùng bài kệ đáp:

"Gái tơ chỏm tóc bạc (2)
Báo ngươi tác giả biết
Nếu hỏi cảnh giới Phật
Long môn gặp điểm trán".
(3)(*)

Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng đến dạy kệ :

"Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,
Cần nhau hoa bướm biết nhau khi
Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn
Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi".
(**)

Đêm ấy có ngôi sao lớn rớt ngay góc Đông nam phương trượng của Sư. Nói xong, Sư ngồi ngay ngắn mà mất (4). Vua xuống chiếu cho thuế 30 hộ để cúng hương hỏa và cho hai người con của Sư làm quan để tỏ lòng khen thưởng (5)


________________

Chú thích :

(1)
Nam ông mộng lục tờ 9 dưới mục " Tăng đạo thần thông" chép y chuyện này. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a5-6 chép nguyên lại bài thơ.

(2)
A giác nữ đầu bạch người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. Thiền sư Đầu Tứ Đại Đồng được hỏi:"Hoà thượng sống ở đây có cảnh giới gì?", Sư đáp: "A giác nữ bạch đầu ty" (Người con gái còn để hai chỏm tóc, nhưng đầu đã bạc như tơ).

(3)
Long môn tào điểm ngạch. Tháng 3 cá chép vượt cửa Rồng để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về. Linh Thứu Nhàn thiền sư, có Hoà thượng Minh Thủy hỏi: "Thế nào là mau được pháp thân?". Sư đáp:

"Nhất thấu Long môn vân ngoại vọng
Mạc tác Hoàng hà điểm ngạch ngư".


(Một khi đã tới cửa rồng, ngó trời ngoài mây
Thì chớ làm cá sông Hoàng hà bị chấm trên trán)


Long môn là một tên đất tại tỉnh Tứ xuyên ở Trung quốc, ở đấy có cái vực rất to ăn thông với sông Dương tử. Tương truyền ở đó có cái ao tên Vũ môn. Tục truyền hễ đến tháng 7 nước to, cá chép các nơi kéo về đua nhau nhảy qua cửa đáy. Con nào nhảy qua thì hóa thành rồng. Con nào không thì bị một chấm trên trán, mà trở về. Ở nước ta, theo Kiến văn tiểu lục 6 tờ 13b4-7 thì Long môn ở tại đất những động Dĩ lý và Hào trang của Mộc châu, ở đấy "có một ngọn núi ở trung lưu sông Đà, đá lớn
lộn xộn, mỗi năm đến ngày 8 tháng 4, các bầy cá bơi ngược dòng mà lên, nhưng chỉ cá chép một hai con thì có thể được. Giao châu ký nói: có Long môn, nước sâu trăm tầm, cá lớn lên đó thì hoá thành rồng".

(4)
An nam chí nguyên 3 tờ 211 viết: "Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, có sao hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất". Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b8.

(5)
Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 36 chép nguyên truyện Giác Hải ở đây với một vài sai lầm chính tả và thiếu sót do sao lục, nhưng không quan trọng. Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục do "Đạo nhân Quán tam thanh" thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ48-51 chép chuyện Giác Hải ké với Từ Đạo Hạnh và Minh Không, song cũng không có gì đặc sắc đáng nói cả. Nó chỉ điển hình cho tình trạng thất truyền của cuộc đời Giác Hải mà thôi. Cái ghi chú của An nam chí lược 15 tờ 147 về"hai thầy Không Lộ và Giác Hải thường vào Đại quốc xin đồng về đúc chuông" hai cái để tại chùa núi Phổ lại, và việc "Giác Hải giỏi lặn dưới nước" cũng không thêm gì hơn là giúp ta xác định niên đại những truyền thuyết thần kỳ về những vị sư này.


---------------

Chú thích của hungcom :

(*)

不覺女頭白,
報你作者識。
若問佛境界,
龍門遭點額。


Bất giác nữ đầu bạch,
Báo nhĩ tác giả thức.
Nhược vấn Phật cảnh giới,
Long môn tạo điểm ngạch.



(**)

春來花蝶善知時,
花蝶應須共應期。
花蝶本來皆是幻,
莫須花蝶向心持。


Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.

 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Vấn Phật cảnh giới

[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vanphatcanhgioi_zpse8d47727.jpg"].



























.[/NEN]
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Mặc bướm, mặc hoa.



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hoabuom_zps3314aab5.jpg"].




































.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
32. THIỀN SƯ Nguyện Học (1)(?- 1181)​

Chùa Quảng báo, làng Chân hộ, Như nguyệt, người Phù cẩm, họ Nguyễn. Thuở nhỏ Sư thọ pháp với Viên Trí chùa Mật nghiêm. Khi được yếu chỉ, trước tiên Sư đến ẩn ở núi Vệ linh, chuyên tu phạm hạnh trải 12 năm. Mỗi khi nhập thiền quán đến 3 ngày mới dậy. Sư thường trì Hương hải đại bi đà la ni, nên việc cầu mưa, trị bệnh, không việc gì là không hiệu nghiệm tức khắc.
Vua Lý Anh Tôn, thấy các điều thần hiệu của Sư, ban chiếu cho vào ra cung cấm, để dùng chú chữa bệnh.
Sau Sư cáo lão về trụ trì chùa Quảng Báo. Môn đồ không dưới 100 người. Đến ngày 11 tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (1175), lúc sắp thị tịch Sư gọi chúng đến dạy:

Đạo không hình tượng
Trước mắt chẳng xa,
Xoay lại tìm kiếm,
Chớ cầu người ta
Dẫu cho cầu được
(2)
Được chẳng thật đâu,
Ví có được thật
Thật đó vật nào?
Vì thế chư Phật ba đời
Lịch đại sư tổ
Ấn thọ tâm truyền
Cũng nói thế cả.
(*)

Hãy nghe ta nói kệ:

"Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ khơi
Linh thông biến hoá, hiện thật tướng
Ngồi, nằm, đi, đứng riêng siêu nhiên
Ứng hiện hoá thân chẳng thể lượng.
Hư không đầy dẫy tuy lấp khắp,
Xem qua chẳng thấy như có bóng
Thế gian không vật hay kịp sánh
Mãi hiện ảnh thiêng sáng rạch ròi
Thời thường dạy dỗ bất tư nghị
Không được một câu đáng làm lời"
(3)(**)

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất.

__________________

Chú thích :

(1)
An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Nguyện Học là sư châu Vũ ninh. Trong lúc tập thiền định, thân như cây khô, vật và ta đều quên, cho nên chim bay đến châu, thú rừng lẩn quẩn, nhất loạt như vật nuôi trong nhà. Tùy Cao Tổ sai sứ xây tháp cúng dường". Nhưng rõ ràng đấy là văn cú lấy trong truyện Pháp Hiền. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ16b1 cũng chép Pháp Hiền như thế. Nhưng trước Pháp Hiền nó ghi lại ở tờ 16a12 những mô tả về Nguyện Học và viết: "Thiền sư Nguyện Học là Sư
châu Vũ ninh, siêng tu phạm hạnh, mỗi khi vào thiền quán, nhiều ngày mới đứng dậy, đến chết thì ngồi kiết già mà mất". Do thế, những gì viết về Nguyện Học của bản in An nam chí nguyên ngày nay là lấy từ Pháp Hiền, do việc chép nhảy hàng gây ra, bởi vì cả Học lẫn Hiền đều nói là "sư châu Vũ ninh", nên sau những chữ ấy, đúng ra người viết phải chép tiếp những mô tả về Học, nhưng đã nhảy hàng và chép thay vào, những mô tả về Pháp Hiền.

