Thiền Uyển Tập Anh

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63


DÒNG PHÁP CỦA Tỳ Ni Ða Lưu Chi CHÙA PHÁP VÂN.

THẾ HỆ THỨ NHẤT
(MỘT NGƯỜI)

41. Thiền sư PHÁP HIỀN (? – 626)

Chùa Chúng thiện, núi Thiên phúc, Tiên du, người Châu diên, họ Ðỗ. Thân cao 7 thước 3 tấc. Ban đầu, Sư đến thọ giới cụ túc với Ðại sư Quán Duyên, chùa Pháp vân. Hàng ngày cùng với Tăng chúng nghe giảng về yếu chỉ của Thiền. Khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi từ Quảng châu đến ở chùa đó, thấy Sư, nhìn kỹ vào mặt hỏi: "Ngươi họ gì?"

Sư hỏi lại: "Hoà thượng họ gì?"

Lưu Chi lại hỏi: Ngươi không có họ sao?"

Sư đáp: "Họ thì không phải không có, nhưng làm sao Hoà thượng biết?"

Tỳ Ni Ða Lưu Chi quát: "Biết để làm gì?" (1)

Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp lạy, bèn được Thiền chỉ. Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào núi ấy, tu tập thiền định, hình như cây khô, vật & ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm xiết. Nhân đó, Sư lập chùa, dạy dỗ học trò, Tăng chúng đến ở thường hơn 300. Thiền học phương Nam nhờ thế mà thịnh.

Thứ sử Lưu Phương nhà Tùy đem tâu vua Cao Tổ rằng:

"Phương này bấy lâu sùng kính Phật giáo, mà lại trọng Sư đức độ tiếng tăm".

Vua Tùy sai sứ ban cho 5 hòm xá lợi của Phật cùng điệp sắc, sai Sư dựng tháp cúng dường (2). Sư xây tháp tại chùa Pháp vân ở Luy lâu (3) và những chùa danh tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái.

{Việc này nói rõ trong truyện của Thiền sư Thông Biện} Về sau, năm Bính tuất Ðường Vũ Ðức thứ 9 (626), Sư thị tịch.


__________________

Chú thích :

(1)
Tham chiếu Truyền đăng lục về cuộc đối thoại đầu tiên giữa Đạo TínHoằng Nhẫn: "Một hôm Tín đến huyện Hoàng mai, giữa đường gặp một đứa trẻ cốt tướng kỳ vĩ, khác với trẻ thường. Sư hỏi: "Con họ gì?" Trẻ đáp: "Là họ Phật." Sư hỏi: "Ngươi không có họ sao?" Trẻ đáp: "Tánh không vậy". Sư lặng biết nó là một bậc tài giỏi của đạo, liền sai người hầu đến nhà nó gặp cha mẹ, xin cho nó xuất gia. Cha mẹ cho là có duyên xưa, nên không có chút vẻ làm khó khăn, liền cho đi làm đệ tử, có tên gọi Hoằng Nhẫn". (*)

(2)
Tục Cao tăng truyện 18 tờ 573b25-c14 trong truyện của Đàm Thiên ghi rõ là vua Tùy Cao Tổ ban xá lợi gồm cả thảy ba lần. Lần đầu cho 30 châu chỗ ở hơn ba mươi châu vào tháng 6, năm Nhân Thọ thứ nhất (601). Lần thứ hai cho 51 châu khác vào tháng giêng năm sau. Và lần thứ ba vào tháng giêng năm Nhân Thọ thứ 4 (604), ra lệnh các châu lớn xây thêm hơn một trăm bảo tháp, để nhận thêm xá lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì lần ban xá lợi thứ nhất, chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm một trong 30 chỗ xây tháp của Cao Tổ. Nhưng năm đó, cứ Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư 4 tờ23a1-8 và Tùy thư 2 tờ 10a6-7, nước ta hiện đang là một nước độc lập dưới quyền lãnh đạo của Lý Phật Tử, thì làm sao Cao Tổ có thể ban xá lợi qua được. Hơn nữa, nếu việc dẫn Pháp sư Đàm Thiên truyện ở trên của Thông Biện có thể tin được, thì hai năm sau, tức 504, khi mà chính quyền dân tộc của Lý Phật Tử đã bị Lưu Phương đánh dẹp, và khi mà Cao Tổ có những báo cáo rõ ràng về tình hình Giao châu, Cao Tổ đang còn lo cho việc Giao châu được giáo hóa theo Phật giáo. Nếu vậy, Giao châu làm gì mà được chọn làm một chỗ thanh tịnh giữa 30 mươi chỗ khác của Trung Quốc? Cho nên, chắc phải sau năm 602 khi Lưu Phương đã dụ hàng thành công Lý Sư Lợi, người con nối nghiệp của Lý Phật Tử, thì mới có chuyện ban xá lợi cho Giao châu. Việc ban năm hòm xá lợi cùng một lần do thế là một có thể, và việc Pháp Hiền chọn chùa Pháp vân, chứ không phải chùa Thiền chúng của Xá lợi cảm ứng ký làm nơi xây bảo tháp là một sự thực.

(3)
Xá lợi cảm ứng ký của Quảng hoằng minh tập 17 tờ216b10 nói xây tháp tại chùa Thiền chúng để cúng dường xá lợi ở Giao châu. Nhưng đây nói là "xây ở chùa Pháp vân của Luy lâu", thì tỏ ra đúng sự thực hơn. Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ6a5-7 thì vào năm 1034 "các nhà sư Pháp vân ở Cổ châu dâng thư nói rằng trong chùa phóng ánh sáng ra vài luồng, theo ánh sáng đó mà đào lên thì được hòm đá một hòm, trong hòm có hòm bạc, trong hòm bạc có hòm vàng, trong hòm vàng có bình lưu ly, trong bình có xá lợi". Cái hòm nói đến đến đây dĩ nhiên là cái hòm xá lợi mà Tùy Cao Tổ đã ban, bởi vì theo Xá lợi cảm ứng ký của Quảng Hoằng minh tập 17 tờ213a18-22 đã mô tả với một sai khác không quan trọng là, thay vì bình bạc, nó có bình đồng bên trong bình đá.

-----------------

Chú thích của hungcom :

(*)
"Tương truyền ngày kia Tổ Đạo Tín qua huyện Huỳnh Mai giữa đường gặp một đứa trẻ con cốt tướng kỳ tú, thần thái khác thường.

Tổ hỏi: Danh tánh là chi?

Đứa bé đáp: Có tánh, nhưng chẳng phải tánh thường.

Tổ: Là tánh gì ?

Đáp: Tánh Phật.

Tổ: Con không có tánh sao ?

Đáp: Nhưng tánh vốn là không.

Tổ liền nhận biết đó là pháp khí.


Đó là thuật chơi chữ, Tứ Tổ Đạo Tín hỏi là hỏi về danh tánh (tên họ là gì ?), còn cậu bé (Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn) đáp là đáp về tự tánh ; mượn chữ đồng âm, người trả lời đã khéo léo biến một Thế gian pháp thành Xuất thế gian pháp.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THẾ HỆ THỨ HAI (MỘT NGƯỜI)

THẾ HỆ THỨ BA (MỘT NGƯỜI)

THẾ HỆ THỨ TƯ (MỘT NGƯỜI)​


42. Thiền sư THANH BIỆN (? – 686)

Chùa Kiến dương, làng Hoa lâm, phủ Thiên đức, người Cổ giao, họ Ðỗ. Năm 12 tuổi theo Pháp Ðăng chùa Phổ Quang tu học. Khi Ðăng sắp tịch, Sư hỏi:

"Sau khi Hoà thượng đi, con sẽ nương tựa vào đâu?"

Ðăng dạy: "Con chỉ Sùng nghiệp mà thôi".

Sư hoang mang không hiểu. Pháp Ðăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim cang làm sự nghiệp.

Một hôm có Thiền khách đến viếng hỏi:

"Kinh này là mẹ của ba đời các Ðức Phật. Vậy thì nghĩa của mẹ Phật là thế nào?"

Sư đáp: "Lâu nay tôi trì tụng nhưng chưa hiểu được ý kinh".

Thiền khách hỏi: "Thầy trì kinh đã bao lâu?"

Sư đáp: "Ðã tám năm"

Thiền khách hỏi: "Thầy trì kinh đã tám năm mà ý một cuốn kinh không hiểu, thì dầu trì mãi đến trăm năm nào có ích gì?"

Sư bèn đảnh lễ, lại hỏi về chỗ tiến ích.

Người khách bảo nên đến Huệ Nghiêm ở chùa Sùng nghiệp để được giải quyết. Sư sực tỉnh nói:

"Ta nay mới biết lời nói của Pháp Ðăng, quả thật phù hợp". Bèn liền làm theo.

Vừa đến chùa, Huệ Nghiêm hỏi: "Ngươi đến đây có việc gì?"

Sư thưa: "Con trong tâm có chỗ chưa ổn".

Nghiêm hỏi: "Ngươi chưa ổn cái gì?"

Sư liền đem việc trước thuật lại. Nghiêm bèn than rằng:

"Ngươi tự quên mất rồi. Không nhớ trong kinh nói: "Ba đời các Ðức Phật cùng giáo pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của các đức Phật, đều từ kinh ấy ra".(1) Há đó chẳng phải là ý nghĩa của mẹ Phật sao?"

Sư thưa: "Phải, phải, đó là chỗ con đã mê muội vậy".

Nghiêm lại hỏi: "Kinh đó là người nào nói?"

Sư đáp: "Há không phải Như Lai nói sao?"

Nghiêm hỏi: "Trong kinh nói: Nếu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người ấy không thể hiểu nghĩa ta nói. Ngươi nên khéo suy nghĩ, nếu bảo kinh này không phải là Phật nói tức là hủy báng Phật; nếu bảo nó do Phật nói tức là hủy báng kinh. Ngươi phải làm sao? Nói mau ! Nói mau !" (2)

Sư sắp mở miệng, Nghiêm cầm cái phất trần đánh ngay vào miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn sụp xuống lạy. Sau Sư đến chùa Kiến dương, dạy dỗ đồ chúng.

Hoá duyên hoàn tất, Sư tịch vào năm Bính tuất, đời Ðường Thùy Củng thứ 2 (686).

_______________

Chú thích :

(1)
Dẫn kinh Kim cang: "Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp giai tùng thử Kinh xuất". (Tất cả các đức Phật và giáo pháp giác ngộ không gì hơn của các Đức Phật đó đều từ kinh đấy mà ra). (*)
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Phạn: Anuttara-samyak-sambodhi, nghĩa là sự giác ngộ đúng đắn không gì hơn.

(2)
Đại Châu Huệ hỏi một vị tăng giảng kinh Kim cang: "Kinh đó là do ai nói?. Tăng lên tiếng nói: "Thiền sư sắp đùa rồi đấy. Há không biết là Phật nói sao?". Sư đáp: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp là hủy báng Phật, người đó không hiểu ý nghĩa những điều do ta nói.(**) Nếu bảo Kinh đó không phải là do Phật nói tức là hủy báng Kinh. Xin Đại đức trả lời xem". Vị Tăng không trả lời được.

-----------------

Chú thích của hungcom :

(*)

一 切 諸 佛 及 諸 佛 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 法 皆 從 此 經 出。

Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la Tam miệu Tam Bồ-Đề pháp giai tùng thử Kinh xuất 。

Tất cả chư Phật cùng pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều phát xuất từ Kinh này 。



(**)

若 人 言 如 來 有 所 說 法 即 為 謗 佛。 不 能 解 我 所 說 故。

Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố.

Nếu có người nói Như Lai có thuyết pháp tức là chê bai Phật, chẳng hiểu được lời của Ta.





 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THẾ HỆ THỨ NĂM (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

THẾ HỆ THỨ SÁU (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

THẾ HỆ THỨ BẢY (MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)

THẾ HỆ THỨ TÁM (BA NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


43.Thiền sư ÐỊNH KHÔNG (? – 808)

Chùa Thiền chúng (1), làng Dịch bảng, phủ Thiên Ðức. Người Cổ pháp (2), họ Nguyễn, mấy đời là vọng tộc. Sư là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc, người trong làng tôn thờ, đều gọi là trưởng lão.

Về già, Sư đến Pháp hội của Nam dương ở Long tuyền nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó Sư phát tâm theo Phật.

Trong khoảng Ðường Trinh Nguyên (785-804), Sư lập chùa Quỳnh lâm ở làng mình. Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy sông mới dừng. Sư giải thích rằng: Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ (*), chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp (**), chữ thổ chỉ chỗ ta ở, chỉ đất đai làng này. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ pháp {Tên cũ là Diên Uẩn}. Sư lại làm bài tụng rằng:

"Ðất bày pháp khí

Một món đồ ròng

Ðể Phật pháp được hưng long

Ðặt tên làng là Cổ pháp".
(***)

Sư lại nói:

Hiện ra pháp khí

Mười hai chuông đồng

Họ Lý làm vua

Ba phẩm thành công".
(****)

Sư lại nói:

"Mười cái xuống nước đất

Cổ pháp đấy tên làng

Gà sau tháng chuột ở (3)

Chính lúc Tam bảo hưng".
(*****)

Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng:

"Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta.{Sau Cao Biền của nhà Ðường đến trấn yếm. Quả đúng} Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Ðinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy".

Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu tý Ðường Nguyên Hòa thứ 3 (808) (4). Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục tổ (5) và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn dấu đi.


______________

Chú thích :

(1)
Cảm ứng xá lợi ký
do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 có ghi chùa Thiền chúng như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao châu. Thiền uyển tập anh nói dựng tháp nơi chùa Pháp vân, có lẽ hợp lý hơn. Làng Dịch bảng nay là làng Ðình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Ở làng này nay còn có chùa nào tên Thiền chúng hay không, chúng tôi hiện chưa biết.

(2)
Cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 nói: "Cổ pháp, tên châu, đời Ðinh về trước là châu Cổ lãm, đời Lê đổi Cổ pháp , đời Lý thăng làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm huyện Ðông ngạn. Ðời Hậu Lê nhân theo. Nay là huyện Ðông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Nhưng truyện đây nói Ðịnh Không "đổi tên làng mình thành Cổ pháp rồi chua thêm "tên cũ là Diên uẩn". Như vậy, Cổ pháp nguyên là tên một làng từ thời Ðịnh Không, sau đó tới thời Lê mới trở thành tên châu. Thực tế, ta không hiểu tại sao nếu Không đã đổi Diên uẩn thành Cổ pháp thì tại sao cho đến thời Lý Công Uẩn vẫn còn có tên Diên Uẩn. Viết về việc sét đánh thành sấm báo hiệu sự lên ngôi của Uẩn, Toàn thư B1 tờ 31a7-8 nói: "Nguyên trước cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp bị sét đánh", trong khi đó Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a9 chép: "Trong làng vua ở có cây bông gạo bị sét đánh". Rõ ràng làng của Lý Công Uẩn ở có tên Diên uẩn, và đây là vào thời Lý. Thế sao, ở đấy truyện bảo Không đổi tên Diên uẩn, thành Cổ pháp?. Dầu sao đi nữa Diên Uẩn cũng là Cổ pháp, và Cổ pháp là làng Ðình bảng hay làng Dịch bảng sau này.

Cương mục chính biên 2 tờ 7b2, nhân chú về chùa làng Cổ pháp, nói "chùa Cổ pháp (******) ở tại xã Ðình bảng, huyện Ðông ngạn, tỉnh Bắc ninh". Làng Cổ pháp của Ðịnh Không do đó là làng Ðình bảng, huyện Từ sơn hiện nay.

Trong cả bản in đời Lê lẫn đời Nguyễn chỉ ghi "Ðịnh Không cổ nhân", nhưng chúng tôi ở đây đã thêm chữ pháp thành "người Cổ pháp", bởi vì truyện Ðịnh Không đây rõ ràng nói Không người Cổ pháp.

(3)
Nguyên văn: Kê cư loan nguyệt hậu. "Loan nguyệt" nghi là một viết sai của chữ thử nguyệt, mà sau này La Quý dùng trong một câu tương tự: "Thố kê thử nguyệt nội", để nói tới việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 11, tức tháng con chuột, tức thử nguyệt của năm con gà, tức năm Kỷ dậu Cảnh Thụy thứ 2 (1009). Chúng tôi dựa vào cách hiểu đây và dịch là "tháng chuột". Chữ loan và chữ thử, tự dạng chúng khá giống nhau.

(4)
Nguyên văn: Ðường Nguyên Hòa tam niên bính tý. Nhưng Ðường Nguyên Hoà năm thứ 3, cứ Cựu Ðường thư thì phải là năm Mậu tý, chứ không phải Bính tý. Chữ Bính chắc chắn là một viết lộn của chữ Mậu.

(5)
Chùa Lục tổ đây tức cũng ở làng Dịch bảng.

----------------

Chú thích của hungcom :


(*)
Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ :


(**)
chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp :


(***)

Điạ trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng
Trí phật pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp.


(****)
Pháp lại xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý thị hưng vương
Tam phẩm thành công.


(*****)

Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ Pháp danh hương hiệu
Kê cư thử nguyệt hậu
Chính thị hưng tam bảo.


(******)


Hình ảnh chùa Cổ Pháp :

tranVD_lyconguan600.gif


Chùa Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn
nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THẾ HỆ THỨ CHÍN (BA NGƯỜI, ÐỀU KHUYẾT LỤC)

THẾ HỆ THỨ MƯỜI
(BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


44. TRƯỞNG LÃO LA QUÝ

Chùa Song lâm, làng Phù ninh, Phủ Thiên đức, người An chân, họ Ðinh. Thuở nhỏ vân du các phương, khắp hỏi các bậc thiền. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của Thông Thiện ở chùa Thiền chúng nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.

Khi Thiền sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Xưa thầy ta là Ðịnh Công, căn dặn ta rằng: con khéo giữ pháp của ta, gặp người họ Ðinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay đi vậy".

Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào tất là phù sấm. Sư có lần ở chùa Lục tổ, đúc tượng Lục tổ bằng vàng, sau sợ trộm cướp nên đem chôn ở cửa chùa và dặn: "Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối thì dấu".

Khi sắp tịch, Sư dạy đệ tử là Thiền Ông rằng: "Xưa kia, Cao Biền (1) xây thành bên sông Tô lịch, biết đất Cổ pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Ðiềm(2) và những ao Phù chẩn(3) v.v…đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa ở chùa Châu minh (4) ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ dứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng Chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy".

Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi.

Lại kể rằng, vào năm Bính thân đời Ðường Thanh Thái thứ 3 (936). Sư trồng cây bông gạo, thường có làm bài thơ kệ rằng:

"Ðại sơn đầu rồng ngững

Ðuôi cù ẩn Châu minh

Thập bát tử định thành(*)

Bông gạo hiện long hình

Thỏ gà trong tháng chuột

Nhất định thấy trời lên"
. (5)

______________

Chú thích :

(1)
Cao Biền (? – 887) bắt đầu xây thành khoảng vào tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866). Thành đây là thành Ðại la, nằm tại địa phận thủ đô Hà nội ngày nay. Xem Ðại Việt sử lược 1 tờ 12b2 và Toàn thư B5 tờ 14b-15a. Về sông Tô lịch, xem chú thích (9) truyện Ðạo Hạnh.

(2)
Sông Ðiềm hay là Ðiềm Giang, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một tài liệu nào khác nói tới, nhưng nghi nó có thể chỉ sông Ðuống, tức sông Thiên đức cũ. Tuy nhiên, sông Thiên đức chưa từng có tên sông Ðiềm, như tài liệu hiện tại cho biết. Có thể sông Ðiềm là sông Thiên đức hay một nhánh nó chảy qua làng Vân điềm huyện Từ Sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ làng Vân điềm, hạt Ðông ngạn như Nguyễn Quán khoa 1595, Nguyễn Nghi khoa 1619…

(3)
Ao Phù chẩn chắc nằm tại làng Phù chẩn huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Bởi vì Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 có ghi một số người đậu các khoa tiến sĩ đến từ làng Phù chẩn, huyện Ðông ngạn như Trần Cô trạng nguyên khoa 1266, Nguyễn Thì Phùng tiến sĩ khoa 1508, Nguyễn Niệm và Nguyễn Hiên khoa 1588, Nguyễn Xuân Chỉ khoa 1637, Nguyễn Ðình Bảng khoa 1670 v.v… Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Từ miếu, có ghi miếu vua Lê Uy Mục ở xã Phù chẩn, huyện Ðông ngạn.

Những ao khác đào tại vùng xung quanh Phù chẩn này, ngày nay ta không biết và chắc không bao giờ ta biết, vì truyện nói "La Quý khuyên Khúc Lãm lấp chúng lại như xưa".

(4)
Cây bông gạo chùa Châu minh này chắc là cây bông gạo làng Diên uẩn, nơi đã bị sét đánh thành bài sấm tuyên truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, mà Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a-b và Toàn thư B1 tờ 31a-32 đã chép lại…Xem chú thích (8) truyện Vạn Hạnh.

(5)
Nguyên văn:

"Ðại sơn long đầu khỉ

Cù vĩ ẩn châu minh

Thập bát tử định thiền

Miên thọ hiện long hình

Thổ kê thử nguyệt nội

Ðịnh kiên nhật xuất thanh".


Ðây là một bài thơ tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Và nhà Lý quả ra đời vào tháng 10 năm Ðinh dậu Cảnh Thụy thứ hai (1009). Bài này do thế có thể sáng tác trước lúc Lý Công Uẩn lên ngôi không bao xa.

------------------

Chú thích của hungcom :

(*)
Chữ THẬP , chữ BÁT , chữ TỬ ghép lại thành chữ LÝ (ám chỉ Lý Công Uẫn 李公蘊 )

Đây là cách nói ẫn ngữ, dùng phép chiết tự chữ Hán.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
45.THIỀN SƯ PHÁP THUẬN (925-990)

Chùa Cổ sơn, làng Thừ, quận Ải (1). Không biết người đâu. Sư họ Ðỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.

Ðang vào lúc nhà Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư (2).

Năm Thiên Phúc thứ 7 (987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:

"Song song ngỗng một đôi

Ngửa mặt ngó ven trời".
(*)

Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:

"Lông trắng phơi dòng biếc

Sóng xanh chân hồng bơi" (**)

Giác do đó thán phục (3)

Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:

Vận nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên điện các

Xứ xứ hết đao binh"
(***)

Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển, lưu hành ở đời.


_________________

Chú thích :

(1)
Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có ghi một ngọn núi tên Cổ sơn, và nói "nó nằm tại phía đông huyện Tam dương, cách huyện lỵ 6 dặm". Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn núi khác tên Lộng sơn và cũng chua "tục gọi là núi Trống". Núi này cũng "ở phía đông của huyện tại xã Tam lộng, trên có miếu Long sơn thần". Cổ sơn với Lộng sơn như vậy là một. Thế thì, phải chăng chùa Cổ sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Ðó là một có thể.

Nhưng Hồng Ðức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ gọi là chợ Ải, rồi chua thêm "có núi Tượng bốn bên như rồng bao bọc không hở". Khảo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Phố thị, không thấy nói chợ nào tên chợ Ải cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16 tờ 40a1 rằng "núi Tượng ở tại xã Bất quần phía tây huyện Quảng xương, giữa đồng ruộng bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như voi phục. Trạng nguyên Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi đó". Cổ sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi Tượng này? Và Ải quận phải chăng là chợ Ải đây? Chúng tôi hiện chưa trả lời được và chỉ xin nêu ra ý kiến kêu gọi sự đóng góp của những người hiểu biết khác.

(2)
Nguyên văn: Ỷ dĩ văn hàn chi nhiệm. Số văn thư đầu triều Lê Ðại Hành do Pháp Thuận thảo ra, ngày nay đã thất lạc hết. Chỉ còn một lá thư xin cho Ðinh truyền do Giang Cự Hoàng và Vương Thiệu Tộ mang sang triều đình nhà Tống vào năm 980, mà Toàn thư B1 12a8-b2 và Tống hội yếu 197 tờ 7724a-b đã chép lại. Văn cú của hai bản chép này khác nhau, nên chúng tôi chép ra cả hai, để cho thấy một phần nào văn tài của Pháp Thuận.

Toàn thư chép: "Thần phụ mỗ huynh mỗ, câu hà quốc ân, thiêm phân môn ký, cẩn bảo phong giới, cảm hữu bối vi, hản mã lao vị thi, triêu lộ chi bi dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quản nội quân dân tướng sứ, phiên duệ kỳ diệt đẳng, cọng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân thống chi sự. Thần khẩn từ số tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tương truyền tấu trần, hựu lự khể tuy sơn dã khoáng ác chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng hoặc sinh dị biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết độ hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng, giả dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần tân trung chi tâm, cử thánh đại diên".

Tổng hội yếu chép: "Thần thế triều tưởng, tị xử x chế ư man tựu, tu chức cống ư tế lữ, thuộc tư môn chi bạc hựu, trỉ tuấn mảng cảm khể ư trợ tế, mao thổ thế cập vị dự ư thủ phiên. Thần phụ Tiên xử Liễn, câu hà quốc ân, thiêm phân khổn ký, cẩn bảo phong lược, võng cảm đải hoàng, hản mã chi lao vị thi, lộ triều chi bỉ dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quảng nội tướng lại quân dân, phương duệ kỳ diệt đẳng, cộng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân lữ chi sự, Thần khẩn từ sổ tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tỷ sỹ tấu trần, hựu lự khể tuy. Sơn thành ngoan khoáng chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng nhân nhi sinh biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết x hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng tích dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần trung tẩn chi tâm, x thưởng diên chi điển, khắc thiệu di nghiệp, nhân phủ viễn di, đồng trụ chi hư già tuyên ngự hải chi lực tượng khuyết, x hiệu hiến thâm chi thành". Những chữ x là tượng trưng cho những chữ bị thiếu trong bản chép.

(3)
Tham chiếu Toàn thư B1 tờ 18a5-8: "Thiên Phúc năm thứ 8 (987) nhà Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người lái đò, đi đón. Giác rất giỏi bàn luận văn chương. Gặp lúc có hai con nga bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:

Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng?

Ngửa mặt ngó ven trời.


Pháp sư đang lúc cầm chèo, tiếp vận theo rằng:

Lông trắng phơi dòng biếc

Sóng xanh chân hồng bơi.


Giác càng làm lạ, làm thơ gửi cho Sư rằng:

May gặp thời minh giúp việc vua

Một mình hai đợt sứ Giao châu

Ðông đô đôi biệt lòng thêm luyến

Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa

Ngựa đạp mây mù qua sóng đá

Xe rời núi biếc thả dòng đưa

Ngoài trời còn có trời soi rạng

Sóng lặng khe đầm thấy trăng thu.


Thuận đem thơ dâng vua cho triệu Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt thưa: "Bài thơ này có ý tôn bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý ấy, ban thưởng rất hậu".

Bài thơ đôi con ngỗng trên dĩ nhiên không tượng trưng gì hơn một giai thoại ngoại giao, chứng tỏ niềm tự tín và sự lớn mạnh về văn hóa của một dân tộc vừa mới lập quốc chưa đầy 90 năm. Bởi vì nó chỉ là một nhuận sắc khác tinh tế cái bài thơ Vịnh nga, mà Lạc Tân Vương làm khi mới hơn 10 tuổi và Toàn Ðường thi tập 2 quyển 79 tờ 864 chép như:

Nga nga nga

Khúc hạng hướng thiên ca

Bạch mao phù lục thủy

Hồng chưởng bát thanh ba.


------------------

Chú thích của hungcom :

(*)

鵝鵝兩鵝鵝,
仰面向天涯。


Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.



(**)

白毛鋪綠水,
紅棹擺青波。


Bạch mao phô lục thuỷ,
Hồng trạo bãi thanh ba.



(***)

國祚如藤絡,
南天裏太平。
無為居殿閣,
處處息刀兵。


Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư đạo các
Xứ xứ tức đao binh.

 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Nga nga lưỡng nga nga.



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngangaluongnganga_zpsaed03a5f.jpg"].



























.[/NEN]​
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Quốc tộ như đằng lạc

[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/quoctonhudanglac_zps49e7591d.jpg"].























.[/NEN]
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
46.THIỀN SƯ MA HA {Tên cũ là Ma Ha Ma Gia}

Chùa Quan ái, làng Ðào gia, Cổ miệt, tổ tiên là giống người Chiêm thành, sau mạo tánh họ Dương. Cha tên Bối Ðà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với chức Bối{Xưa gọi là Ðà Phan}(1). Lớn lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo mọi việc, học thông cả hai ngôn ngữ Hán và Phạn.

Năm 24 tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường vào những lúc diễn tập kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: "Sao dùng cái học bên ngoài đó(2), chắc chắn không hiểu được nghĩa lý". Sư do đó bị mù, rất tự hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt chùa Ðông lâm ngăn rằng: "Ðừng ! Ðừng !". Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.

Về sau, Sư đến chùa Cổ sơn thọ giáovới Ðỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì tụng Ðại bi tâm chú(3), trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ bèn được Bồ tát Quan Âm lấy nước sạch cành dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và lòng càng thêm thanh tịnh.

Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Ðạt vân tại Trường an, ngày ngày siêng năng tu tập, đạt được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không lường nổi.

Hoàng đế Lê Ðại Hành(4) ba lần mời Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi. Bắt đến lần thứ ba, Sư mới đáp: "Cuồng tăng ở chùa Quan ái". Vua cả giận, sai giam Sư ở chùa Vạn tuế trong Ðại nội, cho người khóa cửa canh gác. Ðến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng Tăng mà cửa vẫn khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì đi.

Sư đi về phía Nam đến Ái châu, ở trấn Sa đảng. Phong tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại chuyên nghề sát sinh.

Sư khuyên họ ăn chay, họ đều nói: " Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám trái".

Sư bảo: "Các ngươi nếu có thể bỏ ác làm lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão tăng sẽ tự chịu thế cho".

Dân làng thưa: "Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó tay. Nếu ông chữa được bệnh này, chúng tôi sẽ theo lời khuyên".

Sư bèn lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục nhưng thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.

Có hương hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: "Hoà thượng có thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời ngài dạy".

Sư bảo: "Ðã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi".

Họ Ngô mừng thưa: "Có đau thì Ngô tôi tự thay cho".

Sư nhận lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm, hơi thở hào hễn, van to: "Ông Ngô đâu chịu thay cho ta". Họ Ngô xanh mặt, chẳng biết làm gì.

Sư tự chấp tay niệm: "Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng(5), cứu con với". Giây lát, bèn mửa ra thịt thì biến thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng. Mọi người rất kinh hãi.

Sư bảo: "Thân các ngươi bị bệnh, theo ta thì lành ngay. Ðến khi ta đau bụng, các ngươi không thay thế ta được. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta chưa?"Tất cả dân làng đều bái tạ xin vâng.

Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), Ðô úy Nguyễn Quang Lỵ(6) thỉnh Sư trụ trì chùa Khai thiên ở phủ Thái bình. Ðược sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan châu. Sau không biết Sư mất ở đâu (Nam tôn đồ nói pháp tự của Nam dương, ấy là lầm).

_________________

Chú thích :

(1)
Bối thông thường là một phiên âm tiêu chuẩn của chữ Phạn Bhanna tiếng phạn và Bhanna tiếng ba lị. Xem Thập luật tụng 37 tờ 269c18-19: Phật ngôn: "Thính nhữ tác thanh bối". So sánh với Cullavagga.v. 3: Bhagavato etam attham ârocesum: anujânâmi bhikkhave sarabhannam ti. Nó thông thường cũng là một gọi tắt của chữ Bối nặc. Xem Tứ phần luật 3 tờ 587 b21-23 và Sa di tắc bộ hoà ê ngũ phần luật. Và Bối nặc đúng ra là phiên âm tiêu chuẩn của Bhannaka hay Bhãnnaka. Vậy Bối và Bối nặc là gì? Cứ những tư liệu vừa dẫn Bối hay Bhanna là một lối đọc kinh Phật giáo với những nốt nhạc, nên nó cũng thường được gọi là Thanh bối hay Svarabhanna tiếng phạn và Sarabhanna tiếng ba lị. Nó khác với lối đọc kinh theo lối ca hát với giọng dài của những người theo Vệ đà, mà Thập tụng luật cho là có tác dụng chính yếu là "làm cho mình và người khác tham trước", trong khi tác dụng của nó là làm cho người đọc và người nghe khỏi mệt mỏi và giữ được sự trong sáng và âm điệu của ngôn ngữ. Còn Bối nặc hay Bhannaka có nghĩa người đọc tụng theo nốt nhạc, có thể nói đó là người hát lễ nhạc Phật giáo. Vậy nếu Bối Ða giữ chức Bối trong triều đình nhà tiền Lê, thì Bối đây chắc hẳn là chức quan coi về lễ nhạc Phật giáo. Sau này, ta thấy Ma Ha cũng nối nghiệp cha tiếp tục hát bối ở chùa mình, thì cũng đủ rõ bối đây tượng trưng cho lễ nhạc Phật giáo. Cũng cần thêm là, sau chữ bối, Thiền uyển tập anh còn chú thêm rằng, "Xưa gọi là Ðà phan". Chữ Ðà có lẽ là một khắc sai của chữ Xà. Và "Xà phan" quả là một phiên âm khá trung thực chữ Sarabhanna tiếng ba lị hay Svarabhanna tiếng Phạn.

(2)
Tán Bối vẫn là một thứ ngoại học, một cái học bên ngoài, tối thiểu là cứ theo luật tạng. Xem Thập tụng luật 37 tờ 269c6-21.

(3)
Ðại Bi tâm chú, gọi đủ là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, Ðại bi chú v.v…Ðây là bài chú rút ra từ kinh Thiên thủ. Nó gồm cả thảy 82 câu chữ phạn do Già Phạm Ðạt Ma phiên âm trong kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni hiện nay trong ÐTK 1060 tờ 107b 25-26. Ngoài bản dịch của Già Phạm Ðạt Ma ra, mà ngày nay đã trở thành bản văn chính thức dùng trong hầu hết các chùa chiền Việt nam và Trung Quốc, nó còn có những bản dịch khác của Bất Không, Trí Thông v.v…Cứ vào sự thông dụng ngày nay, chúng tôi giả thiết nó chắc cũng thông dụng thời Lý.

(4) Hoàng đế Lê Ðại Hành, nghi là một chép sai, bởi vì trước đó đã nói là đến năm 1014 Ma Ha mới về tu tại núi Ðại vân, thì sự việc tiếp theo phải xảy ra với Lý Thái Tổ mới hợp lý. Hơn nữa, ta biết chùa Vạn tuế ở trong Ðại nội là do Lý Thái Tổ dựng vào năm 1011, như Ðại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 đã ghi. Do thế, việc giam Ma Ha "tại chùa Vạn tuế trong Ðại nội" phải xảy ra sau năm 1011 ấy. Ngoài ra, núi Ðại vân vào thời Lê Ðại Hành là nơi Lê Ðại Hành xây dựng cung điện, như đã thấy, thì làm sao Ma Ha có thể "dời về ở núi Ðại vân tại Trường an ngày ngày siêng năng tu tập" được? Từ đó, Lê Ðại Hành chắc là một chép lộn của Lý Thái Tổ.

(5)
Nam mô Phật, Phạn: namo buddhàya, nghĩa là kính lễ các Ðức Phật.

Nam mô Pháp, Phạn: namo dharmàya, nghĩa là kính lễ giáo pháp.

Nam mô Tăng, Phạn: namo sanghàya, tức kính lễ đoàn thể hòa hợp.

(6) Toàn thư B2 tờ 1363 viết: Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) lấy Nguyễn Quang Lỵ làm Thái úy. Ðây là đô úy Nguyễn Quang Lỵ, chữ đô có lẽ là một cách viết sai của chữ thái.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THẾ HỆ THỨ MƯỜI MỘT (BỐN NGƯỜI HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


47.THIỀN ÔNG ÐẠO GIẢ (902-979)


Chùa Song lâm, làng Phù ninh, phủ Thiên đức(1). Người Cổ pháp(2), họ Lữ. Nhỏ học đòi việc đời, sau theo Ðinh Trưởng Lão(3) xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào năm Kỷ mão Ðinh Thái Bình thứ 10 (979), thọ 78 tuổi.


______________

Chú thích :

(1)
Tức nay làng Phù ninh, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc.

(2)
Tức làng Ðình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay.

(3)
Ðinh trưởng lão, tức trưởng lão La Quý, bởi vì La Quý họ Ðinh.


___________________________________________________________________________________


48.THIỀN SƯ SÙNG PHẠM (1004-1087)


Chùa Pháp vân(1), làng Cổ châu, Long biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.

Lúc mới xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương thành(2). Khi đã được tâm ấn, bèn dạo khắp Thiên trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm hiểu giới, định.

Về sau, Sư ở chùa Pháp vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Ðại Hành nhiều lần thỉnh Sư vào cung(3) để thưa hỏi Thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.

Năm Ðinh mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi.

Vua Lý Nhân Tông thường có kệ truy tặng Sư:

"Sùng Phạm ở nước Nam

Lòng vắng, đỗ đạt về(4)

Tai dài hiện tướng tốt

Pháp pháp thảy ly vy.(5)


_______________

Chú thích :

(1)
Tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu làng Khươn g tự, huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Tỳ Ni Ða Lưu Chi.

(2)
Vô Ngại chùa Hương thành, đây chắc chắn không phải chùa Tĩnh cứ, núi Cửu chân ở thế kỷ thứ VIII và nhà sư Vô Ngại thế kỷ thứ IX trong Man thư của Phàn Xước. Vô ngại ở Hương thành như vậy chắc chắn thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Pháp vân.

(3)
Lê Ðại Hành nghi là một khắc sai của Lý Thái Tôn, bởi Phạm mất năm 1087 và thọ 84 tuổi thì tất không thể nào gặp Lê Ðại Hành được. Chữ Lê Ðại Hành, nếu gặp phải một bản chữ mờ thì rất dễ đọc lộn thành Lý Thái Tôn.

(4)
Bàng Uẩn tham bái Mã Tổ, hỏi: "Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn lữ?" Tổ nói: "Ðợi ngươi uống một hớp, hết trọn cả nước sông Tây, thì ta sẽ nói". Uẩn tỉnh ngộ, làm bài tụng:

Thập phương đồng tụ hội

Cá cá học vô vi

Thử thị tuyển Phật trường

Tâm không cập đệ quy.
(*)

Xem Bích nham lục 5 tờ 179c3-6

(5)
Ly vy là một từ lấy từ phẩm Ly vy thể tịnh của Bảo tạng luận và nó được định nghĩa thế này:

"Sở dĩ nói là Ly, vì bản thể chẳng phải hợp nhất với sự vật, cũng chẳng tách rời sự vật. Ví như gương sáng soi ảnh của mọi vật, nhưng gương sáng ấy không hiệp nhất với ảnh cũng không tách rời nó. Lại như hư không hiệp nhất hết thảy, nhưng không bị ô nhiễm. Năm sắc không thể làm nhớp năm âm không thể làm loạn, muôn vật không thể buộc vào, phong phú không thể làm lộn. Cho nên gọi là Ly. Sở dĩ nó là vy, vì bản thể mầu nhiệm, không hình, không sắc, không tướng, ứng dụng muôn ngõ mà không thể thấy, lắng không thể nghe, nhưng có hằng sa muôn đức, không thường, không đoạn, không rời, không tan, cho nên gọi là vy. Vì thế, hai chữ ly vy bao trùm hết yếu lý của đạo. (xem Bảo tạng luận tờ 146a7-15.)

------------------

Chú thích của hungcom :


(*)

十 方 同 聚 會

個 個 學 無 為

此 是 選 佛 場

心 空 及 第 歸
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Tâm không cập đệ quy



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tamkhongcapdequy_zps646eb9d9.jpg"].




























.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
THẾ HỆ THỨ BẢY(BẢY NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)



49.THIỀN SƯ VẠN HẠNH(?-1025)

Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức, người Cổ pháp, họ Nguyễn, gia đình đời đời thờ Phật.

Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận(1), xem thường công danh.

Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Ðịnh Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mệt mỏi.

Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa(2), lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Ðại Hành hết lòng tôn kính Sư.

Năm Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương giáp, Lãng sơn(3). Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp:

"Trong vòng 3, 7 ngày giặc phải lui". Sau quả nhiên như thế.

Ðến khi vua muốn đánh Chiêm thành, việc bàn định chưa dứt khoát(4), Sư tâu: "Xin mau cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội". Sau đánh quả nhiên thắng trận.

Thường có kẻ gian là Ðỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:

"Cây đất sinh nhau bạc với vàng(5)

Cớ sao thù địch mãi cưu mang

Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt(6)

Thật đến về sau chẳng hận lòng"
.(*)

Ngân sợ liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.

Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ, chưa lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điều tốt xấu đều xuất hiện lẫn lộn nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp, có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ "Thiên tử"(7). Sét đánh vào cây bông gạo để lại dấu chữ(8). Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng(9). Cây đa chùa Song lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ "Quốc"(10). Ấy đại khái những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua(11) rằng:

"Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi". Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:

"Tật Lê chìm bể Bắc

Hạt Lý mọc trời Nam(12)

Bốn phương gươm giáo dẹp

Tám cõi mừng bình an".
(**)

Hai vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.

Ðến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025)(13), Sư không bệnh, nói kệ bài:

"Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi thu héo hon

Tùy vận thịnh suy không hãi sợ

Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương".
(14)(***)

Rồi Sư dạy đệ tử rằng: "Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ".

Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:

"Vạn Hạnh dung ba cõi

Thật hiệp lời sấm xưa

Quê hương tên Cổ pháp

Chống gậy trấn kinh đô"
(15)

Về chuyện mộ Ðại vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bố phía mộ đều có tiếng:

Tiếng phía Đông nói:

Khánh vạn Tường nham với Quế phong

Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn

Triều tôn, Ðông liệt ba trăm thế

Sáu tuất tới đây nhắm Thiên bồng
(16) .

Tiếng phía Nam nói:

Nam hướng Phù ninh thần giữ nhà

Ðời tươi trai gái lắm người ra

Thiên đức giàu sang đầy nhà cửa

Tám phương gặp Nữ thường xuất vua
(17).

Tiếng phía Tây nói:

Trông tây xa ngắm ngó Thiên trụ

Trai gái đời cao thượng tướng thủ

Thiên đức giàu sang cùng Viễn thế

Thọ mạng quân vương chín chín đủ
(18).

Tiếng phía Bắc nói:

Chính bắc Phù cấm đối Bạch hổ

Yên vui trai gái thường không khổ

Sống lâu Thiên đức sướng đời đời

Thế thế quân vương cầu Lục tổ
(19).

Sư sai người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài kệ rằng:

Ðông có Vũ long xóm

Nam có Vũ long bờ

Tây có quán Rừng hạc

Bắc có Trấn hải hồ
(20)

Chẳng lâu sau, sư lại nói:

Chỉ trong ba tháng thôi

Thân vệ lên ngôi xã tắc

Lạc trà ấn có chữ Quốc

Mười khẩu xuống nước đất
(21)

Gặp thánh gọi Thiên đức.(****)

Sai vua cải Cổ pháp làm Thiên đức(22) ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.
(23)

______________

Chú thích :

(1)
Ba học là giới, định, tuệ của giáo dục Phật giáo. Trăm luận chỉ các tác phẩm của Bách gia chư tử trong nền giáo dục truyền thống của nước ta.

(2)
Tổng trì tam ta địa, cũng gọi đà la ni tam muội, Phạn: Dhàrani-samàdhi, một lối thiền định thực hiện bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn ngữ. Kinh Ðại phẩm bát nhã viết: "Sao gọi là đà la ni tam muội? Vì trụ trong tam muội đó thì có thể giữ hết những tam muội, nên gọi đà la ni tam muội". Luận Ðại trí độ viết: "Ðà la ni tam muội vì được sức của tam muội đó thì các đà la ni văn và trì đều tự nhiên mà được". Xem Ðại trí độ luận 40 tờ 398b24 và 401c27-28.

(3)
Ðại Việt sử lược 1 tờ 19a8-9: Thiên phúc năm thứ nhất, mùa xuân tháng ba, quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng giang". Toàn thư B1 tờ 14a1-3: "Thiên Phúc năm thứ 2 mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch Ðằng Giang".

(4)
Ðại Việt sử lược 1 tờ 19b1-3: "Thiên phúc năm thứ 2, vua sai Từ Mục v.v…đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt. Vua nổi giận, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu vua Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận, xẻo tai không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm vài trăm người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm". Toàn thư B1 tờ 16a2-6: "Thiên Phúc năm thứ 3, vua thân chinh Chiêm thành, thắng. Trước đó, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt, vua nổi giận, đóng chiến thuyền, đúc khí giới, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu Bề Mi Thuế tại trận, Chiêm thành đại bại, bắt giết sĩ tốt không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm tranm người và thầy tu Ấn độ một người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm".

(5)
Nguyên văn: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Ðọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ Ðỗ. Nguyên câu này chỉ Ðỗ Ngân. Ðỗ Ngân này là ai, không thấy sách sử nào nói tới cả.

(6)
Nguyên văn: Ðương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt. Ðọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là "ta", thu với tâm là chữ sầu. Bồ Ðề Ðạt Ma tiên đoán cho Thái thú Dương Huyền về sự mình bị đầu độc sau này với những câu:

Giang tra phần ngọc lãng

Quản cự khai kim toả

Ngũ khẩu tương cọng thành

Cửu thập vô bỉ ngã.


Xem Truyền đăng lục 6 tờ 220a.

(7)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b5-7: "Nguyên trước đó chùa Ứng thiên làng Cổ pháp sinh một con chó trắng, trên lưng mọc lông đen thành chữ "Thiên tử", đến lúc ấy vua sinh nhằm năm Giáp tuất". Toàn thư B2 tờ 1b 6-2a1: "Nguyên trước đó viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp sinh một con chó trắng có lông đen viền thành hai chữ "Thiên tử". Người biết việc nói rằng bởi đó là cái điềm của người sinh nhằm năm Tuất. Ðến lúc ấy Vua sinh nhằm năm Giáp tuất mà làm Thiên tử, nên điều ấy quả đúng". Việt sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 nói chuyện này xảy ra tại chùa Thiên tâm.

(8)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a9-b3: "Trong làng vua ở có một cây bông gạo bị sét đánh, dấu để lại thành văn rằng:

Gốc cây nhiều công

Cơn lá xanh xanh

Hòa đao mộc rụng

Thập bát tử thành

Cung chấn trời hiện

Cung đoài sao chênh

Trong sáu bảy ngày

Thiên hạ thái bình
(*****)

Vạn Hạnh bèn gọi vua bảo: "Tôi gần đây thấy sự lạ của sấm, biết nhà Lê đương mất, nha �Nguyễn đương lên. Họ Nguyễn không ai là có sự nhân từ, khoan thứ rất được lòng người như ông. Tôi tuổi 70 hơn rồi, chỉ sợ không kịp thay sự thịnh trị mà lấy làm hận".

Toàn thư , tờ 31a7-32a5: "Trước đó, cây bông gạo làng Diên uẩn, châu Cổ pháp bị sét đánh. Người trong làng thấy rõ dấu sét có văn rằng:

Gốc cây thăm thẳm

Cơn lá xanh xanh

Hoà đao mộc rụng

Thập bát tử thành

Ðông a vào đất

Cây khác tái sanh

Cung chấn trời hiện

Cung đoài sao chênh

Khoảng sáu bảy năm

Thiên hạ thái bình.
(*****)

Thầy Vạn Hạnh riêng tự mình bình rằng: "Gốc cây thăm thẳm, gốc là cái cội thì giống như vua vậy. Diểu là âm đồng với chữ yểu, nên viết chữ yểu. Một biểu thanh thanh, biểu là ngọn mà ngọn thì giống như bề tôi, còn thanh và thiên, âm chúng gần nhau, nên viết chữ thiên có nghĩa là thịnh vượng. Hòa đao mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý. Ðông a là họ Trần. Vào đất là người phương bắc vào ăn cướp. Cây khác tái sinh là họ Lê lại sinh ra. Cung chấn trời hiện, chấn chỉ phương đông, hiện là ra, trời tức là thiên tử vậy. Cung đoài sao chênh, đoài chỉ phương tây, chênh cũng như mất đi, sao thì giống như dân thường. Cả bài trên muốn nói vua yểu, tôi thịnh, Lê rụng, Lý thành, phương đông Thiên tử ra đời, phương tây thứ dân chìm mất đi, trải khoảng sáu bảy năm thiên hạ thái bình vậy". Bèn gọi Lý Công Uẩn nói rằng: "Gần đây, tôi thấy sự lạ của phù sấm, biết họ Lý tráng thịnh thì việc dấy nghiệp là một chắc chắn vậy. Nay xem thiên hạ họ Lý rất nhiều nhưng không có ai khoan từ nhân thứ, rất được lòng người mà tay nắm binh quyền như Thân vệ. Làm tôn chủ muôn dân, mà bỏ Thân vệ thì ai sẽ cáng đáng cho. Tôi nay tuổi hơn 70, mong sao cho đừng mau chết, để thấy được sự đức hóa ra sao thì thật là sự may ngàn năm một lần vậy".

Việt sử tiêu án 1 tờ 75a-76b cũng chép sự việc và bài thơ như Toàn thư nhưng rút ngắn lời bàn của Vạn Hạnh lại thành: "Gần đây, tôi xét phù sấm, thì họ Lý đang lên, mà không có ai như Thân vệ cả". Song lại thêm một lời bàn khá dài nói: "Xét một cơn sét đánh thành văn chỉ bốn chục chữ, mà trong khoảng 1100 năm, sự phế hưng của các đời, tên họ đều bao gồm gần hết. Trời có nói gì đâu. Ðó là bởi Vạn Hạnh giỏi việc xét bói, nhân sét đánh cây bông gạo, thác văn vào đó để tỏ ra thần dị, Lý Nhân Tôn tặng thơ nói:

Thật hiệp sấm trời xưa

Quê hương tên Cổ pháp

Chống gậy trấn kinh vua


Xem mấy câu bình văn trên cây ở trước, biện bạch rõ ràng không sai việc. Hạnh bình luận cả bài cho tới câu"Dị mộc tái sinh" thì sự biện luận đó rõ ràng không sai. Từ câu "Chấn cung…" trở xuống, lời văn hàm hồ, riêng có ý sâu huyền diệu, không chịu tỏ hết. Gần đây, có kẻ hiếu sự, riêng đem ý mình suy diễn, mê hoặc trí người, đến nỗi thứ gian phu dối toan làm việc phi phận, binh loạn không thôi. Cái hại của sấm cũng thật mãnh liệt thay".

(9)
Mộ Hiển Khánh đại vương tức mộ của cha Lý Công Uẩn. Khi lên ngôi, Uẩn truy phong cho cha mình là Hiển Khánh Vương. Xem Ðại Việt sử lược 2 tờ 2a1 và Toàn thư B1 tờ 34a6. Về những tiếng đọc tụng xung quanh mộ này, xem nguyên chú ở cuối truyện đây.

(10)
Chùa Song lâm đây tức là chùa Song lâm, làng Phù ninh phủ Thiên đức, nơi ở chính thức của Thiền ông, thầy của Vạn Hạnh.

(11)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b3 nói: "Tháng 11 nguyên niên (1009) vua lên ngôi…lấy anh vua Mỗ làm Vũ Uy Vương, em vua là Dực Thánh Vương". Toàn thư B1 tờ 34b5-6 viết: "…lấy Hoàng huynh làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc làm Vũ Ðạo Vương, con của Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con của Dực Thánh Vương là Phó làm Tổng quản". Cương mục chính biên 2 tờ 8a4-7 chép lại Toàn thư thấy rõ Dực Thánh Vương không biết là ai, mà con cũng được phong làm Tổng quản, nên đã chua thêm là: "Thiên nam trung nghĩa lục của Phạm Phi Hiển nói Dực Thánh Vương là con thứ của Thái Tổ". Nhưng rõ ràng theo Ðại Việt sử lược thì Dực Thánh Vương là em của Lý Công Uẩn.

Cứ vào truyện Vạn Hạnh đây thì Lý Công Uẩn còn có chú và bác, và đều được phong vương. Bằng vào những dẫn chứng trên, thì chỉ Toàn thư và những sử chép theo nó mới ghi phong hiệu của người chú của Uẩn, đây là Vũ Ðạo Vương, còn trong đây thì không thấy nói. Ðoạn sử khoảng này của nhà Lý có nhiều ám muội chưa rõ.

(12)
Tật Lê và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý.

(13)
Cả hai bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều ghi Vạn Hạnh mất vào ngày 15 tháng 5 năm Thiên Ứng thứ 9, tức năm 1002. Nhưng đây dĩ nhiên là một khắc sai, bởi vì với một cuộc đời như vừa đọc, Vạn Hạnh tất không thể chết, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm 1010 được. Do thế, một số tác giả như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII (1932) 239 và Lược truyện các tác giả Việt Nam, nhà xuất bản Sử học, Hà nội, 1962, tr. 183) đã sửa Ứng Thiên thứ 9 thành năm Thuận Thiên thứ 9 và nói Vạn Hạnh mất vào năm 1018. Song sửa như thế là chưa chính xác cho lắm, bởi vì năm mất của Vạn Hạnh các bộ sử khác ghi rất kỹ và nó nhất định không phải năm Thuận Thiên thứ 9. Trái lại, cứ Ðại Việt sử lược 2 tờ 4a7 và Toàn thư B2 tờ 10a3-4 thì "năm Thuận Thiên thứ 16 thầy Vạn Hạnh hóa thân". Như vậy, Vạn Hạnh mất năm 1025, chứ không phải năm 1018, như từ trước tới nay thường chép. Từ đó, Ứng Thiên cửu niên là một chép sai của Thuận Thiên thập lục niên. Chữ thuận bị đoán lộn thành chữ ứng, còn chữ thập lục bị đọc rút thành cửu.

(14)
Việt sử tiêu án 1 tờ 83a7-b1, nhân ghi "thầy Vạn Hạnh chết", viết: "Vạn Hạnh không bệnh mà chết. Người bây giờ gọi đó là hóa thân. Vạn Hạnh thường có thơ.

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Tùy vận thạnh suy hưu bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.


Vua thân hành đến điếu viếng, lập đàn siêu độ". (Những chữ in đậm là khác với bản ở đây).

(15)
Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a4-5 và Việt sử tiêu án 1 tờ 76b2-3 chép nguyên bài thơ. Tam tế, mà đây dịch là "ba cõi", tức chỉ cho quá khứ, hiện tại và vị lai. Xem Kiến văn tiểu lục 9 tờ 12a6-7 về chữ Tam tế. Vạn Hạnh dung tam tế, có nghĩa Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, thời hiện tại và thời vị lai.

(16)

Nguyên văn:

"Khánh vạn tường nham dự Quế Phong

Dương trường long thế dực tương tùng

Ðông liệt triều tôn thế tam bách

Lục tuất (thiếu hai chữ) đối thiên bồng".


Khánh vạn, Tường nham và Quế phong, chúng tôi nghi là ba tên đất. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Khánh duệ thuộc huyện Tiên du, quê hương của Nguyễn Ðán, tiến sĩ khoa 1580. Khánh vạn từ đó rất có thể là Khánh duệ đấy, nhưng chúng tôi chưa có bằng chứng gì đích xác. Còn Tường nham và Quế phong thì chưa thể khảo được. Ðông liệt và Triều tôn, chúng tôi cũng nghĩ là những tên đất, song chưa tìm thấy tài liệu chứng thực. Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Ðăng Thục, quê Bắc ninh, bảo tỉnh Bắc ninh hiện có làng tên Ðông liệt. Với những tên đất như thế, thì rõ ràng đây là một bài thơ nói về mạch đất của các nhà địa lý thời xưa với những từ địa lý rõ rệt như dương trường (chúng tôi nghi chữ dương, đúng ra phải đọc là ngưu) long thể. Thực thể, nếu câu thứ hai đọc "Ngưu trường long thể dực tương tùng", thì ý nghĩa địa lý của bài thơ trên khá phù hợp với quẻ tả huyệt thứ 6 trong Tả Ao chân truyền địa lý tờ 7b:

Ðiều điều phát tổ khỉ căn nguyên

Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền.

Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu

Bàn vu cục thế tợ ngưu niên

Ðương khai nội ngoại giai kỳ huyệt

Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên

Xa xa phát tổ nỗi căn nguyên

Uyển chuyển quanh co mạch khúc huyền

Hữu kiên đến trái mà rẽ phải

Nằm vào thế cục trâu lim dim

Trong ngoài nên mở đều huyệt thiệt

Núi soi sao lắm phước liên miên.


Qua bài thơ này, ta có thể thấy bài thơ trên là một thứ bói quẻ đất. Việt sử tiêu án 1 tờ 128b1, trong khi bình luận về việc nhà Lý mất ngôi,có dẫn viết: "Lại Cổ pháp địa quyết chép: Ngôi truyền tám lá, lá rụng âm sinh. Thì sự hưng vong cũng có do đất". Như thế, cái gọi là Cổ pháp địa quyết đấy phải chăng gồm những bài thơ loại thơ mộ Hiển Khánh đại vương ở truyện Vạn Hạnh đây? Phải chăng Cổ pháp địa quyết là một tác phẩm của Vạn Hạnh? Và bốn bài thơ ở mộ Hiển Khánh đại vương đây là rút ra từ nó? Chúng tôi nghĩ đấy là những có thể. Ðiều chắc chắn là bài thơ trên cùng với ba bài thơ tiếp theo là những bài địa quyết do Vạn Hạnh sáng tác.

(17)

Nguyên văn:

Chính Nam phù ninh hộ trạch thần

Vinh thế nam nữ đa xuất nhân

Thiên đức phú quý mãn ốc thành

Bát vạn hội nữ thường xuất quân.

Phù ninh như đã thấy là một tên làng. Truyện Thường Chiếu tờ 37b7 nói Chiếu "người làng Phù ninh". Rồi đến truyện của La Quý tờ 48a7 và truyện Thiền Ông tờ 51a8 thì chúng xác định rõ ràng là làng Phù ninh đấy là "làng Phù ninh, phủ Thiên đức". Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục cũng ghi một làng tên Phù ninh thuộc hạt Ðông ngạn là quê hương hay trú quán của một số người đậu trạng tiến sĩ dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Ðào Quốc Hiển khoa 1691 v.v…Ngày nay, tỉnh Bắc ninh hiện đang có một làng mang tên Phù ninh và ở đúng chính phía nam của làng Ðình bảng, tức đất Cổ pháp xưa. Vĩnh thế, chúng tôi nghi cũng là một tên làng. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một làng tên Vĩnh thế thuộc hạt Siêu loại, quê hương của Nguyễn văn Hiển tiến sĩ khoa 1502, Nguyễn Bỉnh Khuê tiến sĩ khoa 1526, Nguyễn Ðịch Khanh khoa 1532, Nguyễn Thừa Hựu khoa 1535, Nguyễn Ðình khoa1580 v.v…Vĩnh thế, nghi là Vinh thế đổi ra, nhưng chúng tôi hiện chưa có bằng chứng gì rõ rệt. Làng này rất có thể là quê hương của Ðào Cam Mộc hay một trong những khai quốc công thần của triều Lý Thế Tổ. Thiên đức trong câu thứ ba và Bát vạn trong câu thứ 4 thì cả bản in đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết là Ðại đức và Bát phương. Chúng tôi sửa Ðại đức thành Thiên đức, không những bởi vì hai bài thơ tiếp theo đến câu thứ 3 thì bắt đầu bằng chữ Thiên đức, mà còn vì sau đó vài dòng thì có câu "đổi Cổ pháp là Ðại đức", nhưng ai cũng biết rằng Lý Công Uẩn đổi Cổ pháp làm Thiên đức, chứ không phải Ðại đức. Ðại đức trong câu ấy và Ðại đức trong bài thơ trên do thế là những chép sai của Thiên đức như vậy rõ ràng là một tên đất, và nó cũng rõ ràng "phú quý mãn ốc thành", như bài thơ nói, với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn. Và chữ bát vạn, mà những bản in đời Lê và đời Nguyễn đều viết là Bát phương, chúng tôi sửa chữ phương thành chữ vạn, không những vì chữ vạn viết tắt rất dễ biến thành chữ phương, nếu người ta bất cẩn thêm trên đầu nó một chấm, mà còn vì tại huyện Siêu loại trước đây, tức huyện Thuận thành ngày nay, có núi tên Bát vạn. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Bát vạn ở phía Ðông nam huyện Tiên du hai dặm, tương truyền Cao Biền đời Ðường dựng tháp Bát vạn, để yểm nó nên có tên đó". Chúng tôi hiện chưa biết có phải Lê Thánh Tôn đi cầu tự tại núi Bát vạn này, mà gặp Ỷ Lan trên đường đi không" Nhưng với văn ý của câu thứ 4 thì đó là một có thể. Dẫ�u sao chăng nữa, chúng tôi nghĩ chữ bát vạn hợp nghĩa hơn chữ bát phương.

(18)

Nguyên văn:

Tây vọng viễn vọng khán Thiên Trụ

Dao thế nam nữ thượng tướng thủ

Thiên đức phú quý dự viễn thế

Quân vương thọ mạng cửu thập cửu.


Thiên trụ là một từ của khoa địa lý bói huyệt đất. Sự liên hệ của Thiên trụ với việc sống lâu, mà bài thơ đây nói đến, Thiên địa tạo sơn thủy phú trong Tả Ao chân truyện địa lý tờ 27a10-b1 nói:

"Càn sơn cao như Thiên trụ, thọ tỷ Thương nham

Tốn thủy tụ tợ uyên minh, lộc hữu đỉnh nãi.


(Núi càn cao như Thiên Trụ, sống lâu như núi Thương

Sông Tốn họp tợ uyên minh, lộc vua có đỉnh chung)


Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Ðăng Thục nói núi Tiên du có một tên Thiên trụ. Như thế, một mặt Thiên trụ chỉ cho sự sống lâu, và mặt khác nó lại chỉ một ngọn núi của Tiên du. Chỉ có vấn đề là, nếu Thiên trụ quả ở núi Tiên du, mà trên thực tế núi Tiên du ở về phía đông của làng Ðình bảng hiện nay, thì làm sao đứng ở Ðình bảng ngó về phía tây, ta lại thấy được núi Tiên du? Phải chăng Thiên trụ muốn chỉ một ngọn khác ở phía tây làng Ðình bảng, nơi chúng tôi giả thiết có mộ của Hiển Khánh đại vương? Chúng tôi nghĩ, Thiên trụ có thể chỉ là một gò đất hay ngọn núi ở phía tây, nhưng hiện chưa có những bằng chứng rõ rệt. Cao thế và Viễn thế trong hai câu 2 và 3 chắc chỉ những tên đất, những làng xóm, song chúng tôi chưa truy cứu được. Thượng tướng là tên ngôi sao thứ nhất trong cung Văn xương thuộc Trung cung thiên văn học cổ đại Trung Quốc. Xem chẳng hạn Sử ký 27 tờ 3a13. Nó nhằm chỉ uy vũ.

(19)
Nguyên văn:

Chính bắc Phù cầm đương bạch hổ

An lạc nam nữ thường vô khổ

Ðại đại Thiên đức trường thọ lạc

Thế thế quân vương kỳ Lục tổ.


Phù cầm là một tên làng, mà chính Thiền uyển tập anh xác nhận trong truyện Minh Trí và truyện Nguyện Học, khi nó bảo cả hai người này đều quê quán làng Phù cầm. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tân lương, cũng có ghi một bến đò tên Phù cầm trong 17 bến đò của sông Nguyệt Ðức, nằm giữa hai bến đò Phù yên và Ðấu hàn. Ðấu hàn là quê quán của Ðỗ An Vĩnh tiến sĩ 1499 và Phù yên là quê quán của Lê Doãn Chấp tiến sĩ 1505, như Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục đã ghi lại. Và cả hai làng đó đều thuộc hạt Yên phong" nghĩa là thuộc huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện đấy.

Còn chữ Bạch hổ nó có thể là tên riêng chỉ một cây cầu hay bến đò hay ngọn núi nào đấy. Nhưng nó cũng có thể là một từ thuần túy địa lý bói huyệt. Về trường hợp trước, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một địa danh Bạch hổ nào xung quanh Phù cầm, nên không thể trả lời được. Về trường hợp sau, thì trong cách bói huyệt thứ 13, Tả Ao chân truyền địa lý tờ 14b2-4 có viết:

Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên

Sơn cao huyền vũ thủy chi huyền

Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội

Thử địa vinh hoa phú quý tuyền.


Rồi nó chú tiếp thế này "Mạch bắt đầu từ cung Rồng, rồi chuyển đến cung phải lại đến cung trái mới vào huyệt. Cung rồng là án chầu phía trước. Cát bạch hổ trùng điệp, núi Huyền Vũ dốc cao, sông Minh đường nước đọng, nếu soi sáng vào trong huyệt thì con gái sinh nhiều phú quý. Ðây là một quý cách". Nếu hiểu từ "bạch hổ" theo lối đây, thì dĩ nhiên mặt đất của Phù cầm có những ngôi mộ làm sinh ra những người con gái có nhiều phú quí. Nếu vậy, phải chăng mẹ của Lý Công Uẩn là người Phù cầm? Sử không ghi rõ nên ta không biết được.

Cuối cùng, về chữ Lục tổ, đấy là đọc theo bản đời Lê, còn bản đời Nguyễn viết thành Ðại tổ. Nó hiển nhiên nhằm chỉ chùa Lục tổ, nơi Vạn Hạnh sống và dạy dỗ Lý Công Uẩn, và là nơi Uẩn trưởng thành.

(20)
Bốn câu thơ này để xác định ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương. Nhưng vị trí nó ngày nay ta chưa thể khảo được, bởi vì những tên đất đến tên ao như: Vũ long, Hạc lâm, và Trấ�n hải, ta hiện chưa phát ra vị trí của chúng. Riêng về Hạc lâm, nó có thể là chùa Hạc lâm của Pháp Thông, người đã cùng Huệ Sinh thờ Ðịnh Huệ làm thầy, như truyện Huệ Sinh tờ 57b11 đã ghi.

(21)
Nguyên văn: Thập khẩu thủy thổ khứ. Ðây là nhắc lại việc Ðịnh Không làm chùa Quỳnh lâm tại làng Ðình bảng, đào gặp 10 cái khánh, mà khi đem đi rửa chìm mất một cái xuống sông. Từ đó Không đề nghị đổi làng mình thành làng Cổ pháp. Chữ cổ là do chữ thập và khẩu ghép lại, mà hai chữ đó có nghĩa "mười cái". Chữ Pháp là do chữ thủy và chữ khứ ghép lại, và chúng có nghĩa "chìm xuống nước". Xem truyện Ðịnh Không ở trên.

(22)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3 tờ 3a3 viết: "Năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) cải Cổ pháp làm phủ Thiên đức". Việt sử tiêu án 1 tờ 79b8 và Cương mục chính biên 2 tờ 11a1 cũng chép vậy.

(23)
Quốc sử chắc chỉ Ðại Việt sử ký của Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu. Ðại Việt sử lược và Toàn thư hiện tại chỉ ghi lại trong hai ba việc, mà tác giả Thiền uyển tập anh giả thuyết Quốc sử phải ghi đủ, đấy là chuyện chó chùa Thiên ứng tâm có lông thành chữ "Thiên tử" và chuyện sét đánh thành văn thôi. Còn chuyện sâu ăn cây đa chùa Song lâm thì bây giờ không thấy cuốn sử nào ghi tới. Nó chắc đã bị các tác giả sau Lê Văn Hưu tước bỏ.

-----------------

Chú thích của hungcom :

(*)

土木相生艮畔金,
為何謀我蘊靈襟。
當時五口秋心絕,
直至未來不恨心。


Thổ mộc tương sinh cấn bạn câm (kim),
Vị hà mưu ngã uẩn linh khâm?
Đương thì ngũ khẩu thu tâm tuyệt,
Trực chí vị lai bất hận tâm.


("Kim cấn" liền đôi như "thổ mộc",
Cớ sao toan chước hại nhau ngầm?
Thoạt nghe, bụng tớ "rầu" khôn xiết,
Nhưng thực về sau chẳng bận tâm.)


Chữ NGŨ và chữ KHẨU ghép thành chữ NGÔ (Ta, tớ, tôi)
Chữ THU với chữ TÂM ghép thành chữ SẦU (buồn rầu)


(**)

蒺藜沉北水,
李子樹南天。
四方戈杆靜,
八表賀平安。


Tật lê trầm Bắc thuỷ,
Lý tử thụ Nam thiên.
Tứ phương qua can tĩnh,
Bát biểu hạ bình yên.


_ Tật lê là một loại cây có hoa vàng dùng trong Đông Y. Ở đây ám chỉ nhà Lê suy vong.
_ Lý tử là cây mận. Ở đây ám chỉ nhà Lý sẽ nối tiếp mệnh Trời lên làm vua nước Nam.


(***)

身如電影有還無,
萬木春榮秋又枯。
任運盛衰無怖畏,
盛衰如露草頭鋪。



Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.



(****)

蓋三月之內,
親衛登住社稷。
落茶印國字,
十口水土去,
遇聖號天德。


Cái tam nguyệt chi nội,
Thân vệ đăng trụ xã tắc.
Lạc trà ấn quốc tự,
Thập khẩu thuỷ thổ khứ,
Ngộ thánh hiệu Thiên Đức.


Trong vòng ba tháng nữa,
Thân vệ lên nối ngôi.
Cây đa in chữ "quốc",
Đất Cổ Pháp này thôi,
Gặp thánh hiệu Thiên Đức.



(*****)

Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình


 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Thân như điện ảnh



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Thannhudienanh_zps691c6def.jpg"].





























.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 8 2009
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
50.THIỀN SƯ ÐỊNH HUỆ

Chùa Quang hưng, làng An trinh, phủ Thiên đức, người Cảm điền, Phong châu, họ Khúc. Ban đầu cùng với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn.

Ðến khi tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh.{Cứ Nam tôn tự pháp đồ thì nói là pháp tự của Vạn Hạnh. Sợ e sai. Nay theo y bản truyện}.


___________________________________________________________________


51.THIỀN SƯ ÐẠO HẠNH (? – 1117)

Chùa Thiên phúc, núi Phật tích, họ Từ, tên Lộ, cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan đô án, thường đi học tại làng An lãng, lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ, sư là con nàng Tăng Thị vậy.

Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và nghệ sĩ phường chèo Vi Ất. Ðêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường trách Sư biếng nhác.

Một hôm, ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống, Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.

Từ đấy ông cụ không lo nữa.

Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên(1). Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu(2). Hầu nhờ pháp sư Ðại Ðiên(3) dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô lịch(4). Xác trôi đến cầu Quyết(5) là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà, suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Ðại Ðiên. Ðại Ðiên đến nơi, đọc một câu kệ: " Tăng giận không cách đêm". Ðọc xong, xác đáp lại trôi đi.

Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Ðiên đi khỏi nhà, muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: "Ðừng, đừng! Sư sợ hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Ðại Ðiên. Ði đến xứ Mọi răng vàng(6), đường xá hiểm trở, Sư bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Ðại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm Sư thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: "Ðệ tử là Tứ trấn Thiên vương(7), cảm công đức trì xứ của Sư, nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo". Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha nên mới đến bến Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến cầu Tây dương (8) dừng lại. Sư mừng nói: "Pháp ta thắng rồi". Bèn đến thẳng chỗ Ðại Ðiên. Ðiên thấy nói:

"Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?".

Sư ngửa mặt lên nhìn trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Ðại Ðiên phát bệnh chết.

Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình(9), Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:

"Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng

Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân

Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện

Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm".
(*)

Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:

"Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu

Ở trong tỏ rõ ý thiền nao

Bồ-đề đạo đó hà sa cõi

Muốn tới còn xa mấy vạn sào".
(**)

Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp vân hỏi: "Thế nào là chân tâm?".

Phạm hỏi lại: "Cái gì chẳng phải là chân tâm?".

Sư tỉnh ngộ, nói: "Làm thế nào bảo đảm?".

Phạm đáp: "Ðói ăn, khát uống".(10)

Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Từ đấy pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi, thú rừng, họp nhau đến chịu thần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không gì là không tức khắc ứng nghiệm(11).

Có vị Tăng hỏi: "Ði, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?".

Sư dạy bài kệ:

"Tạo có, mảy may có

Làm không, tất cả không ,

Có không như trăng nước,

Chớ vướng có không không".
(***)

Lại bảo:

"Trời trăng đỉnh núi cao

Người người mất hết châu

Kẻ giàu có ngựa tốt

Ði bộ chẳng cỡi câu".
(****)

Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 3 (1112), người phủ Thanh hóa dâng sớ tâu rằng: "Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không biết".

Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo thiên. Vua thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm hoàng thái tử. Quần thần hết sức can gián, cho là không được, và nói: "Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung cấm, sau mới có thể lập". Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.

Sư nghe chuyện, riêng nói rằng: "Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há nhẫn tâm, ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối chánh pháp sao!".

Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi người: "Ðầy khắp cả nước đều có lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà sợ không có đường vào".

Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng thánh, hợp quần thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: "Xin hết sức cứu bần tăng một phen, may thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn".

Hầu nhận lời. Ðến lúc hội nghị, quần thần đều nói: "Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liễu lĩnh dám làm chú giải, kết án tử hình, để tạ lòng thiên hạ".

Hầu chậm rãi thưa: "Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy. Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục Lộ, thì đừng cho y thác sinh’.

Vua xá tội(12).

Sư đến Nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư lén nhìn phu nhân. Phu nhân nổi giận, đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì. Phu nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng: "khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết".(13)

Ðến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: :Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương(14). Ðến khi thọ chung, lại làm thiên tử trên cõi trời Tam thập tam. (15). Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa".

Ðồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng:

"Thu sang không báo nhạn về đây

Cười nhạt người đời thương xót thay

Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái

Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay".
(*****)

Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.
(16) (17) (18)

_____________

Chú thích :

(1)
Truyện Từ Ðạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 28-31 chép hoàn toàn giống truyện Từ Ðạo Hạnh ở đây, nhưng sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", nó lại thêm 7 chữ "Bạch liên khoa, vị cơ phụ Vinh", trước khi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Truyện Ðạo Hạnh ở đây, sau câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng", lại bỏ trống một đoạn đúng chỗ cho 7 chữ, rồi viết tiếp "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu". Chúng tôi nghĩ rằng khoảng trống 7 chữ đây đúng là chỗ của 7 chữ hiện còn chép trong Lĩnh nam trích quái mà để bản của bản in Thiền uyển tập anh năm 1715 đã bị rách hay mọt ăn mất, nên người hiệu đính cho bản in đây đã để trống đúng 7 chỗ cho những chữ mất đó. Ðây là một ưu điểm lớn của bản in năm 1715 giữa những ưu điểm khác của nó. Bản in đời Nguyễn không để một khoảng trống nào cả, nên dù có bản của Lĩnh nam trích quái chăng nữa, ta cũng không thể nào nhận ra khoảng đấy thiếu mấy chữ. Chúng tôi do thế đề nghị thêm 7 chữ trên vào chỗ trống ở tờ 53b10 của Thiền uyển tập anh, để cho ý nghĩa của câu "hậu ứng tăng quan ngự thí trúng…" và câu "dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu" ở trước và sau khoảng trống đấy được rõ hơn. Nếu chấp nhận, hai câu ấy bây giờ đọc: "Hậu ứng tăng quan thí trúng Bạch liên khoa. Vị cơ phụ Vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu", mà ta có thể dịch thành: "Sau đó Sư ứng thi điện thí tăng quan, trúng khoa Bạch liên. Chẳng bao lâu, cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu…"

Khoa Bạch liên là khoa gì vào thời Lý, chúng tôi hiện chưa thể khảo được.

(2)
Diên thành hầu (? – 1117) là con của Lý Thánh Tôn và em của Nhân Tôn. Tính tình của vị hầu này chắc nóng nảy lắm. Ðại Việt sử lược 2 tờ 20a3 ghi lại một chứng sau: "Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 4 (1104), mùa thu tháng 9 ngày mồng một. Diên Thành Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu ở điện Thiên an". Trung Nghĩa Hầu (? – 1117) cũng là con của Thánh Tôn và chắc là em của Diên Thành, và điện Thiên an là nơi thị triều của vua. Thế mà, giữa mặt bá quan văn võ, Diên Thành đã lấy hốt đánh Trung Nghĩa.

(3)
Tức Nguyễn Ðại Ðiên, mà truyện Thần Nghi tờ 40a11 nói tới như đại biểu cho một Thiền phái thứ 4 của thời Lý. Cứ vào truyện Ðạo Hạnh ở đây, ta có thể đoán Ðại Ðiên bị Ðạo Hạnh đánh chết vào khoảng năm 1110 bởi vì cuối truyện có chua câu: "Giác Hoàng, hoặc có người nói là Ðại Ðiên ấy vậy". Mà Giác Hoàng theo Ðại Việt sử lược 2 tờ 21a4, thì vào năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 3 (1112) là đã 3 tuổi rồi. Vậy Hoàng phải sinh năm 1110. Bấy giờ, nếu bảo Giác Hoàng là Ðại Ðiên thì đương nhiên Ðiên phải chết vào năm Hoàng sinh, tức năm 1110 ấy, mới đầu thai thành Hoàng được, tối thiểu là bằng vào sự tin tưởng huyền thuật đương thời. Cho nên, việc liên hệ Ðại Ðiên với sự sinh của Giác Hoàng phải giả thiết rằng Ðiên chết vào năm Hoàng sinh.

Về nguyên quán của Ðiên, Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi một vị sư tên Nguyễn Ðạo Hạnh và nói: "Sư người huyện Tiên phong là miêu duệ của Thiền sư Thái Ðiên, bình sanh cùng sư Nguyễn Minh Không và Từ Ðạo Hạnh làm bạn, học thuật tu luyện, sau hóa thân ở xã Chiêu nhân thổ nhân bèn lập đền thờ". Thái Ðiên đây, chúng tôi nghi cũng là Ðại Ðiên, bởi vì Việt sử tiêu án 1 tờ 108b9 dẫn Ngoại truyện nói: "Cha Ðạo Hạnh là Từ Vinh vì pháp thuật bị sư Thái Ðiên đánh giết". Như vậy quê hương của Ðại Ðiên là vùng đất huyện Tiên phong, tức huyện Quảng oai, tỉnh Sơn tây bây giờ. Kiến văn tiểu lục 9 tờ 16a1 17a2 viết rất là dài về cuộc đời nhà sư Nguyễn Ðạo Hạnh đây và nói: "Ông người xã Vịnh phệ, huyện Tiên phong". Nếu vậy Ðiên là người xã Vịnh phệ.

Cuối cùng, về ngôi chùa trú trì của Ðiên, Bắc thành địa dư chí lục 1 nhân viết về chùa Yên lãng dẫn trước nói "Ðạo Hạnh có thù với Thiền sư Ðại Ðiên xã Dịch vọng". Như thế, vào thế kỷ thứ 19 người ta coi Ðiên sống ở xã Dịch vọng. Làng Dịch vọng này, Toàn thư B3 tờ 3a3-8 nói là nơi có chùa Thánh chúa. Ở đây đã có vị sư dạy Nguyễn Bông cái thuật đầu thai thành Lý Nhân Tôn. Dã sử về thần tích của Ỷ Lan nói rõ ra vị sư chùa Thánh chúa, đấy không ai khác hơn là Ðại Ðiên. Từ đó, ngôi chùa Ðại Ðiên ở chắc không chùa nào khác hơn là Thánh chúa, làng Dịch vọng, huyện Từ liêm ngày trước, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Sự việc Nguyễn Bông xảy ra vào năm 1063. Thế thì, Ðiên sống tại chùa đấy vào khoảng từ năm đó.

(4)
Bắc thành địa dư chí lục 1 viết: "Sông Tô lịch ở phía đông của thành (Hà nội) phân lưu từ sông Nhị, theo thành từ phía Bắc mà chảy qua phía tây gặp sông Hà liễu và sông Nhuệ, hai sông cùng chảy đổ vào. Sông này, mùa đông và xuân thì khô cạn, mùa thu và hạ thì thuyền đi được…Quốc sử của Ngô Sĩ Liên nói: "Sông này hễ khi có mưa lớn thì nước đầy ứ mà chảy ngược. Họ Ngô nói: "Sông Tô lịch chảy đi ra từ sông Nhị bắt đầu từ phường Hà khẩu chảy qua Tây hồ, Thụy Chương, Yên hoa và Yên quyết thì cạn thuyền đi không được, vì dân ở hai bên sông cứ để ngói đá lấp đầy, khi mưa to nước ứ lại không chảy được, nên phải chảy ngược lại thì không có gì là lạ".

(5)
An nam chí lược 1 tờ 24 viết: "Sông Tô lịch chảy quanh La thành. Sông có năm cầu đều rất đẹp". Nhưng nó không cho biết năm cầu đó. Ta ngày nay có thể truy nhận tối thiểu tên của ba cầu, đấy là cầu Tây dương, cầu Yên quyết và cầu Nhân mục. Toàn thư B10 tờ 21b 2-5 trong khi mô tả diễn tiến của chiến dịch Tốt động, Chúc động, đã viết về những hướng xuất quân của Vương Thông từ thành Ðông quan như sau: "Ngày mồng 6, Vương Thông v.v.…của nhà Minh đem lính cũ lính mới 10 vạn người phân làm ba đạo quân đánh ta. Vương Thông do ngã Khâu ôn qua cầu tây dương đến đóng ở bến Cổ sở, dựng cầu nổi cho quân đi. Phương Chính xuất quân từ cầu Yên Quyết, đóng ở cầu Sa đôi. Sơn Thọ và Mã Kỳ đi ra từ cầu Nhân mục, đóng ở cầu Thanh oai. Chúng dựng doanh trại vài chục dặm, cờ xí rợp đồng, giáp trượng sáng trời, tự bảo rằng chúng chỉ một lần đánh là bắt hết nghĩa quân".

Cầu Nhân mục, tên nôm gọi là cống Mọc, ngày nay thuộc làng Nhân chính, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông, và vết tích của nó hiện còn là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại làng đấy.

Còn cầu Yên Quyết, tên nôm nó gọi là cống Cót, ngày nay là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại địa phận làng Yên quyết huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông. Vì cầu Yên quyết có tên nôm là cống Cót, cho nên chữ Quyết kiều ở đây đúng ra phải dịch là cống Cót, nhưng vì không chắc chữ Cót phát âm như thế nào vào thời Lý, nên chúng tôi vẫn để nguyên và dịch là: "cầu Quyết". Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr.499 vì chấm câu lộn, nên đã đọc thành cầu Vu quyết. Về cầu Tây dương thì cứ trên đường hành quân của Vương Thông, nó phải là cầu Giấy, bởi vì để đi từ Ðông quan tới Cổ sở, người ta phải đi qua cầu Giấy ở sông Tô lịch, rồi qua cầu Diễn hay Phù diễn ở sông Nhuệ thì tới bến Cổ sở trên sông Ðáy thuộc làng Yên sở ngày nay. Như vậy, cầu Tây dương không gì khác hơn là cầu Thượng yên quyết, mà Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hànội, mục Tân lương, nói là "tục gọi cầu Giấy, cầu dài ba trượng, có lợp ngói ở về huyện Từ liêm".

(6)
Mọi răng vàng hay Kim xỉ man là tên một dân tộc ít người, vào thời Ðường thì đang còn ở phần đất thuộc Vương quốc Pyu, nhưng đến đời Nguyễn và cho tới nay thì phần đất ấy thuộc tỉnh Vân nam của Trung Quốc. Xem Nguyên sử 16 tờ 8a4.

Gọi là mọi răng vàng dân tộc ấy dùng vàng lá mà trang sức răng mình, "khi ăn thì lấy ra". Họ có nhiều giống, mà Tân đường thư 222 hạ tờ 15b-16a liệt ra như giống Tú cước, giống Tú diện, giống Ðiêu đề, giống Xuyên tỷ. An nam chí lược 1 tờ 19 nói: "Ðà Giang Lộ tiếp giáp với Kim xỉ". Kim xỉ đây đương nhiên là Kim xỉ man. Và nếu như vậy, thì Ðạo Hạnh vừa mới vượt khỏi biên giới nước ta thôi.

(7)
Tức Tứ Thiên Vương, đấy là Trì Quốc ở phía đông, Tăng Trưởng ở phía nam, Quảng mục ở phía tây, và Tỳ Sa Môn ở phía bắc của tầng thứ tư núi Tu di, quản thủ bọn Dạ xoa và La sát. Chúng có nhiệm vụ bảo vệ thế giới, theo vũ trụ quan thần thoại của một số trường phái Phật giáo.

(8)
Chú thích (7) trên cứ vào đường hành quân của Vương Thông do Toàn thư ghi lại, đã đồng nhất cầu Tây dương với cầu Giấy. Mà cầu Giấy theo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, mục Tân lương là tên nôm của cầu Thượng yên quyết. Làng Yên quyết thực ra có hai, đấy là làng Thượng yên quyết và Hạ yên quyết. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ hai làng đó như Ðặng Công Toản khoa 1520, Nguyễn Sằn khoa 1554, Nguyễn Dụng Ngãi khoa 1574, của làng Thượng yên quyết, Hoàng Quản Chí khoa 1393, Nguyễn Như Uyên khoa 1409, Nguyễn Khiêm Quang khoa 1523, Nguyễn Nhật Tráng khoa 1595, Nguyễn Dụng Triêm khoa 1602 v.v… của làng Hạ yên quyết. Vậy thì, cầu Quyết hay cầu Yên quyết của truyện đây là cầu Hạ yên quyết, còn cầu Tây dương hay cầu Giấy là cầu Thượng yên quyết. Bến Quyết cũng ở làng Hạ yên quyết. Xác định như thế, bây giờ nó trở thành rõ ràng là Ðại Ðiên trụ trì chùa Thánh chúa làng Dịch vọng ở sát làng Thượng yên quyết, thì khi đánh chết Từ Vinh, xác Vinh tất ném xuống sông Tô lịch từ khoảng cầu Tây dương, trôi xuôi cho đến cống Cót, nơi có nhà Diên Thành Hầu rồi dừng lại. Tới khi Ðạo Hạnh ném gậy mình từ bến Cót, nếu trôi ngược nó tất nhiên phải lên đến cầu tây dương hay cầu Thượng yên quyết, chứ không thể cầu nào khác.

Cầu Tây dương gọi là cầu Giấy tối thiểu bắt đầu từ thời Lý, bởi vì gần cầu đó có xóm chuyên chế tạo giấy, tên là xóm Chỉ tác hay xóm làm Giấy.

(9)
Thái bình đây chắc là phủ Thái bình, nơi có chùa Khai thiên do Nguyễn Quang Lỵ dựng, và Ma Ha trụ trì. Xem chú thích (10) truyện Ma Ha. Tuy nhiên, trong vùng Hưng yên, đất của phủ Thái Bình cũ, không thấy có làng nào thờ Ðạo Hạnh cả. Trái lại, theo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định mới có một số làng thờ Ðạo Hạnh thuộc huyện Nam chân như làng Chân nguyên, làng Vân chàng, làng Kinh lủng…rồi nó viết tiếp: "Hạnh thuở nhỏ ưa đi chơi đến xã Chân nguyên, dựng chùa Ðại bi, ở đấy trú trì, sau dân làng tôn làm Tổ sư. Thế thì, vùng Thái bình do Kiều Trí Huyền giáo hóa phải chăng nằm tại đất tỉnh Nam định? Ðây là một có thể. Về Kiều Trí Huyền, nay ta không biết gì hết về tông tích tôn phái của ông.

(10)
Cơ xan khát ẩm, cách ngữ của Thiền gia chỉ đạo lý thiền không ở đâu xa, mà ở ngay trong chính những công tác thường nhật nhất. Sư Nguyên Tân đến hỏi Thiền sư Ðại Châu Huệ Hải: "Hòa thượng tu đạo có dụng công không?". Hải đáp: "Dụng công". Hỏi "Dụng công ra sao?". Ðáp: "đói đến thì ăn cơm mệt lại thì đi ngủ". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c 1-3.

(11)
An nam chí nguyên tờ 209 dẫn ý chính của đoạn này về Ðạo Hạnh: "Thiền sư Ðạo Hạnh là vị sư huyện Thạch thất, thường đi khắp tòng lâm tìm tòi bậc trí thức, khi duyên đạo đã chín, pháp lực có thêm, Sư có thể sai sử chim rừng thú nội họp nhau đến chịu phục. Sư cầu mưa trị bệnh, không gì là không ứng nghiệm, nay xác thịt đang còn".

Việc sử dụng những ngữ cú và văn ý đồng nhất với Thiền uyển tập anh như đây chứng tỏ tác giả An nam chí nguyên hay tác giả một cuốn sách khác mà ông vẫn phải sử dụng Thiền uyển tập anh. Do vậy, trước bản in năm 1715, Thiền uyển tập anh phải có in một lần nào đó. Chính qua bản in hay tối thiểu bản chép trước năm 1715 mà An nam chí nguyên hay một cuốn sách trước nó đã rút những dẫn trên về Ðạo Hạnh.

(12)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 21 a4-b5: "Hội Tường Ðại Khánh năm thứ 3 tháng 2 người Thanh hóa nói rằng: "ở Hải tân có một đứa bé lạ lùng, tuổi mới lên ba, mà hiểu được tiếng nói, tự xưng là đích tử của Hoàng đế, gọi mình là Giác Hoàng, hễ vua cử động thì không gì là nó không biết trước. Vua sai Trung sứ đến hỏi xem thì những gì người ta nói đều đúng cả, bèn rước về ở tại chùa Báo thiên. Vì sự linh dị của nó, vua thương yêu nó càng nhiều. Bấy giờ, vua không có người nối dõi, muốn lập nó làm Thái tử, quần thần không chịu, mới thôi. Bèn liền lập trai hội ở trong cung cấm, muốn khiến Giác Hoàng đầu thai vào làm con mình.

Có nhà sư núi Phật tích là Từ Lộ Ðạo Hạnh nghe việc ấy mà không vui bèn sai người chị mình là Từ Thị đến phó hội, lén lấy vài hạt châu có kết ấn rồi trao cho, bảo: "Ðến chỗ hội thì hãy nhét vào đầu mái diềm, đừng để cho ai thấy biết". Từ Thị làm theo lời dặn của sư. Giác Hoàng bỗng chốc mắc bệnh sốt trẻ con, bèn nói với người ta rằng: "Tôi thấy khắp cả nước đều có lưới sắt bao phủ, không có ngõ nào mà thác sinh vào cung được". Vua ra lệnh mở một cuộc lùng soát lớn thì bắt được những hạt châu do Từ Thị giấu, bèn bắt Lộ trói ở làng Hưng thánh, muốn đặt vào tội xử tử. Gặp khi Sùng Hiền Hầu vào chầu, Lộ gào khóc thảm thiết nói rằng: "Xin Hầu ra tay cứu vớt bần tăng nếu may mà được thoát chết thì sẽ vào làm con của Hầu để đáp lại ân đức". Hầu bằng lòng, nên khi vào gặp vua, Hầu mưu cứu bằng trăm lối, nói rằng: "Giác Hoàng nếu thật có thần lực mà lại bị Lộ thư giải thì rõ ràng Lộ hơn Giác Hoàng vậy. Thần nghĩ không gì hơn là cho Lộ thác sanh vậy". Vua bèn xá tội Lộ Toàn thư không ghi chuyện này.

(13)
Toàn thư B3 tờ 16a2-6: "(Hội Tường Ðại Khánh) năm thứ ba, bây giờ tuổi vua đã cao, mà không có con nối dõi, xuống chiếu chọn con tôn thất vào làm nối dõi. Em vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con nối dõi. Gặp lúc nhà sư núi Thạch thất là Từ Ðạo Hạnh đến nhà Hầu để cùng nói chuyện cầu tự, Ðạo Hạnh nói: "Ngày kia khi phu nhân lâm bồn thì nên trước báo cho biết, bởi vì tôi đã vì Ngài đến cầu xin ở thần núi rồi". Ba năm sau, phu nhân nhân thế mà có thai, sinh ra con trai Dương Hoán".

(14)
Toàn thư B3 tờ16b6-17a4: "(Hội Tường Ðại Khánh) năm thứ bảy, mùa hạ tháng sáu, thầy Từ Ðạo Hạnh thi giải ở chùa núi Thạch thất…Trước đó, phu nhân của Sùng Hiền Hầu là Ðỗ thị có thai. Ðến lúc đó, khó sanh, Hầu nhớ lại lời nói ngày trứơc của Ðạo Hạnh, sai người chạy đến báo. Ðạo Hạnh tức khắc tắm rửa thay áo, vào trong hang thi giải mà mất. Phu nhân liền sanh được người con trai, tức là Dương Hoán vậy. Người làng cho là truyện lạ, đem thi bỏ vào trong khám mà thờ. Núi Phật tích ngày nay tức là chỗ của nó vậy. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 mùa xuân, sĩ nữ tụ hội lại ở chùa, làm nó trở nên một nơi du ngoạn nổi tiếng. Người sau ngoa truyền đó là ngày kỵ của Thầy". Ðại Việt sử lược 2 tờ 22a5: ("Hội Tường Ðại Khánh thứ 7) mùa hạ tháng 6 thầy Ðạo Hạnh hóa thân – Thần Tôn sinh ra".

(15)
Tam thập tam thiên (Phạn: Trayastrimsà), một tên gọi khác của cõi trời Ðao lợi hay Ðâu suất đà (Phạn: Tusita), nơi ngự trị của Ðế Thích theo huyền thoại Phật giáo. Xem Trường a hàm 20 và Câu xá luận 11 .

(16)
Toàn thư B3 tờ 17a4-5: "Xác của Sư đến khoảng năm Vĩnh Lạc đời Minh mới bị người Minh đốt. Người làng đúc lại tượng của Sư mà thờ như xưa, nay còn". Thì rõ ràng, xác của Ðạo Hạnh đang còn vào thời Trần, khi tác giả Thiền uyển tập anh viết tác phẩm của mình. An nam chí lược 15 tờ 147-148 cũng nói: "Sư nhục thân kim thượng tồn". An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết: "Kim chân hình thượng tồn".

(17)
Nguyên văn: "Án Quốc sử, Hội Tường Ðại Khánh bát niên, (nhân) Sùng hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Kỳ, Hầu tử, nghênh nhập trung cung giáo dưỡng. Sùng Hiền (Khánh thọ bát niên đông thập nhị nguyệt đế băng) Hầu tử, niên phương nhị tuế, đế thâm ái chi, toại lập vi Hoàng thái tử, chi Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên đông thập nhị nguyệt đế băng, Thái tử tức vị, xuân thu nhị thập nhất niên, tại vị phàn thập nhất niên, thuỵ viết Thần tôn, tức Sư thị giả, Giác Hoàng hoặc Ðại Ðiên thị giả".

Những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như diễn tự và loại bỏ không dịch, cứ vào lời chiếu tìm con tôn thất tìm con vào nuôi dưỡng trong cung của Lý Nhân Tôn trong Toàn thư B3 tờ 18a8-b3: "Hội Tường Ðại Khánh thứ 8 mùa đông tháng 10…xuống chiếu nói rằng: "Trẫm trị muôn dân, đã lâu không có con nối dõi, ngôi thứ của thiên hạ, thì có thể truyền lại cho ai. Vậy phải nên nuôi dưỡng con của Sùng Hiền, Khánh Thành, Thành Quảng, Thành Chiêu và Thành Hưng Hầu, rồi chọn đứa tốt nhất trong chúng mà lập lên". Bấy giờ con của Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán, tuổi mới lên hai mà đã thông minh lanh lợi, vua rất thương yêu, bèn lập làm hoàng thái tử".

(18)
Lĩnh nam trích quái tờ 28-31 chép truyện của Từ Ðạo Hạnh hoàn toàn đồng nhất với truyện đây, trừ một sai khác đáng chú ý là việc Ðạo Hạnh thi trúng khoa Bạch liên, mà Thiền uyển tập anh không nói rõ. Còn Từ Ðạo Hạnh đại thành sự tích thật lục do "Ðạo nhân tam quán Tam Thanh" chép phụ vào Việt điện u linh tập tờ 221-225, tuy cốt truyện vẫn giống, nhưng có một số chi tiết khá lôi cuốn đáng ghi, nên đề nghị dịch lại sau:

"Xưa Từ Ðạo Hạnh, họ Từ tên Lộ cha là Vinh, dùng đạo Thích làm giáo tôn, làm quan triều Lý đến chức Tăng quan đô sát, trước thường (qua chơi) làng An lăng, cưới con gái họ Tăng tên Loan, làm nhà ở xóm Láng nam, làng An lãng, gặp được chốn đất làm nhà là quí địa, nên bẩm sinh Ðạo Hạnh có tiên phong đạo cốt.

Hạnh lúc nhỏ ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, hành động cử chỉ, người ta không thể lường. Thường cùng nhà nho Phí Sinh, Ðạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người hề Phan Ất cùng nhau làm bạn. Ban đêm, Hạnh siêng năng chịu khó đọc sách, nhưng ban ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui. Cha Hạnh thường quở trách Hạnh hoang chơi biếng nhác. Một hôm, ông lén nhìn vào phòng Hạnh, thấy ngọn đèn leo lét như hạt đậu, sách vở chất đống, Ðạo Hạnh tựa vào bàn ngủ, mà tay vẫn chưa buông sách. Ông do thế không còn lo lắng nữa. Sau Hạnh ứng thí khoa Bạch liên, đỗ đầu, nhưng không thích ra làm quan, ngày đêm chỉ nghĩ tới việc báo thù cho cha.

Cha Hạnh nguyên ngày trước dùng diệu thuật xúc phạm đến Diên Thành Hầu. Nhà Hầu có Pháp sư Ðại Ðiên dùng phù yếm giết chết, quăng thây xuống sông Tô lịch. Trôi đến cầu Tây dương, chỗ nhà Diên Thành Hầu, cái thây dừng lại đó, suốt ngày không chịu trôi đi. Hầu sợ, chạy báo cho Ðiên. Ðiên đến nói kệ rằng: "Tăng giận không đầy đêm sao? Vả sống là trường du hý, chết mới thành đạo Bồ đề". Thây đáp lại lời nói mà trôi đi, đến chỗ Hàm rồng làng Nhân mục cựu thì dừng lại. Người ta thấy nó có linh dị, xã đó xây lăng miếu, đúc tượng phụng thờ, mỗi năm kỵ vào ngày 10 tháng giêng. Bấy giờ mẹ Hạnh táng tại chùa Ba lăng, xã Thượng an. Nay chùa Hoa lăng phụng thờ cả hai vị Thánh cha và Thánh mẹ.

Ðạo Hạnh chỉ nhằm phục thù, mà không tìm ra kế. Một hôm rình lúc Ðại Ðiên đi ra sắp làm pháp thuật, bèn lấy gậy sắp đánh Ðại Ðiên, bỗng nghe trên không có tiếng mắng bảo thôi. Ðạo Hạnh bèn quăng gậy, trở về nhà, buồn rầu tức giận, muốn đi Tây thiên Ấn độ, tìm học phép lạ, để chống Ðại Ðiên. Bèn liền cùng Minh Không, Giác Hải ra đi, đến nước Răng vàng đường đi hiểm trở, muốn trở về thì thấy một ông già cỡi một thuyền con, thảnh thơi đi trên sông. Họ cùng đến hỏi: "Tới Tây thiên còn bao xa". Ông già trả lời: "Ðường núi hiểm cao, đi bộ không được. Lão có chiếc thuyền nhỏ, xin giúp chở đi, lại có cây gậy nhỏ đây, nhắm thẳng Tây quốc mà tới thì chẳng xa, lão xin bằng lòng ngay". Lại nói bài kệ:

Cùng đi đường đạo lẽ đương nhiên

Nhiều ông xa học quyết nên danh

Mênh mông muốn ngả sao nhọc trải

Chỉ nhắm Hoàng giang thấy thánh sanh.


Nói kệ xong, trong khoảng nháy mắt, bỗng chốc đã đến bờ sông Tây thiên có nhiều thần thông phép thiêng. Ðạo Hạnh giữ thuyền. Giác Hải và Minh Không lên bờ, học được phép thiêng, liền tự trở về trước. Ðạo Hạnh giữ thuyền ba ngày, không thấy tin tức hai người bạn , tự nhiên gặp một bà lão đến bên bờ sông, bèn chèo đến hỏi: "Lão bà có từng thấy hai người đến cầu đạo không?" bà lão trả lời: "Hai đứa đó đã nhận phép thiêng do ta dạy, đắc đạo trở về rồi". Ðạo Hạnh liền vái, vừa kể lại chuyện ba người cùng đi, bây giờ bỏ nhau, rất lấy làm buồn. Bà lão nghe nói, tức sai Ðạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà, ta sẽ dạy cho ngươi vài phép thiêng cùng phép cho rút đất chân truyền và đà la ni.

Ðạo Hạnh tự hiềm hai người bạn đã thất ước, bèn tụng chú. Giác Hải và Minh Không đi đến nửa đường thì bị chú làm đau tim, khó di động được. Hai người bạn nhìn nhau kinh hãi. Bên ngoài tuy họ bị quấy rầy, nhưng bên trong nhờ đã học được linh thuật, nên đang hoàn toàn tỉnh táo, biện biệt được hư thật, biết rằng nó quả do Ðạo Hạnh tạo ra. Họ nhìn nhau nói: "Ngươi muốn biết hậu thân của thân này, thì hãy nhắm ta mà nói". Ðạo Hạnh nhân thế đáp: "Chúng ta cùng học đạo Thế Tôn, đạo quả đã thành hậu thân sẽ sinh lại thế gian làm bậc nhân chủ, lại sinh mắc bệnh, quyết không thể tránh, các ngươi có duyên với ta, xin đến cứu nhau".

Từ đó, hận xưa hết sạch, cùng nhau truyền bá Phật pháp. Ði mặt nước, bay trên không, hàng rồng phục cọp, lên trời rút đất, muôn quái nghìn kỳ, xuất quỷ nhập thần, chẳng lường được mầu nhiệm. Họ bèn nhượng Ðạo Hạnh làm anh cả, Minh Không làm anh thứ và Giác Hải làm em. Chỗ đó nay gọi là cầu Beo ấy vậy. Minh Không và Giác Hải giã từ trở về chùa Giao thủy. Ðạo Hạnh ở lại tu luyện tại chùa Thiên phúc núi Thạch thất. Trước chùa có đôi cây tùng già, người ta gọi là long thụ. Ðạo Hạnh thường ngày chuyên trì chú Ðại bi tâm đà la ni đủ ức vạn ngàn biến thì một nhánh cây rơi xuống. Khi đọc chú xong thì cả đôi cây đều trụi. Hạnh tưởng được đức Quan Thế Âm đã đến ứng giúp, sức chú gia trì đã thấu tới thiên đường. Một hôm, thấy thần nhân hiện đến trước mặt, chân không đạp đất, Hạnh hỏi: "Thần nào đó?" Vị thần trả lời: "Ðệ tử là Tứ trấn thiên vương, cảm động đức trì kinh của Sư, nên đến hầu hạ, để tiện việc sai sử". Ðạo Hạnh biết lục trí của mình đã viên thành, thù cha có thể trả. Bèn trở về ở tại An lãng làng xưa, thân hành đến cầu An quyết sông Tô lịch, quăng một cây gậy xuống sông. Cây bỗng trên mặt nước, trôi ngược lên như bay, đến cầu Tây dương mới dừng lại. Ðạo Hạnh vui mừng nói: "Phép ta thắng Ðại Ðiên rồi vậy". Bèn đi thẳng đến chỗ Ðiên. Ðiên thấy, nói: "Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?". Ðạo Hạnh ngửa mặt ngó lên trời, vắng vẻ không thấy gì cả, nhân thế đánh mạnh. Ðiên chết, lại quăng xác vào sông Tô lịch để trả thù xưa.

Thù xưa rửa sạch, niềm tục lắng trong, Hạnh lại đi khắp tòng lâm, cầu xin ấn quyết. Nghe Cao Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình, Hạnh lễ phép đến tham yết, tỏ hết chân tâm, có bài kệ rằng:

Lâu mắc bụi đời chưa biết vàng

Chẳng hay đâu chỗ, ấy lòng chân

Nguyện xin chỉ dạy bày phương tiện

Nương thấy Bồ đề khỏi nhọc tìm.


Trí Huyền đáp lại lời kệ:

Bí quyết chân truyền giả vạn kim

Rõ ràng cái đó ấy thiền tâm

Hà sa thế giới nên thôi nói

Chẳng phải Bồ đề cách vạn tầm.


Từ Ðạo Hạnh mang nhiên không hiểu, bèn đến pháp hội của Sùng Phạm tại chùa Pháp vân, thong dong hỏi rằng: "Thế nào mới là chơn tâm?" Phạm đáp: "Chỗ nào lại không là chân tâm". Ðạo Hạnh bỗng nhiên tự ngộ, bèn lại trở về chùa Thiên phúc núi Thạch thất tu đạo luyện pháp xưa. Từ đó, pháp lực càng thêm, lòng thiền càng thục, có thể sai sử chim rừng thú nội đều bay đến nép phục xung quanh. Hễ dân các phương có ai bị tật dịch , bùa bay giấy chạy, phép Hạnh lập tức có nghiệm. Ðem cứu người, người đều thấm ơn.

Bấy giờ vua Lý Nhân Tôn không có con nối dõi, cầu đảo không nghiệm. Em vua là Sùng Hiền Hầu mời Ðạo Hạnh về nhà cùng nói chuyện cầu tự. Từ Công nguyện thác thai để tạ ân đức của Hầu. Lúc đó, phu nhân đang tắm ở nhà sau bỗng thấy Ðạo Hạnh hiện ở trong thau nước. Phu nhân sợ, đem nói với Hầu. Hầu rõ biết ý Hạnh, lén gọi phu nhân nói: "Bóng hiện trong thau nước, ấy là chân nhân đã nhập vào trong tử cung rồi, cẩn thận chớ sợ hãi nghi ngờ. Phu nhân trong lòng cảm thấy mình có thai. Từ Công bèn từ tạ mà về, dặn rằng : "Lúc lâm bồn thì nên đi báo cho ta". Ðến khi thai đủ tháng, phu nhân cảm thấy chuyển bụng muốn đẻ, nhưng rất khó. Hầu bảo: "Nên mau đi báo cao tăng". Từ Công thấy người đi báo đến, bèn gọi đồ đệ đến nói: "Nhân xưa chưa hết, ta tạm phải ra đời làm con cõi người để làm vua, thọ hết lại làm (chúa) cõi trời Tam thập tam. Nếu thấy chân thân ta hoại diệt thì ta mới vào Niết bàn, không còn ở trong sinh diệt nữa. Môn nhân nghe nói, không ai là không cảm động đến rơi nước mắt. Bèn lải rải nói kệ rằng:

Thu qua không báo nhạn về đây

Dễ khiến người đời thương xót thay

Tỏ dấu người đời không ý tiếc

Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay.


Nói xong, đi lên Ðộng tiên, va đầu vào vách đá, dẫm chân lên bàn đá nghiễm nhiên thi giải mà mất. Ấy là năm Bính thân Hội Tường Ðại Khánh thứ 3 mùa xuân tháng 3 ngày mồng 7. Ðạo Hạnh Niết bàn, ra đời làm con của Sùng Hiền Hầu, không phiền nuôi nấng mà mau lớn, không nhọc dạy dỗ mà thông minh, nhan sắc đẹp đẽ, tài năng hết sánh. Vua xuống chiếu đem vào nuôi dưỡng ở trong cung, sau phong làm Hoàng thái tử. Nhân Tôn băng vua lên ngôi, ấy là Thần Tôn…".

Từ Ðạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục này, Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tục biên chép với một vài sai khác không đáng kể cho lắm. Trừ việc nó thiếu bài thơ thị tịch của Hạnh và thêm bài thơ báo mộng cho Lý Nhân Tôn cùng chuyện nhờ Minh Không sau này chữa bệnh hộ mình.

An nam chí lược 15 tờ 147-148 viết: "Từ Ðạo Hạnh là Nho sinh, ưa thồi sáo ngày cùng bạn leo núi du ngoạn, đêm đọc sách đến sáng. Một hôm, Hạnh vào núi Phật tích thấy trên đá có dấu bàn chân bên phải, bèn lấy bàn chân mình án lên trên thì giống như một. Bèn trở về nhà, giã từ mẹ mình, vào núi dựng am tu hành. Vua Lý vô tự, sai danh tăng cầu đảo. Có một vị tăng không dự, dùng thuật yểm đi. Vua nghe được sai bắt các vị tăng trong nước. Sư cũng bị hạ ngục. Vị Hoàng tử đem sức ra cứu, nên Sư khỏi được. Vị hoàng tử nói: "Tôi cũng không có con nối dòng, xin Sư cầu đảo dùm tôi". Sư bèn nói với vị Hoàng tử nên sai phu nhân vào trong nhà tắm. Sư đi qua ngoài nhà. Phu nhân cảm được mà có thai. Ðến khi sinh, vị Hoàng tử cho mời Sư, nhưng Sư đã ngồi mà hóa. Phu nhân bèn sanh một người con trai kỳ vĩ. Vua Lý lấy làm người nối dõi. Nhục thân Sư nay vẫn còn".

Việt sử tiêu án 1 tờ 101a1-16 chép: "Xét phu nhân Sùng Hiền Hầu có thai gặp Sư núi Thạch thất là Từ Ðạo Hạnh đến nhà cùng bàn việc cầu tự. Sư hẹn khi sắp đẻ, nên trước báo cho Sư biết. Ðến lúc ấy phu nhân đẻ khó, Hầu nhớ lời Sư, sai người đi báo. Sư liền thay áo tắm rửa, vào trong hang thi giải mà chết. Phu nhân liền sanh một người con trai, tức Dương Hoán. Núi Thạch thất ở tại làng Lật Sài, huyện Yên sơn, cao vút xanh đẹp, mọc lên giữa một đám đất bằng. Ðộng đá có in dấu đầu và dấu chân, hình như rồng lân, tục truyền là nơi thi giải. Người làng cho đó là điềm lạ, bỏ thây vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 là thắg hội của một địa phương. Sau trong khoảng Vĩnh lạc, người Minh đốt thây đó. Dân làng mới đắp tượng cùng thờ với Thần Tôn, Trong khoảng Lê Quang Thuận, sai Nguyễn Ðức Trinh đến cầu tự ở trong động thì điềm lạ là có một mảnh đá bay tới. Bèn cung kính rước về dâng lên. Khi đã vậy, Thái hậu Trường Lạc mộng thấy rồng vàng vào hông bên phải mình, bèn sinh ra Hiến Tôn. Từ đó dấu thiêng càng hiện rõ".

Rồi nó nhận xét thế này: "Xét Dã sử thì Ðạo Hạnh là con của Từ Vinh, dòng dõi nổi tiếng về pháp thuật, chẳng phải là một cao tăng. Việc thi giải đầu thai của ông quái đản không thường. Cao tăng minh tâm kiến tánh, tất không dùng pháp thuật mê hoặc mọi người. Sách sử nên bỏ chuyện lạ lùng, chỉ ghi lại việc thường, mà không nên đem chuyện thần quái mà mê hoặc đời". Dẫu vậy, với dẫn chứng vừa đọc, ta cũng thấy Việt sử tiêu án đã không quên bước chân theo Toàn thư và Ðại Việt sử lược để ghi lại những việc làm có vẻ quái đản của Ðạo Hạnh. Chỉ Cương mục chính biên là đã làm theo lời giáo huấn của Ngô Thời Sĩ, và từ đó đã tự làm giảm giá trị của chính mình thôi.
-------------------

Chú thích của hungcom :



(*)

久混凡塵未識金,
不知何處是真心。
願乘指的開方便,
了見如如斷苦尋。


Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim),
Bất tri hà xứ thị chân tâm.
Nguyện thuỳ chỉ đích khai phương tiện,
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm.



(**)

玉裏秘聲演妙音
個中滿目露禪心
河沙境是菩提道
擬向菩提隔萬尋


Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị Bồ Đề đạo
Nghĩ hướng Bồ Đề cách vạn tầm.



(***)

作有塵沙有,
為空一切空。
有空如水月,
勿著有空空。


Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.



(****)

日月出岩頭,
人人盡失珠。
富人有駒子,
步行不騎駒。


Nhật nguyệt xuất nham đầu,
Nhân nhân tận thất châu.
Phú nhân hữu câu tử,
Bộ hành bất kỵ câu.



(*****)

秋來不報雁來歸,
冷笑人間暫發悲。
為報門人休戀著,
古師幾度作今師。


Thu lai bất báo nhạn lai quy,
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi.
Vị báo môn nhân hưu luyến trước,
Cổ sư kỉ độ tác kim sư.
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Hỏi về Chân Tâm

[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hoichantam_zps78eb9342.jpg"].


























.

[/NEN]

 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Đương xứ tức Chân

[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/duongxutucchan_zpsc2f0816f.jpg"].


























.

[/NEN]

 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Không có, có không



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Khongcocokhong_zpsd809fcb9.jpg"].
































.[/NEN]​
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Hạt châu búi tóc



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hatchaubuitoc_zps00fdb2f3.jpg"]
.


































.[/NEN]

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên