P

VƯỜN THIỀN

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Bàn về Vô Niệm

(SUZUKI)

Ý thức của Thiền, đặc sắc là sự đốn ngộ của vô niệm, ló dạng trong tâm trí của Huệ Năng. Nếu Bồ-đề-đạt-ma đã dùng chữ vô tâm để chỉ choo vô thức, thì Huệ Năng đã thay thế tâm bằng niệm. Niệm thông thường có nghĩa là “nhớ nghĩ”, “tưởng nhớ”, “suy tưởng về quá khứ”, vân vân, và được dùng như là tương đương với smṛti của Phạn ngữ. Do đó, khi nó được sử dụng liên hệ với vô như vô niệm, thì đây là asmṛti, có nghĩa là “mất hết ý nghĩa” hay “quên lãng” và trong các bản Phạn văn nó được dùng theo nghĩa này. Tuy nhiên, việc dùng chữ vô niệm theo nghĩa “vô thức” và hàm súc một ý nghĩa tâm linh sâu sắc, theo xét đoán của tôi, bắt đầu với Huệ Năng. Vô niệm ở đây không chỉ là quên lãng không nhớ lại một việc làm; nó không chỉ là một từ ngữ tâm lý học. Khi Hụê Năng lấy vô niệm làm sự kiện căn bản nhất của sinh hoạt Thiền, nó phù hợp với ba môn Giải thoát: Không (śūnyatā), vô tướng (animitta) và vô nguyện (apraṇihita); vì đối với môn đệ Thiền, chứng vô niệm tức là chứng giải thoát. Và tự bản chất, đây là từ ngữ Trung Hoa.

Một ý tưởng đặc sắc khác ở Hụê Năng là đốn giáo, trực nhận về thực tại. Theo ngài, nét đặc sắc của chứng nghiệm Thiền là đốn, vì đây là bản chất của chính tuệ giác Bát-nhã. Tiệm giáo do đối thủ của ngài là Thần Tú chủ trương, không thể ứng dụng cho trực quán vốn diễn ra trong tư duy của Thiền. Bát-nhã hoạt dụng theo trực giác hiện tiền, và cái mà nó tiếp nhận được tiếp nhận tức khắc, không có diễn trình của tư duy, giải kết hay liên tục. Như Hụê Năng nói: “Trong giáo lý của ta không có phân biệt định và tuệ; định là thể của tuệ và tuệ là dụng của định. Khi các người có tuệ; định ở trong tuệ. Khi các người có định, tuệ ở trong định. Chúng không phải là một, không phải là hai.” Bằng cách lặn sâu vào hố thẳm của thực tại như thế, Huệ Năng dạy các môn đệ của ngài hãy nhìn ánh sáng hiện tiền của tuệ giác Bát-nhã chớp ngang qua lớp vỏ cứng của ý thức thường nghiệm. Chỉ lặn suông vào hố sâu ấy không phải là chủ đích của pháp môn Thiền; trừ phi định đạt đến cao điểm là đố ngộ, nếu không thì không có Thiền trong đó. Bây giờ, chúng ta hãy coi Huệ Năng nói gì về vô niệm.[1]

“Thiện tri thức, giáo pháp của ta từ trước đến nay, dù đốn hay tiệm, lập vô niệm làm tông, vô tướng làm thể và vô trụ làm gốc. Vô tướng là gì? Là đối với tướng mà lìa tướng. Vô niệm là đối với niệm mà không niệm. Vô trụ là bản tánh của người. Niệm niệm không dừng nghỉ. Niệm trước rồi niệm sau, niệm niệm tiếp nối không có đoạn tuyệt. Nếu một niệm đoạn tuyệt, thì pháp thân lìa khỏi sắc thân. Niệm niệm trong mọi thời không dừng nghỉ trên một pháp. Nếu một niệm dừng nghỉ thì niệm niệm liền dừng nghỉ, đây gọi là hệ phược. Nơi hết thảy các pháp, niệm niệm không dừng nghỉ, tức là không hệ phược. Vì vậy, lấy vô trụ làm gốc [của đời sống chúng ta].

“Thiện tri thức, bên ngoài lìa hết thảy tướng, gọi là vô tướng. Nếu lìa được tướng, tánh và thể [của vô niệm] vốn là thanh tịnh. Do đó lấy vô tướng làm thể.

“Nơi tất cả ngoại cảnh mà không bị nhiễm – đó gọi là một với vô niệm, nghĩa là, lìa khỏi các cảnh dù chúng hiện tiền trong niệm, bởi vì niệm không sinh ra trong những niệm đối cảnh. Khi tất cả những tư tưởng [tản mác] như vậy bị trừ khử, thì tất cả những nhiễm ô bị quét sạch khỏi niệm. Khi một niệm này hoàn toàn lau sạch, sẽ không còn có sự thọ sinh nữa, kẻ học đạo hãy dụng tâm đừng sao lãng vấn đề này. Khi không nắm vững ý nghĩa này, không chỉ tự mình nhầm lẫn mà còn khiến kẻ khác mê lầm theo và lại còn huỷ báng kinh pháp. Do đó mà lập vô niệm làm tông.

“Khi người ta chỉ lệ thuộc vào danh tự, họ cố tạo ra niệm về trần cảnh, và những tư tưởng ấy đưa đến tà kiến. Hết thảy trần lao vọng niệm từ đó sinh ra. Vì vậy, giáo pháp này lập vô niệm làm tông. Mọi người hãy nên loại trừ những thiên kiến của mình đừng để làm nảy sinh những tư tưởng hệ lụy. Nếu không có niệm, thì cái vô niệm không lập.

“Nói là vô, vậy thì vô cái gì? Niệm là niệm vật gì? Vô là lìa hai tướng, các trần lao. Niệm khởi lên từ Chân Như; Chân Như là thể của niệm, và niệm là dụng của Chân Như. Niệm, cố nhiên khởi từ Chân Như, tuy tức thấy nghe, nhớ, hiểu, mà Chân Như không nhiễm vạn cảnh, thường thường tự tại. Vậy nên kinh Duy ma nói:

“Bên ngoài khéo hay phân biệt các pháp tướng mà nguyên lý cứu cánh nội tại vẫn không lay động.”

Vô niệm, theo Huệ Năng, là cái tên không những chỉ cho thực tại cứu cánh, mà còn chỉ cho trạng thái ý thức trong đó cái cứu cánh tự hiện tiền. Bao lâu ý thức cá biệt của chúng ta còn bị tách rời khỏi thực tại ở đằng sau nó, những nổ lực của nó vẫn là ngã mạn một cách hữu ý hay vô ý, và hậu quả là một cảm giác cô liêu và đau khổ. Phải làm sao cho ý thức liên lạc với vô thức, nếu nó không là vô thức; còn nếu là vô thức, sự quan hệ phải được thể hiện, và sự thể hiện này được gọi là vô niệm.

Những Hán ngữ hay Phạn ngữ một khi được dịch thẳng thường bị hiểu lầm to tát. Vô niệm là một; vì vô niệm mà được hiểu là trạng thái “không tư tưởng” chắc chắn sẽ là một tâm trạng quá nhàm tởm đối với mục đích của Thiền học, hay với mục đích của bất cứ thực tập tâm linh nào. Chúng ta hãy nghe Huệ Năng thêm; ngài tiếp tục giảng giải ý nghĩa vô niệm.

“Thiện trị thức, một lần ngộ là biết ngay Phật là gì. Một khi ánh sáng của trí tuệ soi thấu vào tự tánh tâm địa, thì trong ngoài thảy đều sáng tỏ; mọi vật trở thành trong suốt, và biết được bản tâm của mình. Biết bản tâm tức là giải thoát. Chứng giải thoát tức là chứng Bát-nhã tam-muội (prajñā-samādhi). Ngộ Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm.

“Vô niệm là gì? Là thấy tất cả các pháp mà không chấp trước pháp nào; hiện diện khắp nơi mà không dính mắc nơi nào; tự tính thường tịnh; khiến cho sáu tên giặc chạy ra khỏi sáu cửa mà vào trong sáu trần, nhưng không lìa, không nhiễm; đi và đến tự do. Đấy là chứng Bát-nhã tam-muội, tự tại, giải thoát, gọi là hạnh vô niệm. Nếu không có tư tưởng khởi lên trên bất cứ vật gì, đây là sự đoạn tuyệt của niệm, và như thế là ở trong sự ràng buộc của pháp, tức là biên kiến.

“Ai ngộ pháp vô niệm thì thấu suốt hết thảy vạn pháp. Ai ngộ pháp vô niệm thì thấy được cảnh giới của Chư Phật. Ai ngộ đốn pháp vô niệm là đi đến chỗ quả vị của Phật.”

-----------------------
Chú thích:
[1] Đoạn này trích từ Đàn kinh, thủ bản Đôn hoàng; Taisho, No 2007.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Thần Hội [1] là một trong những đệ tử lớn của Huệ Năng, và chính môn phái ngài nảy nở ngay sau khi thầy mất, vì ngài mạnh dạn đề khởi tiêu chuẩn của “đốn môn” đối nghịch “tiệm môn” của Thần Tú là đối thủ của Huệ Năng. Những trang dưới đây trích từ ngữ lục của Thần Hội.[2]

“Trương Yên Công[3] hỏi: Thiền sư thường nói về pháp vô niệm, khuyên mọi người hãy tu tập theo đó. Vậy vô niệm ấy là hữu hay vô?

“Đáp: – Vô niệm không phải là hữu, không phải là vô.

“Hỏi: - Tại sao không phải hữu hay vô?

“Đ. – Khi nói là hữu, đây không nói theo nghĩa thế gian thường tình. Khi nói là vô, cũng không theo nghĩa thế gian thường nói. Vì vậy không thể nói vô niệm là hữu hay vô.

“H. - Vậy Đại sư gọi nó là vật gì?

“Đ. – Không thể nói là “vật” gì.

“H. - Nếu vậy, phải nói là gì?

“Đ. - Chẳng thể chỉ cái gì hết. Vì vậy nói là vô niệm. Nó vượt ngoài sự miêu tả. Cái cớ nó được nói đến ở đây hoàn toàn là vì có những câu hỏi đặt ra cho nó. Nếu không nêu lên câu hỏi nào cả, thì sẽ không có nói năng gì về nó. Chẳng khác như tấm gương sáng khi không có vật gì trước nó thì không có ảnh tượng trong nó. Nay những ảnh tượng có thể thấy nơi nó là bởi cớ rằng nó đứng trước vật. Vì vậy mà có các ảnh tượng.

“H. - Nếu gương không có vật trước nó, vậy nó có chiếu sáng hay không?

“Đ. – Ta vừa nói về những vật chiếu sáng của nó, nhưng dù có đứng trước vật hay không, luôn luôn nó vẫn chiếu sáng.

“H. - Nếu nó không có hình tượng, không thể diễn tả bất cứ theo nghĩa nào, vì nó vượt hẳn ngoài hữu và vô, nhưng nếu nó có chiếu sáng, thì chiếu cái gì?

“Đ. – Khi nói gương có chiếu sáng, là vì tự tính của nó có tính sáng ấy. Khi tâm của chúng sinh trong sáng, thì bản tính sáng đầy của trí tuệ sẽ chiếu sáng khắp cả thế gian.

“H. - Nếu đúng vậy, bao giờ có thể có?

“Đ. - Chỉ khi nào nhìn thấy cái vô.

“H. - Phải chăng vô không phải là vật để thấy?

“Đ. – Dù có hành vi thấy, cái được thấy không thể nói là “vật” gì.

“H. - Nếu không nói là “vật gì”, vậy cái thấy là gì?

“Đ. - Thấy chỗ không có “vật gì”; đấy là cái thấy chân thật, cái thấy vĩnh cửu.”

Thần Hội tiếp tục thêm một đoạn nữa:

“H. – Vô niệm nghĩa là gì?

“Đ. – Không niệm hữu và vô, không niệm thiện và ác, không niệm cùng và vô cùng, không niệm cân lường, không niệm Bồ-đề (giác), không hệ niệm nơi Bồ-đề, không niệm Niết-bàn, không hệ niệm nơi Niết-bàn. Đây là những chứng đạt vô niệm.

“Vô niệm[4] ấy không khác Bát-nhã ba-la-mật, và Bát-nhã ba-la-mật không khác với nhất hành tam-muội (ekavyūha-samādhi).[5] Các thiện tri thức, nếu có kẻ trong hàng hữu học ôm giữ một niệm trong tâm, niệm ấy có thể dẫn tới chỗ Chính giác, nhưng khi cả đến một niệm như thế không còn khởi lên trong tâm, Chính giác cũng sẽ không còn nữa, và đấy chính là vô niệm. Trong vô niệm không có cảnh giới.[6] Nếu có, không tuỳ thuận với vô niệm...Ai quán vô niệm, kẻ ấy lau sạch những ô nhiễm của lục tình. Ai quán vô niệm, kẻ ấy đang hướng đến Phật trí. Ai quán vô niệm, kẻ ấy ở trong con đường giữa, trong chính chân lý cứu cánh. Ai quán vô niệm kẻ ấy tức thì tăng trưởng phước đức nhiều như cát sông Hằng. Ai quán vô niệm, kẻ ấy có thể thấy vạn vật. Ai quán vô niệm, kẻ ấy ôm trọn vạn vật trong lòng mình...

“Nếu có người chứng ngộ rốt ráo, người ấy bất động và kiên cố như Kim cang, và vì người ấy đã quán thấy vô niệm, nên dù ở giữa rừng gươm oán tặc đe dọa phanh thây vẫn hoàn toàn ngồi yên lặng. Ngay cả khi Hằng hà sa số chư Phật hiện đến chào đón, tâm y cũng không gợn lên một niệm hoan lạc. Bởi vì bậc tinh tấn dũng mãnh này đã đạt đến không tánh (śūnyatā) và tâm bình đẳng tánh (samacittatā).”

Tự Đạo Vương 嗣道王 muốn biết pháp môn vô niệm dành cho thánh nhân hay phàm phu. Rõ ràng ông nghi ngờ giá trị của pháp môn cao siêu như vậy đối với phàm phu. Thiền sư Thần Hội đáp: “Pháp môn vô niệm dành cho thánh nhân, nhưng nếu phàm phu tự tu tập theo đó, họ không còn là phàm phu nữa.”

--------------------------------------
Bản Anh Văn Suzuki
Bản Việt Văn Tuệ Sỹ

--------------------------------------
Chú thích:
[1] 神會686-760. Sư là một trong những nhân vật đặc sắc đáng lưu ý nhất trong buổi đầu lịch sử của tư tưởng Thiền, và tác giả thiên luận này có thể sẽ có cơ hội viết về ông.

[2] Giáo sư Hồ Thích, trường đại học Bắc kinh, năm 1930, ấn hành bản ngữ lục của Thần Hội được phát kiến tại Đôn hoàng. Bản tôi dùng ở đây cũng là một trong những thủ bản cổ nhất được giữ tại động đó, nhưng có nhiều chỗ khác với ấn bản của Hồ Thích. Trích dẫn ở đây theo bản riêng của tôi; độc giả nào có bản của Hồ Thích sẽ nhận thấy một vài chỗ bất đồng ngay trong trích dịch của tôi.

[3] 張燕公. Cf. Hồ Thích, t. 115-16.

[4] Trong thủ bản, chỉ có từ vô, nhưng dịch giả đọc là vô niệm.

[5] 一行三昧. Từ xuất hiện trong Saptaśatikā-prajñāpāramitā được thuyết bởi Văn-thù; ekavyūha được dịch là nhất hành 一行, thay vì là nhất trang nghiêm一莊嚴, là điều bất thường.

[6] 境界 chỉ cho các trạng thái đặc biệt của tâm có thể xác định Chánh giác cũng là một trạng thái như thế, và những ai mong muốn đật đến cái vô ý thức thì cần phải siêu việt
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Từ ngữ vô niệm không chỉ dành cho bản thân của thực tại cứu cánh, ở đó tâm thức cá biệt tìm thấy căn cơ tối hậu của nó, mà còn dành cho công dụng của thực tại trong tâm chúng ta. Chính nhờ công dụng này mà ý thức tâm lý thường nghiệm của chúng ta có thể lặn sâu vào hố thẳm uyên áo của thực tại. Và công dụng này không tách rời thực tại, cái vô niệm. Ý thức được gọi như thế vốn có thể được coi như là lãnh vực hoạt dụng của vô thức (vô niệm). Nhưng nếu chúng ta dứt mình ra khỏi cội nguồn ấy, tưởng rằng ý thức của mình là một thực tại độc lập và cứu cánh, chúng ta lạc lối và không biết đi hay đứng nơi nào; kết quả là một trạng thái vô cùng ngưng trệ của tâm linh.

Dù vậy, Tự Đạo Vương muốn biết vô và niệm có nghĩa là gì.

“Đáp: – “Vô” có nghĩa là vô nhị tướng. “Niệm” tức là niệm Chân như.

“Hỏi: - Giữa người niệm và Chân Như có sự khác biệt nào?

“Đáp: – Không khác biệt giữa hai bên.

“H. - Nếu không có sự khác biệt, tại sao có niệm về Chân Như ấy?

“Đ. – “Niệm” là dụng của Chân Như, và Chân Như là thể của niệm. Vì vậy, vô niệm chính là đạo lý (của pháp môn thiền). Khi chứng đạt (vô niệm) với tất cả sự thấy, nghe, hay, biết của nó, vô niêm ấy vẫn mãi mãi là tịch tĩnh không hư.

--------------------

Với Đại châu Huệ Hải 大珠慧海, 1 vô niệm vẫn tiếp tục là một trong những đề tài thảo luận lôi cuốn nhất. Dù không có gì đặc sắc nơi quan niệm của ngài, ta cũng nên trích một đoạn dưới đây, rút ra từ tác phẩm của ngài nhan đề Đốn ngộ nhập đạo yếu môn luận 2 . Huệ Hải phân biệt tà niệm với chính niệm và nói rằng trong vô niệm có chính niệm chứ không có tà niệm.

“H.- Thế nào là chính niệm?

“Đ. – Chính niệm là niệm Bồ-đề, chính giác.

“H. – Bồ-đề có thể đắc?

“Đ. – Không thể đắc.

“H. – Nếu không thể đắc, làm sao có thể niệm?

“Đ. – Bồ-đề chỉ là giả danh, và không có (thực tại cá biệt tương ứng làm đối tượng để) đắc. Trong quá khứ chứ từng có ai đắc, trong vị lai sẽ không hề có người đắc. Vì là bất khả đắc, nên không có gì để niệm, ngoại trừ chính vô niệm. Đây gọi là niệm chân chính.

“Bồ-đề là không có niệm về bất cứ cái gì (nghĩa là, không vô tâm đối với tất cả). Không có cái gì được niệm tức là vô tâm trong mọi trường hợp...[43] Khi đã hiểu như vậy, thì đạt được vô niệm, và khi đắc vô niệm, thì tự nhiên giải thoát.”[44]

Trong đoạn này, rõ ràng Huệ Hải đồng nhất vô tâm với vô niệm, và vì cả hai là một, có thể dịch là “vô thức” hay “không bận tâm” tuỳ theo trường hợp. Bồ-đề-đạt-ma dùng chữ vô tâm. Huệ Năng và Thần Hội dùng chữ vô niệm. Huệ Hải, ở đây coi cả hai đồng nghĩa, căn cứ theo đó giải thích Bồ-đề và giải thoát. Dù sao, mục đích tối hậu của Thiền, nói một cách phổ thông hơn, cốt yếu ở chỗ không chấp trước, bởi vì tất cả mọi cái nằm trong thế giới sai biệt này đều có thể miêu tả bằng cách này hay cách khác nhưng không cách nào rốt ráo. Thực tại rốt ráo vượt lên hết thảy mọi phạm trù, và do đó, vượt ngoài khả năng tư duy và sở đắc, hoá cho nên, không thể diễn tả, ngọai trừ gọi nó là “vô tâm” với hai ý nghĩa, như là hình dung (to be unconscious) và danh từ (the Unconsious). Dưới đây là một thí dụ, nói lên đường lối mà Huệ Hải vận dụng để khai thị cho môn đồ và những người hỏi đạo về thuyết lý “Vô tâm” hay vô vi của ngài.

“Sư thường nói với các đệ tử: ‘Ta chẳng hiểu Thiền, và cũng chẳng có một pháp gì để chỉ bày cho các người. Vì vậy, các người khỏi phải mất công đứng lâu ở đây. Hay nhất là các người hãy tự mình giải quyết vấn đề.’ Nhưng người học càng ngày càng đến sư đông hơn, hỏi han sư suốt cả ngày đêm. Sư chẳng có cách nào hơn là phải trả lời hết câu này đến câu khác. Biện tài của sư lưu loát tuyệt vời.[45]

“Một hôm, có một vài vị pháp sư đến tham kiến, và nói: ‘Chúng tôi muốn hỏi ngài một câu; ngài có thực tâm khơi sáng cho chúng tôi chăng?’

“Sư: ‘Bóng trăng dưới ao sâu, hãy tự tiện mà vớt lên.’

“Pháp sư hỏi: ‘Phật là ai?’

“Sư: ‘Ao trong đối mặt; chẳng phải Phật, thì là ai?’

“Cả bọn bối rối. Sau một đỗi, họ lại hỏi: ‘Sư nói pháp gì để độ người?’

“– Bần đạo chưa từng có một pháp gì để độ người.’

“– Hết thảy Thiền gia đều như vậy.’

“Bấy giờ sư mới hỏi: ‘Đại đức nói pháp gì để độ người?’

“– Chúng tôi giảng kinh Kim cang Bát-nhã.

“– Giảng đã bao nhiêu lần?

“– Trên hai chục lần.

“– Ai thuyết kinh này?

“Vị pháp sư lên giọng: ‘Thiền sư chứ có đùa. Kinh há không phải do Phật thuyết ư?’

“Sư: ‘Kinh nói, nếu bảo rằng Như Lai có pháp gì để thuyết, ấy là huỷ báng Phật. Người ấy không ý nghĩa mà Ta nói.’[46] Nếu bảo kinh này không do Phật thuyết, ấy là huỷ báng kinh. Xin Đại đức hãy nói rõ chỗ này.’

“Các vị pháp sư không trả lời được. Một lát sau, sư lại hỏi: ‘Kinh nói, Nếu do sắc mà thấyTa, bằn âm thanh mà tìm Ta; người ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.[47] Đại đức hãy nói, cái nào là Như lai?’

“ – Đến chỗ này, chúng tôi bị mê mờ.’

“ – Xưa nay chưa có gì để ngộ, thì có cái ghì để mê?’

“ – Xin Thiền sư giảng giải cho.’

“ – Đại đức nói đã giảng kinh này trên hai chục lần, nhưng lại chưa biết Như lai sao?’

“Vị pháp sư làm lễ một lần nữa, và khẩn cầu sư chỉ giáo.

“Sư: – ‘Như lai, đó là các nghĩa Như (tathātā) của các pháp.[48] Sao lại có thể quên?’

“ – Vâng phải, đó là nghĩa Như của các pháp.

“ – Nhưng, thưa chư Đại đức, cái ‘vâng phải’[49] của các ngài chưa nhất thiết là rốt ráo.

“ – Tại sao không thể là rốt ráo? Điều đó được nói phân minh trong Kinh văn.

“- Đại đức có phái là Như không?

“ – Thưa phải.

“ – Gỗ, đá có phải là Như không?

“ – Thưa phải.

“ – Như của các ngài cũng đồng với Như của gỗ, đá chăng?[50]

“ – Thưa, không khác.

“ – Nếu vậy, Đại đức và gỗ, đá khác nhau chỗ nào?

Thầy tăng không trả lời được, và phải công nhận là không thắng nổi sư. Sau một lúc, ông lại hỏi:

“ – Làm thế nào để đắc Đại Niết-bàn?

“ – Không tạo nghiệp sinh tử.

“ –Nghiệp sinh tử là gì?

“ – Mong cầu Đại Niết-bàn, xả cấu nhiễm, thủ thanh tịnh, cho rằng có sở đắc và sở chứng, không thoát khỏi đối trị môn, đấy là nghiệp sinh tử.

“ – Làm sao để đắc giải thoát?

“ – Vốn không trói, thì không cần cởi. Làm theo ý muốn, đi theo sở thích, không tạp niệm nào, đây là con đường tối thắng[51].

“– Như Thiền sư Hòa thượng, thật là hy hữu.

“Nói như vậy xong, họ làm lễ và lui ra.”

-----------------------------------------
SUZUKI

------------------------------
Chú thích:
[43] Tác giả lược bỏ một đoạn. (ng.d.)

[44] Taisho 1223, tr. 19a4 -12. (ng.d.)

[45] Cf. Truyền đăng lục 6, T51n2076, tr. 246c22. (ng.d.)

[46] Nguyên văn Hán (La-thập, T8n235, tr. 751c13): 若人言如來有所說法即為謗佛。不能解我所說故。(ng.d.)

[47] Nguyên văn Hán: 若以色見我。以音聲求我。是人行邪道。不能見如來. (ng.d.)

[48] Nguyên văn Kinh: 如來者。是諸法如義。(ng.d.)

[49] Nguyên văn hán: 是亦未是。(ng.d.)

[50] Thần Hội cũng dùng lối luận chứng này trong Ngữ lục, coi Pháp thân như trúc biếc và Bát nhã như hoa vàng. Xem Huệ Hải, § § 10 và 16.

[51] Nguyên Hán: vô đẳng đẳng 無等等. (ng.d.)
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
TUYỆT QUÁN LUẬN CỦA ĐẠI SƯ NGƯU ĐẦU PHÁP DUNG

HỎI: Thế nào là tâm?

ĐÁP: Chỗ quan sát của sáu căn đều là tâm.

HỎI: Tâm chỗ nào?

ĐÁP: Tâm ngay chỗ diệt.

HỎI: Gì là thể?

ĐÁP: Tâm là thể.

HỎI: Gì là Tông (chủ)?

ĐÁP: Tâm là Tông.

HỎI: Gì là gốc?

ĐÁP: Tâm là gốc.

HỎI: Thế nào là định huệ đồng vui?

ĐÁP: Tâm tánh lặng lẽ là định, thường hiểu rõ cái lặng lẽ ấy là Huệ.

HỎI: Gì là trí?

ĐÁP: Cảnh dấy lên mà hiểu rõ là trí.

HỎI: Gì là cảnh?

ĐÁP: Tự thân tâm tánh là cảnh.

HỎI: Gì là thư (rải ra)?

ĐÁP: Dụng chiếu soi là thư.

HỎI: Gì là quyện (cuốn lại)?

ĐÁP: Tâm lặng lẽ không đến đi là quyện. Rải ra thì đầy khắp pháp giới, cuốn lại thì dấu vết khó tìm.

HỎI: Gì là pháp giới?

ĐÁP: Không bờ mé để chỉ bày được gọi là pháp giới.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Wandering

My treasure is the cloud on the peak

The moon over the valley

Traveling east or west

Light and free on the one road

I don’t know whether I’m on the way

Or at home.


Muso Soseki (1275-1351)
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
CHÚ MÈO CÓ TÊN LÀ "PHÁP" (DHARMA THE CAT)

Tuyện Thiền bằng tranh :

www.quangduc.com

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
VẬY À

Một thời, trong một làng ở thôn quê, một cô gái mới lớn tự nhiên mang bầu .
Cha mẹ và làng tra xét, cô gái khóc miết và cuối cùng chỉ đến một vị Thiền Sư (Hakuin) .
Dân làng trình bày sự việc với Thiền Sư .
Thiền Sư đáp : "VẬY À", rồi im lặng .

Cả làng khinh bỉ vị Thiền Sư .
Sau một thời gian vì thấy Thiền Sư bị khổ, nhục quá, cô gái thú nhận đã thông dâm với một trai làng .

Cả làng đến trình bày sự thật và hối hận đã để Thiền Sư bị hàm oan .

Thiền Sư đáp: "VẬY À", rồi im lặng .

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Thiên Đàng - Địa Ngục

Kiếm Sĩ Nobushige đến gặp Thiền Sư Hakuin hỏi:
"Thưa ngài, có Thiên Đàng và Địa Nguc không ?"

TS Hakuin hỏi:
"Anh là ai ? "

Nobushige đáp:
"Tôi là Kiếm Sĩ ."

TS Hakuin nói:
"Anh là Chiến sĩ hả ? Vị Tướng quân nào mà đi tuyển một vệ binh như anh ? Trông anh như một người ăn xin ! "

Nobushige nổi giận và có ý muốn dùng kiếm .

TS Hakuin nói tiếp:
"Anh có kiếm hả ? Vũ khí của anh có lẽ đã quá cùn để cắt đầu tôi ."

Nobushige rút kiếm ra .

TS Hakuin nhắc nhở:
" Đó, cửa Địa Ngục đã mở ."

Khi nghe những lời này, Nobushige tỉnh ngộ, buông kiếm vái chào TS Hakuin .

Thiền Sư Hakuin liền nói :
"Cửa Thiên Đàng đã mở ."

----------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Những bài học về Diệu Tâm
(hay Phật tánh)


Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam
--------------------------------------------------------------------------------

‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’ ( Nguyễn Du) v..v.. Nhưng ‘tâm’ là cái gì , ở đâu v..v..thì không ai chỉ được ; thậm chí ngài A Nan , một trong 10 vị đệ tử lớn của Phật, được tiếng là học rộng biết nhiều (đa văn đệ nhất) cũng bối rối khi bị Phật truy hỏi cho tới cùng về cái ‘chơn tâm’, ngài A Nan trả lời bảy lần trật hết cả bảy và bị Phật quở luôn ! ( sau đó thì ngài đã ngộ được và ứng khẩu đọc bài kệ đắc pháp của ngài

‘ Diệu trạm tổng trì bất động tôn
Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu ..’

v..v..) Như vậy việc chúng ta ‘chịu thua’ không biết Tâm là gì và tâm ở đâu thì cũng là chuyện bình thường. Người viết bài này không có tham vọng viết về cái ‘chơn tâm’ của kinh Lăng Nghiêm nhưng muốn chia xẻ đến các bạn những ‘mô tả’ , những tên gọi về Tâm mà những bậc minh triết trong những thời đại khác nhau, ở những đất nước khác nhau đã nêu lên , để từ đó chúng ta rút ra được những bài học về sự tu tập chân chính , làm hiển lộ cái tâm vi diệu, kỳ diệu đó, (tạm gọi một cách ngắn gọn là cái ‘diệu tâm’ ) đem lại an lạc cho chính mình và mọi người chung quanh mình .

Trước hết , Tổ Bồ Đề Đạt Ma ( 528) , vị tổ thứ 28 của Ấn Độ tính từ đức Thế Tôn hay là vị tổ đầu tiên của Trung Hoa ( Sơ Tổ) đã dạy môn đệ của ngài ( được ghi lại trong ‘huyết mach luận’- một trong 6 bộ luận của bộ sách ‘Thiếu Thất Lục Môn’ ở Nhật ) (1) :

Tánh tức là Tâm,

Tâm tức là Phật ,

Phật tức là Đạo

Đạo tức là Thiền

Nói ngược trở lại thì tâm tức là tánh và thấy tánh là thành Phật , và con đường ( đạo) đi đến thấy tánh là Thiền (‘tánh’, nói cho đầy đủ là ‘tánh giác’) .

Thiền Phật giáo, như chúng ta thường được nghe nói đến , là chủ trương ‘ bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền , trực chỉ chân tâm , kiến tánh thành Phật’ ( đại ý là không cần chữ nghĩa ,giáo lý, mà chỉ thẳng vào chơn tâm ,thấy tánh là thành Phật ) . Thật vậy, ai mà không thích thú khi được nghe câu chuyện trên núi Linh Thứu (Linh Sơn) khi đức Thế Tôn đưa cành hoa lên thì ngài Ca Diếp mĩm cười ( ‘niêm hoa vi tiếu’) , trong khi hội chúng chưa ai có phản ứng gì , và đức Thế Tôn đã truyền y bát cho ngài Ca Diếp làm vị tổ thứ hai từ đó .

Trong thời đại của chúng ta , Sogyal Rinpoche ,một vị thầy Tây Tang, người đã được thụ huấn với nhiều vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời cũng được hấp thụ nền giáo dục tân tiến của tây phương , người đã thành công khi đem Phật giáo Tây Tạng giảng dạy ở phương tây với lề lối tư duy của họ mà ngài đã quen thuộc . Ngài nêu ra ‘4 lỗi ’ làm cho ta không thể thấy được chơn tâm (cái mà ngài gọi là ‘tự tính tâm’ và Bồ Đề Đạt Ma gọi là ‘ tánh’ hay đức Phật gọi là ‘chơn tâm’ đó ) : (2)

Tự tính tâm quá gần gũi đến nỗi ta khó nhận ra

Nó quá sâu xa nên ta khó dò cho thấu

Nó luôn luôn có mạt hiện tiền , nó quá dễ ta không tin nổi

Nó quá bao la ta không dung chuía nỗi

Những phân tích này của Sogyal Rinpoche có phải nhắc ta nhớ đến Lục Tổ Huệ Năng (638-713) - vị tổ ‘tướng mạo quê muà nhưng trí tuệ phi thuờng’ - khi đựơc ngũ tổ khai thị rồi, cũng hân hoan thốt lên những lời nói về ‘tự tánh’ tức là ‘chơn tâm’ trong kinh Lăng nghiêm, và cũng là ‘tự tánh tâm ‘ của Sogyal vậy : (3)

đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh

đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt

đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ

đâu ngờ tự tánh vốn không dao động

đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp

Lời phát biểu của Lục Tổ giúp chúng ta liên hệ đến lời dạy của đức Phật về ‘Thường, Lạc, Ngã, Tịnh’ trong Diệt Đế : đó là tự tánh thanh tịnh hay là cái ‘chân ngã’ - tâm như một tấm gương trong sáng ( vốn tự thanh tịnh) có khả năng chiếu sáng kỳ diệu bất cứ vật gì đi ngang qua nó ( vốn tự đầy đủ , hay sanh muôn pháp ) một cách bình đẳng và trung thực ,không phân biệt, không phản ứng ( vốn không dao động)

Những tiếng reo vui của Lục tổ nhắc nhở ta nhiều trong việc tu tập . Thật vậy, chúng ta cố gắng trong đời sống hằng ngày , trong ăn ,uống, ngủ ,nghỉ , đi đứng, nằm ngồi v..v.. an trú trong ‘tự tánh tâm’ càng nhiều càng tốt . Cụ thể, khi nghe ai phê bình hay trách móc mà ta nổi ‘tam bành lục tặc’ lên chẳng hạn, ấy là ta đã biến tâm thanh tịnh thành tâm của loài tu la ( quỷ chiến đãu) rồi ! Nếu chúng ta cố gắng sống trong chánh niệm ,tỉnh thức, theo dõi tâm và giữ gìn cho tâm bớt dao động thì một ngày kia ta cũng có thể làm hiển lộ bản tâm thanh tịnh , nói cách khác, có thể an trú thuờng trực trong đó như chư Phật vậy .

Sau Lục Tổ Huệ Năng 10 thế kỷ, thiền sư Nhật Bankei ( 1622-1693) cũng nói : ‘Tâm là một cơ cấu năng động , nghề của nó là phản chiếu , ghi lại và hồi tưởng những ấn tượng về thế giới bên ngoài ; nó như một loại gương soi sống động ,luôn luôn vận hành , không bao giờ ở yên từ giây phút này sang giây phút kế tiếp . Trong cái tâm như gương sáng này những ý tưởng đến rồi đi , sinh ,diệt rồi tái sinh tùy hoàn cảnh, tự bản chất chúng không tốt cũng không xấu’ hay : ‘ vì tâm Phật đang chiếu sáng kỳ diệu trong tất cả mọi người nên bạn có thể học hỏi đủ thứ , ngay cả những hành vi lầm lạc . . . ‘ (4) Ở đây , Bankei gọi ‘tâm’ là ‘Tâm Phật bất sinh’ Thật là thú vị khi đuọc nghe lời dạy của các bậc Thầy nói ‘mỗi người một kiểu’ nhưng cốt lõi thật là giống nhau về bản chất của TÂM - tức là ‘tự tánh tâm’ , ‘chơn tâm’ , ‘tâm Phật bất sinh’ hay ‘tự tánh’ v..v.. cũng chỉ là Một mà thôi .

Đọc Bankei, ta thấy vị thiền sư Nhật này ‘gặp gỡ’ Lục Tổ Huệ Năng ở rất nhiều điểm . Ví dụ như ‘nhất hạnh tam muội’ của Lục Tổ thì Bankei gọi là ‘thực chứng tâm Phật sống động’ , ông nói : ‘với một người thực chứng tâm Phật một cách rốt ráo thì khi vị ấy đi ngủ cũng đi ngủ với tâm Phật, khi dậy là dậy với tâm Phật , khi đi là đi với tâm Phật, khi đứng là đứng với tâm Phật , khi nằm là nằm với tâm Phật , khi ngồi là ngồi với tâm Phật, khi nói là nói với tâm Phật , khi im lặng là im lặng với tâm Phật , khi ăn cơm là ăn cơm với tâm Phật, khi uống trà là uống trà với tâm Phật , khi mặc aó là mặc áo với tâm Phật v..v.. Vào mọi lúc, vị ấy an trú liên tục trong tâm Phật , vị ấy hành xử ung dung tùy theo hoàn cảnh , cứ để mọi sự theo cách tự nhiên của chúng; chỉ cốt là không làm những việc ác, làm những việc lành . . . . nhưng không tự hào về những việc lành của mình ,không bám víu vào đó và ghét cái xấu , vì như vậy là đi nguợc tâm Phật . Tâm Phật không thiện cũng không ác, mà vận hành vượt ngoài cả thiện ác . . . (5)

Tương tự, Lục Tổ Huệ năng và thiền sư Bankei còn gặp nhau ở ‘tự tánh bất động’ Lục Tổ dạy : Này thiện tri thức, người mê tuy thân bất động nhưng mở miệng liền nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người (tức là) cùng đạo đã trái nhau , chấp tâm, chấp tịnh tức là chướng đạo . Này thiện tri thức, sao gọi là toạ thiền ? Trong pháp môn này không chuớng không ngại; ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là TOẠ, trong thấy tự tánh chẳng động gọi là THI"N . Ngài nhấn mạnh : tọa thiền không phải là ngồi một chỗ nhắm mắt lại chỉ cần ‘thân yên’ là được đâu :

Khi sống, ngồi chẳng nằm,

Chết rồi nằm chẳng ngồi

Một bộ xương mục thúi

Có gì gọi công phu ? (6)

Bankei cũng căn dặn đệ tử : rán sức tu hành, cố toạ thiền . . . để được giác ngộ đều sai . Không có gì khác nhau giữa tâm của chư Phật với cái phật tâm nơi mỗi chúng sanh . Mong cầu đạt giác ngộ là tạo ra một sự phân hai thành ra có người đựơc giác ngô và chân lý được giác ngộ. Khi còn đeo đẳng một chút nào cái ước muốn đạt giác ngộ ,thì lập tức đã giả từ cái bất sinh , đi nguợc lại tâm Phật . . . . Cái gì không vướng vào thế giới bên ngoài chính là tâm Phật ’ . (7)

Rõ ràng Lục Tổ và Bankei, hai nguời đã nói theo ngôn ngữ của thời đại mình nhưng nội dung chuyên chở Đạo thì y hệt nhau ; và tư tưởng của hai ngài cũng không khác câu chuyện ‘mài ngói làm gương soi’ giũa Mã Tổ và Nam Nhạc là bao nhiêu :

Mã Tổ đạo Nhất ( 709-788) là một thiền sư rất nổi tiếng , (môn đệ của ngài đông hơn của ngài Huệ Năng nữa) đang ngồi thiền trong am thì sư Nam Nhạc đi đến và hỏi :

- Đại đức ngồi thiền để làm gì ?

- Để làm Phật

Sư bèn cầm một miếng ngói đến trước am ngồi mài trên phiến đá, Mã Tổ hỏi :

-Sư mài ngói để làm gì ?

- Để làm gương

- Mài ngói sao thành gương được ?

Sư đáp: còn ngồi thiền há thành Phật được sao ?

v..v.. ( 8)

Tất nhiên câu chuyện còn dài , chỉ xin trích ra một đọan để thấy cái ý giống nhau giữa những bậc minh triết khi chỉ điểm về Tâm, về Đạo v..v..

Thực tập bài học này ,ta không chỉ ngồi thiền mà thôi, vì đó chỉ mới là ‘thân yên’ chưa đủ, còn phải ‘tâm yên’ nữa, nghĩa là theo Lục Tổ thì ‘ đừng thấy lỗi nguời, chỉ nên thấy lỗi mình thì mọi việc trong ngoài mới gọi là ‘kìa tướng’ và ‘bất động’ được ; và theo Bankei thì đừng khởi mong cầu , dù là mong cầu được giác ngộ ,đừng bị vướng mắc ,dao động bởi bất cứ gì khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài , hãy để cho những ham muốn, , giận hờn, phiền não v..v.. đến rồi đi tự nhiên như những đám mây đến ,đi trong bầu trời - hình ảnh rất quen thuộc với tất cả chúng ta . Những đám mây không phải là bầu trời, và không ‘thuộc về’ bầu trời, chúng chỉ lơ lửng giữa không gian và không lệ thuộc vào đâu ,nhưng chúng không bao giờ có thể để lại dấu vết làm lấm lem bầu trời trong sáng .

Vị thầy Tây Tạng Sogyal Rinpoche còn phân tích rõ ràng hơn khi phân biệt ‘Tâm và tự tánh của Tâm’ : có nhiều phương diện của Tâm , nhưng hai phương diện nổi bật nhất đó là ‘cái Tâm thông thuờng’ (Sem) và ‘Tâm bản nhiên’ (Rigpa) ‘Tâm thông thường’ là cái tâm có khả năng phân biệt, có ý thức về nhị nguyên ( tốt-xấu ,yêu -ghét, lấy -bỏ v..v..) .Đó là cái tâm suy nghĩ, đạt kế hoạch ,ham muốn, cái tâm bừng lên trong cơn giận dữ, cái tâm tạo ra những đợt sóng say mê hay tư duy và cảm xúc tiêu cực , cái tâm cứ luôn luôn quyết định, đánh giá, và xác định sự hiện hữu cuả nó bằng cách cắt xén, đặt tên củng cố kinh nghiệm v..v.. Còn cái ‘tâm bản nhiên’ là cái tuyệt đối không dính dáng tới đổi thay và chết chóc ( thường còn và không sinh diệt) ; đó là sự tỉnh giác trong sáng uyên nguyên của trí tuệ giải thoát ,có tính sáng chói và luôn luôn tỉnh thức . Đừng tưởng rằng ‘tâm bản nhiên’ chỉ có trong tâm ta mà thôi; kỳ thực nó là bản chất của mọi sự vật , vì vậy, trực nhận bản tính tự nhiên của Tâm cũng chính là trực nhận bản tính tự nhiên của mọi sự vật, hiện tượng . Sogyal còn bảo rằng ‘tâm bản nhiên ‘ này là ‘Thượng Đế’ đối với người Ky Tô và Do Thái giáo, là ‘đại ngã’ hay ‘Shiva’ hay ‘Brahman’ hay ‘Vishnu’ của Ấn Độ giáo, là ‘Tinh chất ẩn nấp’ đối với những nhà thần bí học ‘Sufi’ -còn Phật tử thì gọi là ‘Phật tính’ ((9)

Bài học ở đây là chúng ta thực tập sống tỉnh thức để không bị tâm bình thường lôi kéo theo thất tình lục dục, cân đo đong đếm, tính toán thiệt hơn v..v.. mà sống gần với bản tâm thanh tịnh ,nhìn mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc đời như một tấm gương trong sáng , phản ánh trung thực ‘như-nó-là’ ( as-it-is) không thêm bớt, vẽ vời, suy diễn v..v.. vì theo Sogyal Tâm Phật (hay Phật tính, hay Tâm Bất Sinh v..v..) luôn luôn hoàn hảo; ‘ngay cả chư Phật với trí tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được và chúng sanh với tất cả vô minh có vẻ bất tận ,cũng không thể làm cho nó lấm lem’

Để kết luận , xin mượn lời của Thầy Sogyal xác định ‘chỗ ở’ của tâm : (10)

‘Vậy thì Tâm- Phật tính- đích thực nằm ở đâu ? - nó nằm ngay nơi tự tính của tâm , cái tự tính được ví như bầu trời ấy . Hoàn toàn cởi mở ,tự do, vô biên . Phật tính ấy thật đơn giản, tự nhiên như nhiên tới nỗi không bao giờ có thể trở thành phức tạp, ,hư hỏng hay bị nhiễm ô , nó thuần tịnh tới nỗi vượt ra ngoài cả ý niệm dơ sạch . . . nhưng nói về tự tánh tâm ví như bầu trờI chỉ là một ẩn dụ để giúp ta tưởng tượng được tính chất bao la vô biên bao trùm tất cả của nó nhưng Phật tính còn có một tính chất mà bầu trời không có được, đó là tính sáng chói của tỉnh thức , biết nhận thức mà vẫn trống rỗng, giản đơn mà sáng suốt :

. . . .

Sinh tử không làm nó xấu hơn

Niết bàn không làm nó tốt hơn

Nó chưa từng sinh

Nó chưa từng diệt

Chưa từng giải thoát

Chưa từng mê lầm

Chưa từng có, cũng chưa từng không

Nó không có một giới hạn nào

Không thể xếp nó vào một phạm trù nào cả

. . .

Chú thích:

(1) Thiền Luận Suzuki , quyển Thượng, Trúc Thiên dịch , chú ,1992, tr. 374

(2) Tạng Thư Sống Chết , Sogyal Rinpoche ,quyển 1 , ni sư Trí Hải dịch , 1996 tr.124

(3) Kinh Pháp Bảo Đàn

(4) Tâm Bất Sinh , Bankei ,ni sư Trí hải dịch , 1997 , tr. 36-37

(5) Tâm Bất Sinh , tr. 164-165

(6) Thiền Luận Suzuki tr. 376

(7) Tâm Bất Sinh ,tr. 145-146

(8) Thiền Luận Suzuki ,tr. 377

(9) Tạng Thư Sống Chết, tr. 117-119

(10) Tạng Thư Sống Chết ,tr. 122
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
NHỮNG BÀI HỌC PHẬT PHÁP

Nguyên tác: Claudia Kalb
Việt dịch: Trần Như Mai

Vào tuổi 39, Janet Clarke khám phá rằng cô đã bị bướu cột sống khiến cô đau lưng triền miên. Các loại thuốc giảm đau cũng có giúp cô đôi chút, nhưng mãi cho đến khi cô tham dự một khóa Thiền tập ở Lytham, cô mới khám phá ra một vũ khí lợi hại bên trong cơ thể của mình : đó là tâm của cô. Bằng cách thực tập một phương pháp gọi là “ Giảm Căng Thẳng Bằng Phép Tỉnh Thức”( Mindfulness-Based Stress Reduction – MBSR ) , Clarke đã học cách để chấp nhận cơn đau thay vì chống đối nó. Cô nói “Đây là phương pháp dạy cho bạn cách tiếp cận với cơ thể chứ không phải với đầu óc của bạn. Phương pháp Tỉnh Thức đã cho bạn một điều mà thuốc giảm đau không thể có được – đó là thái độ sống thế nào cho đựơc an lạc”.

Bắt nguồn từ những truyền thống Phật giáo cổ đại, phương pháp Tỉnh Thức giờ đây đã có chỗ đứng như một loại thuốc giải độc chữa được nhiều thứ bệnh, từ căng thẳng thần kinh loại A (mãn tính) đến bệnh trầm cảm. Tại Trung Tâm Thực Tập Phép Tỉnh Thức trong Y Khoa, Chăm sóc Y tế và Xã hội ở Đại học Massachusetts, nơi mà Giáo sư Jon- Kabat-Zinn đã phát triển phương pháp “ Giảm Căng Thẳng Bằng Phép Tỉnh Thức”, có 15,000 người tham gia khoá Thiền tập trong 8 tuần, và hằng trăm người khác đã ký tên tham dự tại các trung tâm y tế khắp Hoa Kỳ. Bây giờ, các khoa học gia đang sử dụng kỹ thuật hiện đại nhất để chụp hình não bộ và thử máu để nghiên cứu kết quả sinh học của Thiền định. Cuộc nghiên cứu đang thu hút sự chú ý ở các cấp cao nhất : Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng quan tâm đến nỗi Ngài đã tham gia lực lượng nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Tâm Thức và Đời Sống ở Boulder, Colorado.Viện này đang bảo trợ công trình nghiên cứu về Thiền và Tâm. Tháng tới, các khoa học gia sẽ gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Dharamsala, Ấn Độ, để tham dự một hội nghi lớn về “ Tính nhu nhuyến của thần kinh não bộ”. Nhà tâm lý học Ruth Baer thuộc Viện Đại học Kenntucky nói “ Người ta thường nghĩ rằng đây là một việc rất thiếu thực tế và huyễn hoặc. Bây giờ họ lại bảo, ‘Này, chúng ta nên bắt đầu chú tâm đi nhé.’ ”

Chú tâm là cốt lõi của phép Tỉnh Thức. Trong 45 phút Thiền tập, các tham dự viên đã quan sát những ý niệm lăng xăng của tâm và các cảm giác của cơ thể. Nguyên tắc chỉ đạo là phải hiện hữu trong từng giây phút, phải nhận biết những gì đang xảy ra nhưng không phân tích hay phán đoán. Điều này không dễ. Các Phật tử thường gọi cái tâm lăng xăng ấy là ‘tâm vượn”, cái tâm vượn này đã miên man dẫn dắt ý niệm của ta đi từ những nuối tiếc quá khứ đến những lo âu về tương lai, khiến ta còn rất ít thời giờ cho phút giây hiện tại ở nơi này. Những nỗ lực Thiền tập lúc đầu có thể làm ta thất vọng (“Tôi sẽ không bao giờ Thiền dược”), thiếu kiên nhẫn (“Bao giờ thì xong đây ?”), và ngay cả những khởi niệm tầm thường như (‘Tôi sẽ làm món gì cho bữa ăn tối ?). Tuy nhiên, mục đích không phải là đạt đến Niết Bàn, nhưng là để quan sát những ý niệm hổn tạp ấy bằng thái độ từ bi, chấp nhận chúng như những cái thoáng qua, “ giống như bọt nước trong bình, hoặc những áng mây báo hiệu thời tiết trên bầu trời”, giáo sư Kabat-Zinn đã nói như vậy.

Trọng tâm của phương pháp Tỉnh Thức là thực hành Thiền định mỗi ngày, nhưng chủ đích là làm cho Thiền tập trở thành một lối sống. Ở Đại học Stanford, Giáo sư Philippe Goldin khuyến khích các bệnh nhân đang chiến đấu với căn bệnh “ lo âu về xã hội ” nên có “những giây phút ngừng suy nghĩ đầy ý nghĩa” (Thiền) trong suốt ngày như là một cách theo dõi và kiểm soát nỗi sợ hãi và hoài nghi của chính họ. Kiểm soát nội tâm có thể là một phương pháp rất hữu hiệu trong việc đối trị mọi căn bệnh mãn tính. Trong một cuộc nghiên cứu thử nghiệm 18 người phụ nữ mập phì, vị Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Sức Khỏe, Tôn Giáo và Tâm Linh , giáo sư Jean Kristeller đã tìm thấy rằng phương pháp Tỉnh Thức, được tăng cường bằng các phương pháp ăn trong chánh niệm ( như là chậm rãi thưởng thức hương vị của miếng phô-mai ), đã giúp các bệnh nhân giảm thiểu việc ăn uống quá độ của họ từ trung bình 4 lần một tuần xuống còn 1 lần rưỡi một tuần.

Phương pháp Tỉnh Thức giúp bạn thoát khỏi khuôn sáo của nếp sống cũ. Bạn không còn chiến đấu với tâm của mình như một kẻ đang đấu võ trên võ đài – mà bạn đóng vai khán giả ngồi trên hàng ghế để quan sát tâm của bạn một cách thích thú. Sự tách rời này không làm bạn trở nên thụ động nhưng sẽ đưa bạn đến những cách suy nghĩ mới. Điều này đặc biệt hữu ích đối với bệnh trầm cảm, là chứng bệnh đã dày vò bệnh nhân bằng những suy tưởng khắc nghiệt. Giáo sư tâm thần học của Đại học Toronto là Sindel Segal, cùng với các đồng nghiệp người Anh là John Teasdale ở Đại học Oxford và Mark Williams ở Đại học Cambridge, đã kết hợp phương pháp Tỉnh Thức với “ nhận thức ứng xử trị liệu pháp” theo truyền thống và dạy cho bệnh nhân quan sát nỗi buồn hay đau khổ của mình mà không phê phán. Trong một cuộc nghiên cứu các bệnh nhân đã phục hồi sau một giai đoạn bị trầm cảm, Segal và các đồng nghiệp tìm thấy rằng 66% những người có thực hành Thiền tập vẫn giữ được trạng thái tâm thần ổn định trên một năm (không bị tái phát bệnh cũ), so sánh với 34% đối với nhóm không thực tập phép Tỉnh Thức.

Ảnh hưởng sinh học của phép Tỉnh Thức là phạm vi kế tiếp trong nghiên cứu khoa học. Trong một công trình nghiên cứu đã được xuất bản nhiều năm trước, giáo sư Kabat-Zinn tìm thấy rằng khi các bệnh nhân mắc bệnh vẩy cá nghe băng nhạc Thiền trong lúc được chữa trị bằng tia cực tím, họ đã lành bệnh nhanh hơn gấp 4 lần nhóm bệnh nhân không được nghe nhạc Thiền. Gần đây hơn, giáo sư Kabat-Zinn và nhà thần kinh học Richard Davidson của Viện Đại học Wisconsin tìm thấy rằng sau 8 tuần thực hành phương pháp Tỉnh Thức, một nhóm nhân viên ngành kỷ thuật vi sinh học đã chứng tỏ có sự gia tăng hoạt động của vỏ não trái phía trước – đây là vùng não bộ được liên kết với trạng thái tinh thần vui vẻ hạnh phúc - nhiều hơn những đồng nghiệp không thực tập Thiền. Những người có thùy não trái hoạt động nhiều nhất thì cũng gia tăng số lượng các kháng thể có sức chống trả mạnh nhất đối với với thuốc chích ngừa bệnh cúm.

Còn nhiều điều mới đang được khám phá. Giáo sư Goldin của Đại học Stanford đang sử dụng kỹ thuật hiện đại nhất để chụp hình não bộ để tìm xem có phải phương pháp Tỉnh Thức có ảnh hưởng đến những điểm kích động tình cảm không, ví dụ như là hạch amygdala nối với thùy não bên phải có liên hệ đến việc xử lý sự sợ hãi. Và tại Đại học Maryland, Bác sĩ Drian Berman đang nghiên cứu các mức độ sưng khớp của các bệnh nhân thấp khớp đang thực tập phép Tỉnh Thức. Một người trong số đó là cô Dalia Isicoff đã nói rằng “ Kết quả quá rõ ràng, tôi cảm thấy thân và tâm đều an lạc.”
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Source: Buddha Lessons ( Newsweek International, October 4 / 2004 Issue )
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Thánh Nhân và Trẻ Thơ giống nhau ở chỗ nào ?

TRONG SÁNG và TINH THẦN TƯƠI ĐẸP

YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI ngay cả đến Thú Vật nữa .


Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Thấy, Hiểu, Biết, Hành không qua bộ não mới là Thấy, Hiểu, Biết và Hành đúng . Đó là đã qua đến bến bờ bên kia . Phàm nhân gọi những người này là Thánh . Các Tổ vẫn nhắc nhở, còn dùng đến nhận thức của não là chưa giác ngộ .
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
"THẤY CHỖ KHÔNG THẤY MỚI LÀ THẤY"

Sự thấy không dùng NHÃN CĂN :

THIÊN NHÃN -> HUỆ NHÃN (TUỆ NHÃN) -> PHÁP NHÃN -> PHẬT NHÃN .

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Tình yêu

Một vị sư già sau thời gian dài hoạt động tích cực, được cử làm sư tuyên huấn tại trường chuyên nữ. Trong những buổi thảo luận nhóm, ông nhận thấy tình yêu thường là đề tài chính.

Đại khái, sư khuyên các cô:

- Hãy biết sự nguy hiểm của cái gì quá độ trong đời mình. Đánh nhau giận dữ quá dễ sanh khinh suất và mất mạng. Tín ngưỡng quá mạnh thành hẹp hòi và kỳ thị. Yêu đương say đắm quá thường tạo ra những hình ảnh mơ mộng về người yêu, những hình ảnh rốt cuộc cho thấy không thật nên nảy sinh sân giận.

Yêu quá giống như liếm mật trên đầu mũi dao.

Một cô hỏi sư:

- Nhưng thầy sống độc thân, làm sao biết được tình yêu nam nữ?

Vị sư già đáp:

- Các con ạ, sẽ có lúc thầy kể các con nghe tại sao thầy đi tu.

--------------------------------------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Biến thành nhái

Cô đào chiếu bóng nhìn vào hồ nước trong, thấy một khuôn mặt thiệt đẹp, hàm răng thiệt đẹp và thân hình cũng cân xứng nữa.

Cô hỏi:

- Ôi, sao mình không thành minh tinh?

Bỗng một chú nhái đáp:

- Tôi giúp cô thành minh tinh được.

Cô đào la:

- Mi là ai?

- Tôi là nhà sản xuất điện ảnh nổi tiếng thế giới. Tôi mướn một cô đào đóng vai phù thủy, hóa ra cô ta là phù thủy thiệt và cổ biến tôi thành nhái đây.

- Tôi làm sao giúp ông? Rồi tôi được gì?

Nhà sản xuất nhái đáp:

- Nếu cô làm nhái thay tôi, bùa phép sẽ giải được, tôi lại làm nhà sản xuất phim nổi tiếng thế giới và cô sẽ xuất hiện trên phim ảnh tôi sản xuất.

Cô đào (không mấy thông minh) liền đáp:

- Đồng ý.

- Đó, xong rồi. Cám ơn nhé!

Nhà sản xuất điện ảnh trở lại hình người liền cám ơn.

Cô đào nhái hỏi:

- Nhưng còn tôi khi nào mới được đổi hình?

Nhà sản xuất đáp:

- À, em cưng ơi… đó chính là chỗ uẩn khúc.

Tuy nhiên, đúng như lời ông hứa, nhà sản xuất tiếp tục ra nhiều bộ phim rất thành công và mọi người đều biết ông có thói quen lạ đời luôn luôn dành vai cho một chú nhái đóng trong phim mình.


Lời bàn:

Hãy hết sức cẩn thận khi ước ao muốn trao đổi số phận mình với một người nào. Lời ước có thể thành sự thật đấy.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Bài học tập nhảy

Thiền sư đưa nhóm đồ đệ khóa chuyên tu vào núi. Phần lớn các thiền sư trẻ xuất thân từ thành thị hoặc các nông trại, chưa biết gì về rừng núi.

Một người hỏi:

- Trong núi có thú vật không?

Người khác kêu:

- Phòng tắm đâu?

Thiền sư bảo:

- Ta vào đây để tiếp cận với thiên nhiên và chính mình.

Thầy dạy trò dựng trại và đốt lửa.

Suốt đêm gió gào rú, rồi một trận mưa lạnh ngắt trút xuống đám thiền sinh không lấy chi làm hạnh phúc lắm.

Sáng sớm, thiền sư dạy:

- Ngày hôm nay, mình sẽ bắt đầu bằng một buổi bơi lội ngoài trời. Cởi áo ra! Chúng ta sẽ nhảy cho ấm người lên.

Nhưng, thay vì ra suối, Thiền sư dẫn đám thiền sinh ngược một con đường mòn dốc, đến chỗ vách đá chìa ra trên cái hồ núi (nhảy từ đây làm ta khiếp vía thật, nhưng không nguy hiểm).

Thầy bảo đám đồ đệ đứng run rẩy:

- Có thể các con tưởng chúng ta đang tập thể dục. Không phải. Đây là một bài tập luyện tinh thần. Thầy muốn các con xếp hàng một cạnh nhau trên bờ vách đá và lần lượt nhảy vào hồ, cho chân xuống trước. Chuyên gia bơi lội phụ tá của thầy chực sẵn ở dưới, bảo đảm các con không chết đuối đâu. Nào, sắp hàng theo a b c và nhảy đi!

Sư Ashito khựng lại trên bờ vách đá, rồi khựng thêm lần nữa. Các thiền sinh hét:

- Nhảy đi chớ. Tụi tui lạnh cóng muốn chết đây!

Ashito la từ trên bờ vách cho đến khi rớt tung toé xuống hồ, trồi lên khỏi mặt nước và được đỡ lên bờ. Anh gọi vói lên cho các huynh đệ bên trên.

- Không sao hết!

Sau khi lau khô, sưởi ấm và ăn uống xong, cả nhóm họp mặt trong lều chính.

Sư Ashito hỏi:

- Thưa thầy, bài học tinh thần của chúng con sáng nay là gì?

Thiền sư dạy:

- Là con đường đưa đến giác ngộ. Trong lúc hành thiền, các con phải lột bỏ trần trụi hết, và phải can đảm. Hãy tin tưởng thầy mình. Bỏ lối suy nghĩ cũ của mình đi để tìm một tầm mức hiểu biết khác – như đứng tại chỗ khác với bơi vậy. Nên nhớ, các con không nhào đầu vô hồ. Chỉ bước vào trong không và được đưa xuống hồ. 

-------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Người đưa tin và bản tin

Một vị thầy dạy thiền rất uy tín tuyên bố trước lớp khóa đào tạo giảng sư thiền:

- Để tự nhắc mình, quý vị nên xâm vào mí mắt câu “Ta là người đưa tin, không phải bản tin. Ta cũng hệt như mọi người khác thôi”.

- Thưa, nghĩa là sao ạ?

- Tôi sẽ cắt nghĩa bằng một câu chuyện. Một ngôi thành bị vây ngặt và quân địch sẽ tàn sát hết dân chúng nếu viện binh không đến. Lúc tình thế đã có chiều tuyệt vọng, một người đưa tin lọt qua được vòng vây đem tin rằng đội quân Shogun sáng hôm sau sẽ tấn công, đánh đuổi địch quân. Nghe vậy, dân chúng quá đỗi vui mừng, nhiệt liệt hoan nghênh người đưa tin như anh hùng. Sau khi đội quân Shogun rút khỏi, họ bầu anh làm thị trưởng. Nhưng anh ta tuy có tốt bụng vui tính thật, lại chẳng đủ tài làm thị trưởng, nên không bao lâu bị hạ bệ, nhục nhã.

Bài học rút ra cho thấy đừng nên lẫn lộn bản tin – đây ý muốn chỉ món quà quý giá của Phật – với người đưa tin. Quý vị chỉ là người đưa tin thôi, không hơn không kém.

Mỗi khi quý vị khiến cử tọa phải sửng sốt với một bài giảng đầy trí tuệ, mỗi khi đồ đệ quý vị thành tâm thiện ý muốn rập khuôn theo quý vị, mỗi khi quý vị được xem là một nhân vật hết sức đặc biệt, xin hãy chú tâm đến lời xâm trong mí mắt mình: Ta là người đưa tin, không phải bản tin. Ta cũng hệt như mọi người khác thôi.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Khi Người Đẹp Đi Tu:

Ni cô Ryonen sinh năm 1797. Cô là cháu của một vị tướng quân nỗi tiếng của Nhật tên là Shingen. Nhờ thiên tài thi phú và nét đẹp quyến rũ mà năm mười bảy tuổi cô đã là một trong những hầu cận của Hoàng hậu. - tuổi trẻ đó, danh vọng mở ra chờ đón trước mắt cô. Nhưng Hoàng hậu đột ngột qua đời và những mộng ước của Ryonen tan theo mây khói. Cô nhận biết sự vật vô thường trong thế gian, và muốn tu học Thiền.
Họ hàng dĩ nhiên là không đồng ý và ép cô lập gia đình. Ryonen chỉ ưng thuận khi họ hứa sẽ để nàng toại nguyện tu hành sau khi sanh ba đứa con. Nàng thực hiện được điều đó trước khi hai mươi lăm tuổi. Vì thế chồng nàng và thân thuộc không thể nào cản trở được quyết tâm của nàng. Nàng xuống tóc cạo đầu, lấy pháp danh Ryonen, có nghĩa là liu ngộ, và bắt đầu cuộc hành hương tầm đạo.

Nàng đến thành Edo và xin thầy Tetsugyu nhận nàng làm đệ tử.

Nhìn qua, vị thiền sư từ chối ngay vì nàng đẹp quá.

Ryonen tìm đến vị thiền sư khác, tên là Hakuo. Hakuo cũng từ chối với cùng một lý do, bảo rằng sắc đẹp của nàng chỉ gây rắc rối.

Ryonen lấy một bàn ủi nóng áp lên mặt. Trong chốc lát vẻ đẹp của nàng vĩnh viễn biến mất.

Hakuo sau rốt nhận nàng làm đệ tử.

Ðể ghi nhớ chuyện này, Ryonen viết một bài kệ trên mặt sau của một tấm gương:

Khi chầu Hoàng hậu ta đốt trầm để xông hương xiêm y trau chuốc. Bây giờ làm kẻ khất thực không nhà ta lại đốt mặt để được vào thiền viện.

Ðến khi Ryonen gần viên tịch, bà viết một bài kệ khác:

Sáu mươi sáu lần đôi mắt này đã chứng kiến cảnh mùa thu thay đổi.

Ta đã nói nhiều về sáng trăng,

Ðừng hỏi thêm.

Chỉ lắng nghe tiếng nói của hàng thông và bách hương khi gió lặng.

-------------------------------------------
Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
DOING AND NON DOING

(LÀM VÀ KHÔNG LÀM GÌ CẢ)



Tôi có thể hiểu được cái khó khăn như thế nào để thực tập chánh niệm đối với một người mà họ sống trong một cuộc sống bận rộn. Tôi cũng không hoàn toàn chánh niệm được 100%, nhưng chánh niệm sẽ tốt hơn nếu quý vị có thể giảm bớt những hoạt động bên ngoài không cần thiết. Chúng ta lắng nghe những sai khiến của chính cái tâm mình và cứ mãi lẫn quẩn làm những điều mà tâm của mình bảo phải làm. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào tâm nhiều hơn thì chúng ta sẽ hiểu rằng mình không hoàn toàn tin vào tất cả những gì mà nó bảo mình phải tin, và chúng ta không mãi lẩn quẩn giống như điên để làm những gì mà tâm mong muốn. Không làm bất cứ điều gì dĩ nhiên không phải dễ, nhưng tôi tin rằng quý vị hiểu được điều đó từ kinh nghiệm của quý vị. Cái gì xảy ra đối với tâm quý vị khi quý vị không làm gì cả? Quý vị có quan sát một cách cẩn thận chưa? Hãy cố không làm gì cả trong vài ngày.

Thật vậy không làm bất cứ điều gì thật không phải dễ, đặc biệt là ở Mỹ, nơi đó công việc là điều chính yếu trong cuộc sống. Thật khó để sống trong một nơi thanh bình và chỉ thiền tập mà lại không có sự ủng hộ từ những người sống bên cạnh và và quý mến quý vị. Quý vị cần một cái tâm mạnh mẽ để làm được điều đó, nhưng nếu quý vị chắc rằng cái quý vị muốn quên là những gì mà những người khác suy nghĩ, cứ tiếp tục thực hành nó, Đức Phật đã làm như thế, hãy kể với tôi khi quý vị tìm ra được ngôi nhà thanh bình.

Chúng ta đã từng làm nhiều điều mà chúng ta lại không hiểu làm thế nào để nhìn một cách đơn giản, chúng ta muốn thay đổi nhiều điều và muốn làm cho nó phức tạp vì thế chúng luôn gặp rắc rối. Tôi không nói rằng đừng làm phức tạp và đừng thay đổi bởi vì khi đó quý vị đang cố để đừng phức tạp, hãy nhìn nó một cách đơn giản thôi. Người ta cảm thấy trống rỗng và vô ích, để che đây điều đó thì họ cố làm cho chính họ bận rộn, họ cảm thấy quan trọng khi họ bận rộn. Bận rộn, bận rộn, không cần thiết, quá điên cuồng, quá vô nghĩa, có phải có một cuộc sống thông minh ở trên trái đất này không? Sự thông minh là gì?

Cái tâm nó thích tồn tại ở quá khứ và tương lai, nó luôn luôn tìm kiếm những sự xao lãng, xem TV, nghe radio, ăn uống, nói chuyện, hút thuốc hoặc đọc sách. Thế chúng ta có thật sự yêu thích sự chánh niệm không. Ồ, vâng, nhưng ha ha, không có gì lấy làm lạ khi chúng ta thật nông cạn. Thay vì trốn chạy sự buồn chán thì quý vị có thể thực tập kiên trì ,quý vị sẽ nhận ra một loại tỉnh thức, sự cảnh giác, sự sống muôn màu, sự trong sáng. Khi đó tâm sẽ dễ dàng, nhưng hầu hết chúng ta đều đầu hàng, mình làm cho mình bận rộn. Khi chúng ta bận rộn, chúng ta lại cảm thấy rất hữu ích và quan trọng, khi chúng ta không làm gì cả thì lại cảm thấy vô ích, và hỗ thẹn, một số người lấy làm tự hào khi họ bận rộn. Trong những lúc kinh hành và chánh niệm thì thật nhiều khó khăn, quý vị nghĩ đến làm thế nào để phát triển tốt đẹp cái tình trạng hiện tại thì quý vị càng trở nên bất an, luôn luôn dự định cho tương lai “tôi sẽ hạnh phúc nếu tôi sống trong một nơi thích hợp” luôn luôn như thế… và không bao giờ “tôi hạnh phúc…”

Quý vị đang nói rằng: “Tôi đang lạc hướng” thế quý vị đang đi đâu? Nơi quý vị dự định đến bất cứ một nơi nào thì quý vị không thể lạc hướng, quý vị chính là nơi quý vị muốn đến. Ồ, tôi đang nói đùa, tôi hiểu quý vị cảnh giác như thế nào, và tôi đã nghe nhiều người nói như thế, thậm chí những người ở Burma cũng cảm thấy như thế. Chúng ta muốn cuộc sống của chúng ta khác hơn, nhưng thật ra chúng ta mong muốn cái gì? Không tiền bạc, không tiếng tăm, không quyền lực, có phải tốt hơn hết là đừng mong muốn bất cứ gì cả phải không? nhưng khi đó, người ta nói rằng, quý vị không có một động cơ và cũng không có bất cứ một đóng góp gì cả cho đất nước và cả loài người. Xã hội đòi h ỏi chúng ta phải làm một điều gì đó, phải mong cầu một cái gì đó, hay nói một cách khác thì chúng ta là một bộ xương lười biếng và vô dụng. Thật khó để ngồi yên lặng và nhìn những gì đang diễn ra, và để được chánh niệm.

Đừng làm gì cả và cũng đừng ưa thích để làm một điều gì, chúng ta đã lãng phí quá nhiều thời gian để làm việc này việc kia mà chúng ta thật sự không thích. Tôi đã già và quý vị cũng thế, không còn thời gian để lãng phí nữa. Tôi không muốn bận rộn, bận rộn là một cách sống lãng phí. Khi quý vị quá bận rộn thì quý vị trở nên quá dao động và không thể nhìn những gì đang diễn ra trong tâm của mình và không được chánh niệm. Do đó tôi không bao giờ muốn trở thành một người thầy bận rộn, tôi đã nhắn đến nhiều lần về điều này. Tôi đang làm những gì mà người ta cho rằng tôi không làm gì cả, nó thật tuyệt và tôi cũng cám ơn Đức Phật, Ngài là người đã làm được điều đó. Không làm gì cả thì không phải là chuyện dễ dàng, quý vị cố không làm gì cả thì thật sự quý vị đang làm. Nếu quý vị cố để hoàn thành một điều gì thì lúc đó quý vị thật sự đang làm, cái tôi của quý vị thì rất mạnh mẽ, nếu không làm bất cứ điều gì thì khi đó quý vị trở nên vô nghĩa trống rỗng. Không làm gì cả là một trạng thái của tâm mà nó được giải phóng từ cái tôi, hãy làm nhưng không phản kháng, không một cái tôi đang làm. Và cái điều quan trọng nhất là làm một việc gì mà không có một sự mong cầu trở lại. Hãy làm bất cứ điều gì với một sự quan tâm và cẩn trọng, tốt hơn là làm ít nhưng thật trọn vẹn.

Con chim tu hú đang kêu gù gù, thật êm dịu và ngọt ngào. Nó làm cho tôi hạnh phúc và vui vẻ, Ryokan nói rằng: “Cuộc đời tôi như một ẩn sĩ già kiệt sức, nghèo nàn, đơn giản, tĩnh lặng” tôi đã sống bên ngoài của sự bận rộn, sự ồn ào và cả thế giới điên cuồng kia, đừng làm cho mình bận rộn, hãy giảm bớt tất cả những hoạt động không cần thiết để có thời gian nghĩ ngơi, thư giãn và thiền tập.

-------------------------
U JOTIKA
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Tại sao?

Một vị sư đến thiền viện nọ, thông báo năm ngày nữa một giảng sư tài ba, tiếng tăm lừng lẫy sẽ viếng thăm.

Khi khách tới, thiền viện xầm xì bàn tán vẻ khác lạ của đoàn khách. Và hành vi họ cũng lạ lùng: đòi hỏi chỗ ở, than phiền thức ăn.

Vị sư thông suốt kinh điển lớn nhất thiền viện bảo:

- Sau buổi tọa thiền có cuộc luận đàm, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn vị “giảng sư” này.

Theo thông lệ đối với những giảng sư du phương, cuộc luận đàm thường xoay quanh những điểm còn mơ hồ, chưa sáng tỏ trong quá trình tu Phật, hoặc luận đàm những vấn đề chính yếu của triết lý thiền. Vị khách giảng sư chẳng nói gì. Ông để nhóm người theo ông mặc sức bàn luận hoặc bác bỏ. Lúc hai bên đến chỗ bế tắc thường quay sang ông hỏi ý kiến. Ông chỉ cau mày, im lặng hồi lâu, nói tiếng một:

- Tại sao?

Hai bên nghe hỏi bèn quay lại xem xét, đánh giá lần nữa các kết luận trước, và khi họ tiến đến một bước mới, lại quay sang vị khách giảng sư, và ông cũng vẫn im lặng. Tuy thế, sau một hồi nhắm mắt gật gù, ông lại hỏi:

- Tại sao?

Mọi người bèn đào sâu vấn đề hơn. Cứ một kiểu như vậy lập lại hoài. Các vị sư trưởng thiền viện băn khoăn, chẳng biết vị khách giảng sư cao thâm tới mức độ nào.

Dần dà, nhóm khách tu sĩ gây nhiều điều phiền toái. Khi tăng chúng khám phá họ lấy cắp đồ đạc quý bèn yêu cầu phải rời thiền viện.

Khách đi rồi, sự thật mới được tiết lộ từ ông tăng thiền viện lân cận:

- Nhóm tăng sĩ này bỏ đạo, chỉ bàn luận kinh điển giỏi thôi chứ chẳng tu hành gì được. Họ chuyên sống bằng nghề trộm cắp các nơi tu thiền còn cả tin, chưa kinh nghiệm.

Tăng chúng thiền viện xôn xao:

- Khủng khiếp! Thế còn vị thầy tài danh của họ? Làm sao ông có thể tham gia một vụ báng bổ đạo pháp như thế?

- Vị thầy nào?

Ông sư đưa tin tỏ vẻ khi dể :

- Ông ta chính là một kịch sĩ giải nghệ chẳng biết nói tiếng chúng ta, chỉ trừ một chữ “Tại sao?”.

-----------------------------------------------
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top