(2)
Ý lấy từ Bài kệ thị chúng của Huệ Tư :

Đạo nguyên bất viễn
Tánh hải phi diêu
Đản hướng kỷ cầu
Mạc tùng tha mích
Mích tức bất đắc
Đắc diệt phi chân.


(Nguồn đạo không ngại
Bể tính chẳng xa
Chỉ nhắm mình tìm
Chớ tìm ở người
Tìm tức không được
Được cũng chẳng chân)


(3)
Thiền sư Huệ Tư. Kệ viết:

Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Án hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc toạ thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất biến vi trần tướng
Khả tiêu vật hề vô tỷ huống
Khấu thể minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.


------------------

Chú thích của hungcom :

(*)

道無影像,
觸目非遙。
自反推求,
莫求他得。
縱饒求得,
得即不真。
設使得真,
真是何物?


Đạo vô ảnh tượng,
Xúc mục phi dao.
Tự phản suy cầu,
Mạc cầu tha đắc.
Túng nhiêu cầu đắc,
Đắc tức bất chân.
Thiết sử đắc chân,
Chân thị hà vật ?



(**)

了悟身心開慧眼,
變化靈通現實相。
行住坐臥獨卓然,
應現化身不可量。
雖然充塞遍虛空,
歡來不見如有相。
世間無物可比況,
長現靈光明朗朗。
嘗時演說不思議,
無得一言以為當。


Liễu ngộ thân tâm khai tuệ nhãn,
Biến hoá linh thông hiện thực tướng.
Hành, trụ, toạ, ngoạ độc trác nhiên,
Ứng hiện hoá thân bất khả lượng.
Tuy nhiên sung tắc biến hư không,
Hoan lai bất kiến như hữu tướng.
Thế gian vô vật khả tỷ huống,
Trường hiện linh quang minh lãng lãng.
Thường thời diễn thuyết bất tư nghị,
Vô đắc nhất ngôn dĩ vi đáng.
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Chân thị hà vật ?.



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Chanthihavat_zps606952ff.jpg"].


































.[/NEN]
.

 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Liễu ngộ thân tâm...




[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/lieungothantam_zpsfce9ebee.jpg"].































.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Thế Hệ Thứ Mười Một (9 người, 8 người khuyết lục)

33. THIỀN SƯ Quảng Nghiêm (1122 - 1190)

Chùa Tịnh quả, Trung thụy, Trương canh, người Đan phụng, họ Nguyễn. Sớm mất cha mẹ, Sư theo người cậu là Bảo Nhạc thọ nghiệp, đấy là bước đầu phát tâm. Nghe Trí Thiền (1)giáo hóa ở chùa Phúc thánh tại Điển lãnh. Sư liền đến đó tham vấn. Một hôm, nghe Thiền giảng Tuyết đậu ngữ lục (2) đến chuyện hai vị tôn túc Đạo Ngô và Tiệm Nguyên, tới nhà người chết hỏi việc sống chết (3), Sư như có điều tỏ ngộ, liền hỏi: "Một câu thoại đầu ấy, cổ nhân nói, nhân trong sống chết còn có lý không?".
Thiền đáp: "Người thể nhận được lý do đó chăng?"
Sư thưa: "Thế nào là lý không sinh tử?"
Thiền đáp: "Chỉ ở trong sinh tử, mới khéo hiểu được nó"
Sư thưa: "Thế là đã vô sinh rồi"
Thiền bảo: "Tức cũng tự mình hiểu lấy"
Nghe xong, Sư hoàn toàn được giải đáp, bèn hỏi: "Làm cách nào để quyết chắc?"
Thiền đáp: "Rõ rồi cũng giống như chưa rõ".
Sư sụp lạy, Từ đấy, tiếng tăm Sư vang khắp Thiền lâm.
Lúc đầu Sư đến chùa Khánh ân tại Siêu loại trác tích. Binh bộ Thượng thư Bằng Giáng Tường nghe danh kính mộ, thỉnh Sư về trụ trì chùa Tịnh quả. Sư nêu cao tôn chỉ, Thiền lữ đến học đều không đến suông.(4)
Một hôm có đệ tử nhập thất là Thường Chiếu, nêu kinh Kim Cang ra hỏi:
"Pháp mà Như Lai đạt được, pháp đó không thật, không hư vậy nó là pháp gì?" (5)
Sư đáp : "Người đừng có chê khéo đức Như Lai"
Chiếu đáp: "Hoà thượng đừng có chê khéo lời kinh".
Sư hỏi: "Kinh đó do ai nói?"
Chiếu đáp: "Hoà thượng đừng có đùa lâu với con, há chẳng phải Phật nói sao?"
Sư đáp: "Nếu là Phật nói, tại sao trong kinh lại bảo: "Nếu nói Như Lai có chỗ thuyết pháp, tức là huỷ báng Như Lai" (6)
Chiếu không nói được.
Có vị Tăng đến hỏi: "Pháp thân là gì?"
Sư đáp: "Pháp thân vốn không tướng".
Lại hỏi: "Thế nào là Bát nhã?"
Sư đáp: "Bát nhã không hình"
Hỏi: "Thế nào là cảnh Tịnh quả?".
Sư đáp: "Cây thông, cây thu bên bãi tha ma xưa".
Hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?"
Đáp: "Một mình ngồi bít miệng bình".
Lại thưa: "Chợt gặp tri âm, làm sao tiếp đây?"
Sư đáp: "Tuỳ duyên nhướng đôi mày".
Lại thưa: "Làm sao mới là con cháu Kiến sơ và dòng dõi Âu công?" (7)
Sư đáp: "Người Ngu nước Sở".
Vị Tăng không đáp được.

Đến ngày rằm tháng 2 năm Canh Tuất Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), lúc sắp tịch, Sư nói bài kệ sau:

"Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt
Được vô sinh sau nói vô sinh
Làm trai có chí xông trời ấy
Chớ hướng Như Lai hành xứ hành"
(8)(*)

Nói kệ xong, Sư chấp tay ngay ngắn mà mất, thọ 69 tuổi. Bằng công làm lễ hỏa táng, dựng tháp thờ.


______________

Chú thích :

(1)
Nguyên văn chép Trí Thiền. Nhưng truyện Minh Trí ở trên nói "tên trước của Trí là Thiền Trí". Vậy Trí Thiền chắc là một chép lộn của Thiền Trí hay ngược lại.

(2)
Tức Minh Giác Thiền sư ngữ lục, của Thiền sư Trùng Hiển (980-1052) núi Tuyết đậu ở Minh châu, sau khi mất, được vua Tống ban hiệu cho là Minh Giác.

(3)
Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đi điếu tang. Nguyên vỗ quan tài nói: "Sống ư? Chết ư?". Ngô nói: "Sống, không nói. Chết không nói".
Nguyên hỏi: "Vì sao không nói?". Nguyên đáp: "Không nói là không nói". Xem Bích nham lục 6

(4)
Nguyên văn: Hư vãng, Trang tử "Đức sung phù": "Lập bất giác, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thật nhi quy".

(5)
Kim cang kinh: "Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư"

(6)
Đại Châu Huệ Hải hỏi một giảng sư kinh Kim cang: "Kinh đó là ai nói?" Vị sư lên tiếng đáp: "Hoà thượng nói giỡn sao: Há không biết Phật nói sao?. Sư nói: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người đó không biết nghĩa ta nói ..."

(7)
Kiến Sơ chỉ cho Vô Ngôn Thông, thiền phái của Thông cũng gọi là phái Kiến Sơ. Âu công chỉ cho Đạo Huệ, Đạo Huệ họ Âu.

(8)
Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm:

"Trượng phu tự hữu xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai hành xứ hành".


------------------

Chú thích của hungcom :

(*)

離寂方言寂滅去,
生無生后說無生。
男兒自有衝天志,
休向如來行處行。


Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Độc bộ


[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/dochanh_zps057e5c4f.jpg"].

































.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Thế Hệ Thứ Mười Hai(Có 7 người, 6 người khuyết lục)

34. THIỀN SƯ Thường Chiếu (? - 1203)

Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức, người làng Phù ninh, họ Phạm. Triều Lý Cao Tôn, Sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng từ, Sau từ quan, đi học pháp xuất thế với Quảng Nghiêm chùa Tịnh quả, bèn chính thân được tâm ấn. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ở ngôi chùa xưa tại làng Ông mạc để giảng diễn giáo chỉ, sau đó dời sang chùa Lục tổ. Môn đồ Sư càng ngày càng đông. Có vị Tăng hỏi: "Khi vật và ta duyên nhau thì làm thế nào?" Sư đáp:

"Ta vật đều quên,
Tâm tính vô thường
Dễ sinh dễ diệt
Giây phút không ngừng,
Ai kẻ vin bắt ?

Sinh thì vật sinh
Diệt thì vật diệt
Pháp kia có được
Thường không sinh diệt"


Vị Tăng thưa: "Người học chưa hiểu, xin thầy dạy lại". Sư bảo: "Rõ tâm tình mà tu đạo, thì ít sức mà dễ thành; không rõ tâm mình mà tu đạo, thì chỉ phí công vô ích mà thôi".
Lại hỏi: "Pháp thân biến khắp mọi nơi là thế nào?"
Sư đáp: "Như một lỗ chân lông, biến khắp cả pháp giới, tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế. Nên biết không có một chút nào mà không có thân Phật. Vì cớ sao? Vì pháp thân ứng hóa thành Đẳng chánh giác, không chỗ nào không đến. Phải biết như vầy: Đức Như Lai dùng sức tự tại của tâm, không khởi, không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ pháp nói đoạn nên không đoạn, mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp đều lìa biên kiến. Lìa cõi Dục và cõi Phi Dục mà chuyển pháp luân, vì vào cõi hư không của tất cả các pháp. Không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả các pháp đều không thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì biết rõ tất cả các pháp là tính Niết bàn(1). Ấy gọi là không có tính tướng, không có tính tận, không có tính sinh, không có tính diệt, không có tính ngã, không có tính phi ngã, không có tính chúng sinh, không có tính phi chúng sinh, không có tính Bồ tát, không có tính pháp giới, không có tính hư không cũng không có tính thành Đẳng chánh giác(2)
.
Bèn nói tiếp bài kệ sau:

"Tại thế làm thân người
Tâm là tạng Như Lai
Chiếu ngời khắp mọi cõi
Vắng bóng lúc tìm tòi".
(*)

Đến ngày 24 tháng 9 năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ2 (1203), Sư tỏ ra đau tim, nhóm chúng nói kệ rằng:

" Đạo vốn không nhan sắc
Ngày ngày mới mới khoe
Ngoài đại thiên sa giới
Nơi đâu chẳng phải nhà".
(**)

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. Đệ tử Thần Nghi làm lễ trà tỳ, thu thập xá lợi, dựng tháp phụng thờ. Sư thường soạn Nam tôn tự pháp đồ 1 quyển(3) còn lưu hành ở đời.

____________

Chú thích :

(1)
Câu nói này lược dẫn một đoạn trong phẩm Như Lai Xuất hiện của kinh Hoa Nghiêm do Thật Xoa Nan Đà dịch Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật từ bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thân nhất mao khổng trung, hữu nhất thiết chúng sanh số đẳng chư Phật thân, hà dĩ cố ? Như Lai thành chánh giác thân, cứu cánh vô sanh diệt cố. Như nhất mao khổng biến pháp giới, nhất thiết mao khổng, tất diệc như thị. Đương trí vô hữu thiểu xứ hứa, không vô Phật thân, Hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác, vô xứ bất chí cố. Tùy kỳ sở năng, tùy kỳ thế lực, ư đạo tràng bồ đề thọ hạ sư tử tòa thượng, dĩ chủng chủng thân, thành đẳng chánh giác...Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng vân hà tri Như Lai ứng chánh đẳng giác chuyển pháp luân?
Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng như thị tri Như Lai dĩ tâm tự tại lực, vô khỉ vô chuyển, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, hằng vô khỉ cố, dĩ tam chủng chuyển, đoạn sở ưng đoạn, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, ly biên kiên cố, ly dục tế phi tế, nhi chuyển pháp luân. Nhập thất thiết pháp, hư không tế cố, vô hữu ngôn thuyết, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, bất khả thuyết cố, cứu cánh tịch diệt, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, Niết bàn tính cố, nhất thiết văn tự, nhất thiết ngôn ngữ, nhi chuyển pháp luân. Như Lai âm thanh, vô xứ bất chí cố, tri thanh như hưởng, nhi chuyển pháp luân..."


Chúng tôi đã dựa vào xuất xứ này sửa sai một số văn cú của câu nói để dịch cho đúng đắn và dễ hiểu hơn. Chẳng hạn câu: "Đương tri vô hữu thiểu hứa xứ, không vô Phật thân" của kinh Hoa nghiêm, cả hai bản đời Lê và đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều viết: "Đương tri vô hữu thiểu hứa tâm, không vô Phật thân". Chữ tâm của câu sau đương nhiên là một chép sai của chữ xứ câu trước, nhất là khi chữ xứ viết tắt thì tự dạng của nó rất gần với chữ tâm. Chúng tôi do thế đề ngh ịsửa chữ tâm thành chữ xứ.

(2)
Câu này cũng là lược dẫn một đoạn khác của phẩm Như Lai xuất hiện trong kinh Hoa nghiêm. Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật tử, Như Lai thành Chánh giác thời, ư kỳ nhân trung, phổ kiến nhất thiết chúng sanh nhập Niết bàn, giai đồng nhất tánh, sở vị vô tánh. Vô hà đẳng tánh?. Sở vị vô tướng tánh, vô tận tánh, vô sanh tánh, vô diệt tánh, vô ngã tánh, vô phi ngã tánh, vô chúng sanh tánh, vô phi chúng sanh tánh, vô bồ đề tánh, vô pháp giới tánh, vô hư không tánh, diệc phục vô hữu thành chánh giác tánh. (tri nhất thiết pháp, giai vô tánh cố, đắc nhất thiết trí, đại bi, tương tục cứu độ chúng sanh....."

(3)
Nam tôn tự pháp đồ, Thiền uyển tập anh dẫn nó hai lần, một ở cuối bản tiểu sử của Ma Ha và gọi bằng tên tắt Nam tôn đồ, và một ở cuối bản tiểu sử của Định Huệ. Nghệ văn chí trong Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn ghi nó là do Thường Chiếu soạn. Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Nam tôn pháp đồ 1 quyển nhưng lại thêm một chi tiết khá lôi cuốn là nó có bài tựa của Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Vinh đậu trạng nguyên năm 1463. Vậy cuốn Nam tôn tự pháp đồ do Vinh đề tựa chắc chắn là bản in do Vinh hay người thời Vinh đứng in. Thế thì, phải chăng nó đã lưu hành cho tới thời Phan Huy Chú ? Cứ vào một câu viết của Thiền uyển tập anh ở bản tiểu sử của Thần Nghi, theo đó "Chiếu...đem Chiếu đối bản của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân tôn tự pháp" (Chiếu ...toại trừu xuất Thông Biện Đối chiếu bản cập ký kỳ tôn phái điều, vi phân tôn, tự pháp đồ...), thì nội dung của Nam tôn tự pháp đồ, mặc dầu văn bản nó ngày nay hiện vẫn thất lạc, có thể nó gồm hai phần. Phần thứ nhất là ghi những điều cần biết về các tôn phái thiền tại Việt nam như nguyên lai, thế thứ truyền thừa, và rất có thể niên đại cùng một số những chi tiết khác, cần thiết cho việc thiết lập những đồ biểu về các tôn phái đó. Còn phần sau là gồm những đồ biểu. Về số tôn phái, Thường Chiếu đã đi theo Thông Biện và chỉ thừa nhận có phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và phái Vô Ngôn Thông, còn phái của Nguyễn Đại Điên cũng như của Nguyễn Bát Nhã cùng những chi phái khác, mà Thông Biện nói là "chia chẽ ra bao la không thể kể xiết", thì chắc chắn đã không được nói tới, như câu hỏi của Thần Nghi với Thường Chiếu đã xác nhận. Và cũng cứ vào câu trên thì cũng rõ ràng là, Nam tôn tự pháp đồ không phải đồng nhất hay hoàn toàn mô phỏng theo Chiếu đối lục.
Ngoài ra, cũng cần thêm là, cả Văn nghệ chí của Lê Quý Đôn lẫn Kinh tịch chí của Phan Huy Chú đều liệt kê một tác phẩm khác nữa của Thường Chiếu nhan đề Thích đạo khoa giáo 1 quyển, mà Thiền uyển tập anh không biết tới. Phải chăng, Thích đạo khoa giáo vẫn còn lưu hành vào thời Lê Quý Đôn hay Phan Huy Chú? Và đây chắc hẳn là một cuốn sách dạy học trò đi thi về những khoa Phật giáo tổ chức dưới triều Lý và Trần.

--------------------

Chú thích của hungcom :

(*)

在世為人身,
心為如來藏。
照曜且無方,
尋之更絕曠。


Tại thế vi nhân thân,
Tâm vi Như Lai tạng.
Chiếu diệu thả vô phương,
Tầm chi cánh tuyệt khoáng.



(**)

道本無顏色,
新鮮日日誇。
大千世界外,
何處不為家。


Đạo bản vô nhan sắc,
Tân tiên nhật nhật khoa.
Đại thiên thế giới ngoại,
Hà xứ bất vi gia!
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Chữ Tâm



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Chu_Tam2_zps5d7d8625.jpg"].































.[/NEN]

 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Hà xứ bất vi gia !



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/haxubatviqia_zps04aab4fe.jpg"].





























.[/NEN]
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Thế Hệ Thứ Mười Ba (Có 5 người, 3 người khuyết lục)

35. CƯ SĨ Thông Sư (1)(? - 1228)


Người Ốc hương, họ Đặng, ban đầu Sư cùng Quách Thần Nghi, chùa Thắng quang, thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy. Một hôm Sư vào thất, hỏi thỉnh ích (2)rằng: "Làm thế nào để hiểu rõ Phật pháp?"
Thường Chiếu đáp: "Phật pháp không thể hiểu được. Rõ được điều đó thì cần gì hiểu Phật pháp. Chư Phật như vậy tu hành. tất cả các pháp vốn là bất khả đắc".
Sư nhờ câu nói ấy mà lĩnh hội yếu chỉ.
Sau đó Sư trở về làng mình giảng pháp. Học giả theo học rất đông. Phàm có ai hỏi, Sư đều lấy tâm ấn mà ấn truyền.
Hoặc có kẻ hỏi: "Thế nào là người xuất thế?"
Sư đáp: "Há không thấy người xưa nói: Chỉ xem ngũ uẩn đều không, tứ đại vô ngã, chân tâm không tướng, không đi không lại, khi sinh tánh không đến, khi chết tánh không đi, tròn đầy vắng lặng, tâm cảnh như một. Chỉ cần trực nhận tức khắc như thế thì không còn bị ba đời ràng buộc. Đó là bậc xuất thế, dứt khoát không được có chút gì nhắm tới nữa".
Lại hỏi: "Nghĩa vô sinh là gì?"
Sư đáp: "Phân biệt các uẩn đây
Tính nó vốn vắng trơn
Trống không, nên không diệt
Đấy là nghĩa vô sinh".
Lại hỏi: "Thế nào là lý vô sinh?"
Sư đáp: "Điều phục được các uẩn
Mới tỏ được tánh không
Tánh không, không thể diệt
Đấy là lẽ vô sinh"
Tăng hỏi: "Phật là?"
Sư đáp: "Bản tâm là Phật, cho nên Đường Tam Tạng Huyền Trang nói:
"Chỉ rõ tâm địa
Nên gọi Tổng trì
Hiểu pháp vô sinh
Tên gọi Diệu Giác".

Sau đó, vào tháng 7 năm Mậu tý Kiến Trung thứ 4 (1228) của Hoàng triều, Sư viên tịch.


________________

Chú thích :

(1)
Tức Cư sĩ Thông Thiền trong truyện của Tức Lự. Gọi Thông Sư có lẽ để tỏ lòng tôn kính với Thiền. Và Thông Thiền đây chắc không phải là Ngô Thông Thiền môn đồ của Viên Học, bởi vì không những Thông Thiền đây họ Đặng, và Thông Thiền kia họ Ngô, mà còn vì Đặng Thông Thiền chết năm 1228, trong khi Ngô Thông Thiền thì đã lớn khôn để đưa đám thầy mình vào năm 1136. Ngô Thông Thiền do thế khó mà sống được tới năm 1228.

(2)
Thỉnh ích, theo Phần Dương "thì thiền tôn có cả thảy 18 lối hỏi, mà Phần dương thập bát vấn kê ra như sau: Thỉnh ích, trình giải, sát biện, đầu cơ, thiên tị, tâm hành, thám bạt, bất hội, kinh đảm, trí, cố, tá, thật, giả, thẩm, trưng, minh và mặc. Trong số này trừ lối cuối cùng tức lối hỏi bằng im lặng, mà Dương cho là "khó xác định vì phải biết ý người đến hỏi", những lối còn lại thì tùy theo cơ hội, và Dương cho một số thí dụ về những lối hỏi này.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
36. THIỀN SƯ THẦN NGHI (? – 1216)​

Chùa Thắng quang, làng Thị trung, Kim bài, người Ngoại trại, họ Quách, con nhà đời đời phạm hạnh. Lúc mới xuống tóc, Sư thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy. Ðến khi Chiếu sắp tịch, Sư hỏi: "Người ta tới giờ phút đây, làm sao lại chết theo lối thế tục?".

Chiếu đáp: "Ngươi nhớ được mấy người, mà không chết theo lối thế tục?".

Sư thưa: "Chỉ có Ðạt Ma, một người."

Chiếu hỏi: "Ngài có cái gì lạ lùng đâu?"

Sư thưa: "Một mình thong dong về Tây".

Chiếu hỏi: "Thế Hùng Nhĩ là cái gì?"

Sư thưa: "Là chỗ chôn quan tài của chiếc giày".

Chiếu nói: "Gạt kiếm lời là Thần Nghi"

Sư thưa: "Chớ bảo Tống Vân truyền nhảm, đến khi Trang Ðế quật mồ thì sao?"(1).

Chiếu quát lớn: "Ðó là chuyện chó sủa suông" (2)

Sư thưa: "Hoà thượng cũng theo thế tục sao?"

Chiếu nói: "Theo thế tục".

Sư thưa: "Vì sao như thế?"

Chiếu nói: "Ðể cho giống với mọi người".

Sư hốt nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy thưa: "Con đã hiểu lầm rồi".

Chiếu liền hét.

Sư lại thưa: "Con hầu Hoà thượng đã nhiều năm, mà không biết người truyền đạo này đầu tiên là ai, cúi xin chỉ dạy thứ lớp truyền pháp, khiến cho người học biết được nguồn gốc".

Chiếu khen Sư có lòng tha thiết thành khẩn, bèn đem Chiếu đối bản (3) của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân Tôn tự pháp, đưa cho Sư xem.

Sư xem xong, liền hỏi: "Sao không thấy nói đến hai phái Nguyễn Ðại Ðiên(4) và Nguyễn Bát Nhã?"

Chiếu nói: "Ắt Thông Biện có một ức ý nào đó".

Ngày 18 tháng 2 năm Bính tý Kiến Gia thứ 6 (1216), Sư đem Nam tôn tự pháp đồChiếu đối bản do Thường Chiếu trao (5) mà dặn lại đệ tử là Ẩn Không rằng: "Ngày nay tuy loạn lạc, nhưng ngươi khéo giữ gìn chúng, cẩn thận chớ để cho binh hỏa thiêu hủy, thì Tổ phong ta mới không bị suy sụp vậy".

Nói xong Sư vĩnh viễn ra đi. (Ẩn Không trước ở tại huyện Na ngạn (6) của Lạng châu, nên thời bấy giờ gọi là Na Ngạn Ðại sư).


________________

Chú thích :

(1)
Nhà Bắc Ngụy, Hiếu Trang Đế, năm Vĩnh An thứ 3 (530), Tống Vân đi sứ Tây vực, gặp Đạt Ma tại Thông lĩnh. Trang Đế nghe sự lạ bèn quật mồ, chỉ thấy còn lưu lại một chiếc dép. Do đó có thiền thoại "chích lý Tây quy". Xem Truyền đăng lục 3 tờ220a-b.

(2)
Tục ngữ thường được dùng trong thiền: nhất khuyển phê hư hoặc cũng nói là nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật. Xem truyện Diên Chiểu trong Truyền đăng lục 13 tờ303a28-29, truyện Chân giác 18 tờ 82 352b2 và truyện Thủ Trừng quyển 20 tờ 368a21-23. Nguyên xuất xứ nó là trong Thiên Hiền nạn của Tiềm phu luận: "Nhất khuyết phệ hình, bách khuyến phệ thanh..."

(3)
Về Chiếu đối bản, xem chú thích (3) truyện Biện tài.

(4)
Nguyễn Đại Điên (? - 1110) chắc chắn là sư Đại Điên đánh chết cha của Đạo Hạnh, để rồi bị Hạnh đánh chết lại trong truyện Đạo Hạnh. Xem chú thích (8) truyện Đạo Hạnh.
Còn Nguyễn Bát Nhã tức Thiền sư Bát Nhã chùa Từ quang phúc thánh ở làng Dịch vương, Trương Canh, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây ngày nay. Sư là đệ tửcủa Thảo Đường.

(5)
Nguyên văn: Sư dĩ chiếu sở thọ đồ bản. Hai chữ đồ bản trong đó, chúng tôi hiểu là Nam tôn tự pháp đồ Chiếu đối bản.

(6)
Tức huyện Lục ngạn, tỉnh Bắc giang ngày nay.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THẾ HỆ THỨ MƯỜI BỐN
(GỒM NĂM NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

37. THIỀN SƯ TỨC LỰ {Một tên là Tĩnh Lự}

Chùa Thông thánh, làng Chu Minh (1), phủ Thiên đức, người làng Chu minh. Lúc nhỏ thông minh, đọc khắp sách đời. Một hôm Sư bỏ sở học của mình đến thờ cư sĩ Thông Thiền làm thầy, học hỏi chỗ huyền yếu. Thường vào ngày giải hạ, Sư đặt bẫy bắt được con chim Mãi quỷ (2) đem vào dâng thầy.

Thiền kinh ngạc hỏi: "Ngươi đã làm thầy tu, sao lại phạm sát? Quả báo ngày sau thời sao?".

Sư thưa: "Chính khi ấy con chẳng thấy có con vật đó, cũng chẳng thấy có thân con và cũng chẳng biết có quả báo sát sinh, cho nên mới làm như thế".

Thiền biết Sư là pháp khí, bèn cho vào hàng nhập thất, mật truyền tâm ấn rằng: "Ông nếu dùng đến chỗ đất ấy, thì dù có tạo tội ngũ nghịch, thất già cũng được thành Phật"(3)

Có vị Tăng bên cạnh trộm nghe lời này, bèn kêu to lên rằng: "Khổ thay ! Dẫu có việc như thế tôi cũng không thể tin được !".

Thiền lên tiếng quát: "Ðồ giặc ! Ðồ giặc ! Ðâu để cho loài phi nhân (4) được sự tiện lợi của nó?"

Sư nghe câu nói ấy liền giác ngộ. Sau Sư trở về chùa mình, nghiên giảng tôn chỉ Thiền để dạy học trò. Cư sĩ Ứng Thuận là kẻ kế thừa Sư vậy.


________________

Chú thích :

(1)
Tức khoảng địa phận quanh làng Phù cầm, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay.

(2)
Mãi quỷ, một tên khác của chim Đỗ Quyên hay chim cuốc.

(3)
Tội ngũ nghịch tức năm tội trọng đấy là : giết cha, giết mẹ, giết A la hán, gây đỗ máu nơi thân Phật, phá hoại sự hòa hợp của chúng tăng.
Tội thất già tức bảy trọng tội không cho phép của một người được thọ giới Bồ tát, đấy là: "Gây đổ máu nơi thân Phật, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá yết ma chuyển pháp luân, giết thánh nhân". Xem Phạm võng kinh quyển hạ.

(4)
Phi nhân: tức loài quỷ thần thông không phải là loài người.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
38. THIỀN SƯ HUYỀN QUANG (? – 1221)(*)

Núi Yên Tử (1), người Kinh sư, họ Lê, tên Thuần. Là người có tiếng nói dịu dàng, dung mạo đẹp đẽ, mồ côi từ bé trải nhiều gian khổ.

Năm vừa 11 tuổi, Thường Chiếu chùa Lục tổ thấy đem về nuôi, cho làm đệ tử. Sư học vấn thông tuệ, mỗi ngày học hàng vạn chữ, không đầy 10 năm, gồm thông Tam học. Nhưng tôn chỉ môn thiền Sư chưa kịp suy cứu thì Thường Chiếu đã qui tịch. Về sau, cùng người biện luận tâm yếu tất bị bắt bẻ. Sư thường tự trách mình rằng: "Ta đây ví như con nhà giàu, lúc cha mẹ còn sống, ăn chơi lêu lổng, đến khi cha mẹ chết thì mờ mịt ngu muội, không biết châu báu trong nhà nằm ở đâu, đến nỗi cuối cùng thành nghèo thiếu".(2)

Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, tham học các hàng tri thức, gặp Trí Thông chùa Thánh quả dạy cho một câu, Sư chợt rõ tâm địa của mình, bèn ở lại đấy hầu hạ Thông. Sau vì nhân sự cúng dường của công chúa Hoa Dương(3) mà tiếng đời phỉ báng nổi lên như ong. Sư nghe được, nói: "Phàm được người thế tục ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị hủy nhục. Nay ta là như thế sao? Vả, con đường Bồ tát thì rộng lớn, còn pháp Phật thì vô lượng, kẻ sĩ giữ đạo trung dung còn nhiều khi phải buồn tẻ khóc thầm(4). Nếu như không dõng mãnh tự xét, dùng sự nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy việc tinh tấn làm khí giới, thì làm sao tránh được ma quân, phá được phiền não, cầu được giác ngộ vô thượng?"

Rồi Sư vào thẳng trong núi Uyên trừng, phủ Nghệ an, theo Thiền sư Pháp Giới thọ giới Cụ túc. Một hôm, Sư thấy thị giả dâng cơm, sẩy tay làm đổ xuống đất. Sợ quá, thị giả lấy tay hốt cơm lộn đất, Sư tự hối nói: "Ta sống vô ích cho người, chỉ nhọc cho họ cúng cấp để đến nỗi như thế kia".

Từ đấy bèn mặc áo lá, thôi nhận lương, trải hơn 10 năm. Lúc sắp tìm chỗ riêng để an dưỡng tuổi già, Sư bèn vào sâu trong núi ấy, kết cỏ làm am mà ở. Mỗi khi xuống núi kinh hành, Sư tất dùng gậy quảy một đẫy vải (5). Ðến ngồi nằm nơi nào, thú rừng trông thấy không con nào là không thuần phục.

Lý Huệ Tôn khâm phục đời sống cao thượng của Sư, đã nhiều lần lần sắp lễ đi đón. Sư lánh mặt, sai thị giả bảo lại với sứ giả rằng: "Bần đạo sinh trên đất vua, ăn lộc vua, ở trong núi thờ Phật trải đã nhiều năm, mà công đức chưa thành, rất lấy làm thẹn. Nay nếu về thăm vua thì không những không có ích gì cho việc trị an, mà lại bị chúng sinh bài báng. Huống chi bây giờ Phật pháp đang thịnh hành, Sư trưởng trong đạo đã nhóm cấm túc ở gác điện Vũ nghi (6) thì sao phải chiếu cố một ông thầy tu thô hèn gởi mình trong núi đến thế?". Từ đó, Sư quyết không xuống núi nữa.

Có vị Tăng hỏi: "Hoà thượng ở trong núi bấy lâu làm được những việc gì"

Sư đáp:

"Dùng đức Hứa Do ấy (7)

Sao biết đời mấy xuân

Vô vi sống đồng rộng

Tự tại người thênh thang"


Mùa xuân năm Tân tỵ Kiến Gia thứ 11 (1221), khi sắp thị tịch, Sư ngồi trên một tảng đá nói kệ:

Pháp huyễn đều là huyễn,

Tu huyễn cũng là huyễn,

Chẳng là hai huyễn ấy

Tức trừ được mọi huyễn".


Nói xong, Sư an nhiên mà tịch. Môn đồ Ðại Viên sắm đủ lễ an táng Sư trong hang núi.{Lại Tự ngu tập nói Sư mất, không biết ở đâu}


_________________

Chú thích :

(1)
Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Yên tử ở tại xã Nam mẫu huyện Đông triều, một tên là Tượng sơn. Long mạch chi tả bổ xuống làm tổ các núi ở Hải dương. Cứ Đồ kinh thì núi ở hương Cấn. Mạch Quyết nói: "Nó nở như sen, nó bay như diều, hai cái không đều, sinh nhiều ngỗ nghịch". Hải nhạc danh sơn đồ đời Tống cho núi này là một trong bốn đất phúc. Xưa, An Kỳ Sinh đời Hán tu luyện ở đấy. Trên núi (Tiên) có chùa gọi Hoa yên, gọi Tử tiêu, lại có khe tên Giải oan, tên Long hàm, khéo léo thanh vắng,
thật là một bồng đảo của thiên nhiên...". Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục sơn xuyên.

(2)
Chuyện "Người cùng tử trong kinh Pháp hoa", sau một thời gian trôi giạt gặp bất ngờ cha mình trong cảnh giàu sang tột bực, nhưng không nhận ra đó là cha, mà chỉ bằng lòng nhận thân phận nô dịch.

(3)
Đại Việt sử lược 3 tờ10a11: "Trinh Phù năm thứ 5 (1180) mùa đông cho thủ lãnh châu Vị long Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương". Công chúa Hoa Dương như vậy là con của Lý Anh Tôn.

(4)
Nguyên văn: Khấp kỳ. Từlấy ra ở thiên Nghi tợ của Lã th ịxuân thu 22 tờ21b12-13 về việc "Mặc tử thấy đường rẽ mà khóc". Thiên Thuyết lâm của Hoài nam tử17 tờ13b13-14 giải rõ hơn: "Dương tử thấy đường rẽ mà khóc vì nó có thể đi về nam hay bắc".

(5)
Bố Đại hòa thượng (...) thường dùng một cây gậy quảy một túi vải trên vai, viên tịch đời Lương, niên hiệu Trinh Minh thứ hai

(6)
Các sư tăng có lệ cấm túc, giới hạn trong một khu vực, trong một thời gian không ra khỏi giới hạn đó. Cuộc cấm túc này có lẽ xảy ra vào năm 1212, mà Đại Việt sử lược3 tờ 24a10 ghi lại việc Lý Huệ Tôn cùng thái hậu đến trước Phật thệ rằng: "Trẫm đem sức mọn mà trộm nối ngôi quí, đến nỗi phải gặp loạn ly, sắp đổ sự nghiệp trước, thậm chí cung giá phải dời đổi nhiều lần. Nay muốn lãnh ngôi trời để nhường cho người hiền đức" nói xong, vua lấy dao muốn cắt tóc thì (Trần) Tự Khánh đốt sạch cung điện như Đại Việt sử lược 3 tờ 26b4 ghi. Điện Vũ nghi không thấy tên trong sử.

(7)
Hứa Do là tên nhà cao sĩ đời thượng cổ Trung quốc, trước ở ẩn tại Bãi trạch, vua Nghiêu đem thiên hạ nhường cho, bèn không nhận, rồi trốn đến dưới núi Cơ ở Dĩnh thuỷ cày ruộng. Vua Nghiêu lại mời làm Cửu chân trưởng. Hứa Do không muốn nghe, bèn đến bên sông Dĩnh lấy nước rửa lỗ tai mình.

--------------------

Chú thích của hungcom :

(*)
Trùng tên với Thiền sư là :
Huyền Quang (玄光), 1254-1334, tên thật là Lý Đạo Tái (李道載), người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; là một Thiền sư Việt Nam, Tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử.

 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THẾ HỆ THỨ MƯỜI LĂM

(Có 7 người _ Ở đây chỉ có một người)



39. CƯ SĨ ỨNG VƯƠNG. (1)

Người phường Hoa thị (2), kinh đô Thăng long, họ Ðỗ, tên Văn, tính tình giản dị, khoáng đạt, không bôn chôn theo việc đời. Ban đầu làm quan dưới triều Chiêu Lăng ta (3), chức đến Trung phẩm phụng ngự. Những khi rảnh việc quan, ông dốc chí học Thiền, tay không rời sách, tìm hết ý tổ, hiểu rõ Tâm tông. Ở cửa trường của Tức Lự chùa Thông thánh, ông thấu hết bí quyết của Lự. Do đó, Sư gió thiền không nghẽn, mắt đạo càng cao.

Khi được truyền tâm ấn rồi, ông là người tai mắt của tòng lâm, như những vị quốc sư Nhất Tôn, Thiền sư Tiêu Diêu(4), Giới Minh và Giới Viên ấy vậy.


______________

Chú thích :

(1)
Truyện của Tức Lự nói: "Ứng Thuận cư sĩ, ấy là pháp tự của Lự". Nhưng không hiểu sao đây gọi Ứng Vương, hoặc chữ Vương là một khắc sai của chữ Thuận. Hoặc là cách gọi để tỏ lòng tôn kính như trường hợp Thông Sư.

(2)
Phường Hoa thị này không biết thuộc phường nào của thủ đô Hà nội.

(3)
Tức triều Trần Thái Tôn (1225-1257). Khi Thái Tôn mất vào năm 1277 và đem táng vào lăng thì lăng của Thái Tôn gọi là Chiêu lăng. Xem Toàn thư B5 tờ 36a5

(4)
Cứ Lược dẫn thiền phái đồ trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 7b thì Tiêu Diêu là đệ tử của Ứng Thuận và là thầy của Tuệ Trung. Ngoài Tiêu Diêu ra, nó còn cho biết Quốc Nhất, Đạo Sư, Quế Thâm và Chân Giám là những đệ tử khác của Thuận.
Và ngoài Tuệ Trung ra, thì Thạch Đậu Vị Hải, Đạo Tiềm, Thân Tán, Lại Tản, Thạch Lâu, Thôn Tăng, Thủ Nhân, Ngu Ông và Vô Sở là đệ tử của Tiêu Diêu.
Thượng sĩ hành trạng trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 38a8-b1 nói: "(Tuệ Trung) lúc còn để chỏm, rất chuộng cửa Không, đến học Thiền sư Tiêu Diêu ở Phước Đường, hiểu được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy". Còn bài tựa do Huệ Nguyên viết năm 1763 trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 3b1-3 nói: "Thượng tổ Tiêu Diêu... vừa đến nước ta, đã thoát thế vô y, cầm câu không lưỡi mà vào kinh thành". Như thế Diêu chưa hẳn là người nước ta. Lời tựa đây cũng nói Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm của Tiêu Diêu.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ Tiêu Diêu chắc quê quán Phước đường tại vùng Thanh từ ngày nay.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THIỀN UYỂN TẬP ANH NGỮ LỤC

QUYỂN HẠ

40. Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi (1)


Chùa Pháp vân, làng Cổ châu, Long biên (2). Người nước Nam Thiên trúc (3), dòng Bà la môn. Nhỏ đã mang chí xuất tục, đi khắp Tây trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo chưa gặp, bèn cầm gậy sang Ðông Nam.

Ðời trần Ðại Kiến thứ 6 (574), năm Giáp ngọ (4), Sư mới đến Trường an. Gặp lúc Chu Võ Ðế phá diệt Phật pháp (5), Sư muốn sang đất Nghiệp. Bấy giờ đệ tam tổ Tăng Xán vì tị nạn, nên mang y bát ở ẩn trong núi Tư không (6). Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến trước, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn ngồi yên không nói. Sư suy nghĩ giây lát, bỗng nhiên lòng như có sở đắc, liền sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi ba bước, thưa rằng: "Ðệ tử bấy lâu không gặp thuận tiện, nay nhờ Hoà thượng đại từ bi, cúi xin cho con theo hầu hạ hai bên".

Tổ dạy "Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu".

Sư từ biệt ra đi, đến Quảng châu trác tích chùa Chế chỉ. Trải qua 6 năm, Sư dịch được kinh Tượng đầu báo nghiệp sai biệt (7). Ðến tháng 3 năm Canh tý đời Chu Ðại Tường thứ 2 (580), Sư đến nước ta ở tại chùa đó, lại dịch ra kinh Tổng trì, 1 quyển.

Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền dạy rằng:

"Tâm ấn chư Phật

Tất không lừa dối

Tròn đồng thái hư

không thiếu không dư (8)

Không đi không đến

Không được không mất

Chẳng một chẳng khác

Chẳng thường chẳng đoạn

Vốn không chỗ sinh

Cũng không chỗ diệt

Cũng chẳng lìa xa

Chẳng không lìa xa

Vì đối vọng duyên.

Nên giả đặt tên

Bởi thế chư Phật ba đời

Cũng dùng như thế mà được

Tổ sư nhiều đời

Cũng dùng như thế mà được

Ta cũng dùng như thế mà được

Ngươi cũng dùng như thế mà được

Cho đến hữu tình, vô tình

Cũng dùng như thế mà được

Vả, Tổ ta Xán công

Khi ấn cho ta tâm đó

Bảo ta mau Nam hành giáo hóa

Không nên ở lại đây lâu

Từng trải nhiều nơi

Mới đến được đây

Nay gặp phải ngươi

Quả hợp huyền ký

Ngươi khéo giữ gìn

Giờ đi ta đến.


Nói xong, Sư chấp tay mà mất. Pháp Hiền làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ. Khi ấy là năm Giáp dần, đời Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).

Vua Lý Thái Tông có tặng phong và làm bài kệ truy tán:

"Mở lối sang nước Nam

Nghe ông giỏi tập Thiền

Mở bày niềm tin Phật

Xa hợp một nguồn tim

Trăng Lăng già vằng vặc

Sen Bát nhã ngát thơm

Bao giờ được gặp mặt

Cùng nhau bàn đạo huyền.
(9)


________________

Chú thích :

(1)
Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc: (vinitaruci)
(a) Lịch đại tam bảo ký 10 tờ102c3-9: "Tam tạng Pháp sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi nước Ô trượng, Bắc Thiên trúc. Tùy dịch là "Diệt hỷ" (*). Khi đã nghe đức Hoàng đế ta phục hưng Tam bảo, nên có thể không cho 500 do tuần là xa, bèn chống gậy nhắm phương đến xem sự thạnh hóa đến mức nào. Bèn được mời vào, sai dịch kinh, tức ở nơi chùa Đại hưng thiện dịch ra (kinh Tượng đầu tinh xáĐại thừa phương quảng tổng trì). Cấp sự Lý Đạo Bảo và thứ tử của Bát Nhã Lưu Chi là Đàm Bì, hai người truyền dịch. Sa môn chùa Đại hưng thiện là Thích Pháp Toản từ Trường an bút thọ thành chữ Hán, cùng chỉnh đốn so sánh văn nghĩa, Sa môn Ngạn Tôn viết tựa cho cả hai".
(b) Đại Đường nội điển lục 5 tờ275a14-19 chép như (a)
(c) Tục Cao tăng truyện2 tờ 433b2-5 chép y như(b)
(d) Khai nguyên Thích giáo lục 7 tờ 547c8-14 đại cương chép như (a) nhưng thêm chi tiết là các kinh kể trên "dịch vào năm Khai Hoàng thứ 2 (582) Nhâm dần đời Văn Đế", và thêm đính chính rằng "Trường Phòng tức (a) nói phiên dịch tại chùa Đại hưng thiện là sai".
(e) Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục 10 tờ646a8-14 chép như (đ). So sánh các tư liệu Trung Quốc vừa dẫn với nhau, ta thấy ngay một điểm bất thường nổi bật ngay, đấy là việc Khai nguyên Thích giáo lục nói Lịch đại tam bảo ký ghi Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch những kinh của ông tại chùa Đại hưng thiện là sai, nhưng không nói rõ nếu đúng thì dịch chúng ở đâu. Lịch đại tam bảo ký do Phí Trường Phòng viết xong năm 597, còn Khai nguyên Thích giáo lục do Trí Thăng soạn năm 730. Việc Thăng phản đối
Phòng về nơi dịch Kinh của Tỳ Ni Đa Lưu Chi rõ ràng muốn nói rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi không bao giờ dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện cả. Ngược lại, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch chúng ở những nơi khác. Nhưng nới khác đây là nơi đâu, Thăng không nói. Do thế, Thiền uyển tập anh không phải là không có lý, khi nói Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch kinh Tượng đầu ở Quảng Châu và kinh Tổng trì ở nước ta, dầu rằng nó có xuất hiện hậu kỳ. Từ kết luận đây, những chi tiết khác liên quan đến Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Phòng ghi lại vị tất là có thể đáng tin hoàn toàn. Sự thực, nếu Tỳ Ni Đa Lưu Chi không dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện, thì việc "mời vào khiến dịch kinh" khó có thể tin được.

(2)
Cương mục chính biên 3 tờ32a1-3 nói: "Chùa Pháp vân ở tại thôn Văn giáp huyện Thượng phúc tỉnh Hà nội. Tương truyền một hôm mây mưa sấm chớp nổi lớn, cây si ngã xuống, người trong thôn lấy gỗ nó khắc tượng dựng chùa thờ, nên có tên đó". Xác định chùa Pháp vân như vậy, các tác giả Cương mục đã sử dụng tài liệu của Bắc thành địa dư chí lục 3, theo đó "chùa Đại Pháp vân, Pháp vũ, Pháp lôi, Pháp điện ở làng Văn giáp, huyện Thượng phúc". Nhưng đương nhiên chùa Pháp vân nói tới đây không
phải là chùa Pháp vân làng Cổ châu, Long biên, mà thực ra chùa Pháp vũ hay chùa Thành đạo hay chùa Đậu, nơi thờ Pháp vũ.
Vậy chùa Pháp vân làng Cổ châu là chùa nào?.
Làng Cổ châu, Long Biên, nay gồm đất làng Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh. Tại làng này hiện có một chùa tên Diên ứng và một cây tháp tên Hoà phong.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan viết: "Chùa Diên ứng ở xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rõ có linh tích. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp, di chỉ nay còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì lúc Sĩ Nhiếp làm Thái thú cai trị thành Luy lâu, sư Khâu Đà La ở tại núi xanh phía tây của thành. Có người con gái của Tu Định là A Man bị Sư đụng đến, mà có thai sinh một đứa bé gái. Sư đem bỏ vào trong một cây lớn ở rừng sâu. Sau gió mưa nổi lớn, cây trốc gốc, trôi nổi trong sông, trôi đến bến Luy lâu. Người ta lấy làm lạ, vớt lên bờ, sai thợ đẽo bốn pho tượng Phật, dựng chùa gọi là chùa Thiền định...tức nay chùa Diên ứng..., đặt bốn pho tượng Phật phụng thờ. Sau mỗi lần cầu mưa đều có linh ứng, người ta đặt tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi. Thập Di ký của Lý Tế
Xuyên nói người Cổ châu mỗi năm đến ngày mừng Phật đản thì hội họp tại chùa Thiền định. Trần Nghệ Tôn có ban mỹ hiệu. Sử nhà Lê chép: Năm Thái Hòa thứ 6 đời Nhân Tôn sai Lê thái úy đến Cổ châu rước Phật Pháp vân về đến chùa Báo thiên ở kinh thành để cầu mưa".
Chùa Pháp vân ở Cổ châu, Long Biên tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu tại xã Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh ngày nay.

(3)
Tức Nam Ấn. Nhưng các tư liệu Trung Quốc, đã dẫn đều nói người bắc Thiên trúc, tức bắc Ấn.

(4)
Nguyên bản viết "Nhâm ngọ" là sai, Trần Đại Kiến thứ 6 năm Giáp ngọ.

(5)
Phật tổ lịch đại thông tải 10 tờ 557a: Năm Giáp ngọ, Chu Vũ Đế, niên hiệu Kiến Đức thứ 3 (574), tháng 5, ngày 17, xuống chiếu hủy Phật.

(6)
Tổ Tăng Xán, sau khi được truyền pháp, đến ẩn cư trong núi Hoàn công, Thư châu. Gặp lúc Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, ngài lánh sang núi Tư không, huyện Thái hồ sống không nhất định một nơi nào, trải qua 10 năm...Đến Tùy Khai Hoàng 12 (592), truyền pháp cho Đạo Tín. Xem Truyền đăng lục 3.

(7)
Nghiệp báo sai biệt kinh, 1 quyển; gọi đủ là: Phật thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh, đời Tùy, Cù Đàm Pháp Trí dịch (xem ĐTK.80) Ghi chú của Trường Phòng: "Khai Hoàng năm thứ 2, tháng 2, dịch..." Bản dịch của Tỳ Ni Đa Lưu Chi phải chăng đã mất và chắc chắn nội dung không phải thuộc loại kinh này. Bởi vì học lý của Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuyên qua hai bản dịch trên, không thể nào để cho ông dịch một tác phẩm với một học lý, như nó thể hiện trong bản dịch Nghiệp báo sai biệt kinh ngày nay.

(8)
Tăng Xán, Tín tâm minh :

Viên đồng thái hư
Vô khuyết vô dư
Lương do thủ xả
Sở dĩ bất như.


(9)

Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hiệp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng già nguyệt
Phần phần bát nhã liên
Hà thời tái đắc kiến
Tương dự thoại trùng huyền.


--------------------

Chú thích của hungcom :

(*)

Diệt Hỉ :
滅喜
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên