P

VƯỜN THIỀN

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Không Động

Du Tăng và đệ tử Bất Đạt, hai người lầm lủi băng qua những đám rẫy sắn ngút ngàn khi trời vừa tảng sáng. Đi hết đám lau lách um tùm, họ bước vào con đường nhỏ chạy men theo sườn đồi. Qua ba lần đổi dốc, họ bắt đầu luồn mình dưới những lùm cây thấp chằng chịt những lồ ô, giang, dứa dại, cỏ ống, dây leo...

Bất Đạt vai mang gùi, tay cầm rựa đi trước phạt đường, Nhà Sư đội nón chống gậy theo sau. Một lát sau, lùm cây bắt đầu mở rộng lộ một con đường hẹp dẫn đến bờ suối. Từ đây, hai thầy trò đi thẳng lưng.

Nắng sớm ửng hồng trên nền trời xanh biếc, gió thổi hiu hiu, xào xạc những chiếc lá trên cành. Nước chảy róc rách.

- Đến suối rồi Thầy ơi!

Nhà Sư bỏ xách trên vai xuống để trên tấm thạch bàn, lấy khăn lau mồ hôi tươm rỉ trên trán.

- Mới cách có hơn tháng mà cây cỏ đã bít đầy lối đi. Mệt lắm không con?

- Đường còn xa không hở Thầy? Con chưa thấm mệt đâu! Bất Đạt mỉm cười nói - Không Động! Không Động! Mới nghe đến cái tên thôi mà con đã thấy khỏe cả người.

Nhà Sư cười nhẹ không nói gì. Bất Đạt đưa mắt nhìn lên đỉnh Bạch Vân. Những cụm mây trắng bàng bạc trên những triền xanh xa bạt ngàn. Những đám khói do khí núi và sương mù buổi sớm đậu lơ lửng giữa thinh không. Toàn phong cảnh quả là một bức tranh thủy mặc vĩ đại, yên lặng và thanh bình. Tiếng chim rừng lảnh lót hòa âm những khúc điệu khi tục khi đoạn vang vang rất xa...

Bất Đạt nhảy ùm xuống suối bơi lội nhởn nhơ, nghịch, té nước. Lát sau, chú leo ngồi vắt vẻo trên một tảng đá cao.

- Đến đây, mình như lạc vào một thế giới khác, Thầy nhỉ? Đúng như mình vừa sanh vào một thế giới mới: cảnh giới thanh tịnh, hiền hòa, không một mảy may bon chen đầy hệ lụy. Thế mà từ lâu Thầy không cho con đi!

Nhà Sư điềm đạm nói:

- Từ đây, theo dòng suối đi lên, chừng nửa buổi ta sẽ đến Huyền Không Sơn Thượng, tức là đến Không Động. Con ạ, đừng vội háo hức, đừng vội mơ tưởng mà cũng đừng vội trách Thầy. Vì sao vậy? Vì Không Động thật sự nó khác với Không Động ở trong tâm trí của con, khác với Không Động ở trong ý-niệm-dự-phóng của con. Và nếu vậy, con sẽ thất vọng đấy. Ngoài ra, nếu trong lòng con mà chưa đạt được cảnh giới "không động" thì bất cứ cảnh giới Không Động nào trên trái đất này nó cũng đồng nghĩa với sinh diệt, là dukkha, là khó chịu đựng, là khó kham nhẫn cả!

Bất Đạt suy nghĩ một lát rồi hớn hở mang gùi lên vai:

- Đi, bạch Thầy, đi! Con thừa sức kham nhẫn cái "không động" ấy! Ôi! Thầy ôi! Con đã quá chán những câu chuyện về tiền bạc, sắn khoai; những chuyện về hình thức giao tế khách sáo, trống rỗng, những chuyện về đổi lợi mua danh... Ôi! Chúng quả là chán ngắt! Đi Thầy, đi! Hãy cho con mau đến đó, đến "không động" của chúng ta! Bất Đạt nói miên man - Để cho con ca với nắng sớm, để cho con hát với mây chiều, để cho con được sống một đời bay nhảy như chim, để cho con được ngủ yên trên những bờ suối mát, cho con được rong chơi giữa triền thung lũng xanh, được dẫm chân trên những tảng đá um rêu mịn màng, để cho con được thầm thì với núi rừng u tịch, để cho con trò chuyện với mây gió, với trăng sao, với hoa rừng cỏ dại, để cho con vốc đầy hai tay những vốc nước trinh tuyền không nhuốm mùi trần thế, để cho con không nghĩ đến chuyện đói cơm, rách áo, để cho con được sống thực, nói thực mà không hề ngụy trang bản ngã, để cho con được sống an lành với quê hương Không Động muôn nơi và muôn thuở của con người!

Bất Đạt khoa tay múa chân nói say sưa, dồn dập, không kịp thở. Nhà sư vỗ nhẹ lên vai chú:

- Con đã tuôn ra đấy những bất mãn, những muộn phiền, có phải không? Những bộc lộ của con là những phẫn nộ của một con thác tuôn tràn từ đỉnh cao, con biết thế không? Về với Không Động mà trong con đầy ắp những tâm sự, những bực bội, những bi quan như vậy thì làm sao thấy được Không Động hở con?

Bất Đạt sững lại. Nhà Sư dừng chân, tháo y ngoại bỏ vào xách, xắn y nội lên cao rồi chống gậy nhảy lên một tảng đá cao.

Bất Đạt reo:

- Hay quá! Thầy "phi thân"!

Nhà Sư cười:

- "Phi thân" cái gì! Từ đây đến Không Động, ta không còn đi được nữa, phải tập nhảy thôi!

Nói xong, Nhà Sư thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá khác. Rồi từ trên cao, Nhà Sư buông mình xuống một tảng đá thấp rất dễ dàng.

Bất Đạt phục quá. Chú không làm được như vậy mà chú phải bám chặt tay và leo lên từng chút một. Chú nói:

- Con là một trang nam nhi vai u thịt bắp mà đành thua một nhà sư "liễu yếu đào tơ" như Thầy!

Nhà Sư bật cười:

- Khéo ví von! Thầy chỉ quen thôi! Có lẽ con chưa nắm vững được kỹ thuật đề khí, khinh thân. Khi nhảy lên, bao giờ khí cũng tích tụ ở thượng phần đan điền. Khi buông mình xuống, khí cũng phải tích tụ ở thượng phần đan điền. Ngoài ra, bao giờ rơi xuống cũng lấy những ngón chân làm điểm tựa lò xo. Vậy đó, con đã thấu đáo cái "đạo lý" đó chưa?

Bất Đạt tròn mắt ngạc nhiên:

- Nhảy mà cũng có "đạo lý" sao Thầy?

- Đó là "cách nói"! Theo thái cực âm dương luận của đông phương thì khí dương nhẹ nên bốc lên, khí âm nặng nên trệ xuống. Tưởng là dương khí, tình là âm khí. Cũng vậy, theo nhà Phật chúng ta, bao giờ thượng phần sung mãn, nghĩa là có một đời sống tinh thần thanh cao với các trạng thái tâm như hỷ, lạc, khinh an, thư thái, xả, từ bi... thì kẻ ấy được thăng thiên. Trái lại, nếu hạ phần sung mãn, tức là một đời sống đắm nhiễm, tục lụy với các trạng thái tâm nặng nề như độc ác, xan tham, hung dữ, sân hận, tật đố, kiêu căng... thì kẻ ấy sẽ đọa xuống các cảnh giới tối tăm đau khổ. Con có hiểu không?

Bất Đạt nghe rất thấm thía trong lòng.

Nhà Sư nói tiếp:

- Như vậy, trong phép nhảy, phải biết lấy dương làm chủ âm, nghĩa là khí phải dồn lên cao độ ở thượng phần, thì sự rơi xuống sẽ nhẹ nhàng tựa chiếc lá rơi.

Nói xong, lại từ một tảng đá rất cao chênh vênh trên bờ vực, Nhà Sư buông mình xuống một mô đất cách đấy hơn ba mét mà chiếc thân vẫn bám trụ nhẹ nhàng trên mấy đầu ngón chân.

Bất Đạt vỗ tay tán thưởng:

- Tuyệt cú mèo! Hay Thầy là võ sư hiệp khí đạo?

Nhà Sư lắc đầu:

- Chẳng cần học hiệp khí đạo cũng làm được vậy khi ta thông lý thái cực. Hiệp khí đạo chú trọng ở khí, nghĩa là cao hơn các môn võ quyền cước chú trọng ở sức mạnh cơ bắp, gọi là tinh. Tuy nhiên, Hiệp Khí Đạo còn thua Thái Cực Quyền chú trọng ở thần. Tinh, khí, thần là cấp độ đi lên của đạo gia. Các đạo gia luyện tinh thành khí, luyện khí hóa thần, rồi thần hoàn hư, hư là trở về cái "không" của thái cực.

Bất Đạt chăm chú lắng nghe rồi hỏi:

- Còn Phật đạo thì sao hở Thầy?

- Phật đạo cũng có những bước đi như đạo gia nhưng hàm nghĩa tinh thần nhiều hơn. Cái tinh, cái thân thể, cái hình thức ấy chính là một đời sống giữ giới trong lành, thân khẩu ý an tịnh, không có hại mình, không có hại người, biết bố thí, sống đời phục vụ cho lợi ích chúng sanh. Cái khí chính là nuôi dưỡng các trạng thái tâm nhẹ nhàng, an lành, mát mẻ... tức là các thiện tâm và những tịnh quang tâm sở. Còn cái thần chính là tâm giải thoát, tuệ giải thoát chứ có gì lạ đâu!

Bất Đạt nhíu mày hỏi:

- Cái Thần của đạo gia, tức là cái "hoàn hư" đó khác với Phật đạo ra sao?

- Đạo gia bảo rằng: "Thần biến vạn phương" cho nên cái "hoàn hư" ấy chỉ là hư không trống rỗng và đầy khắp. Theo Phật đạo, cái thần và cái hư ấy tương đồng với các cảnh giới vô sắc: hư không vô biên hay là "không có gì cả"! Nếu họ không rơi kẹt vào đấy thì cũng kẹt vào hư không của nhiên giới, vô biên của bản thể, của vũ trụ, của đại ngã. Nói tóm tắt cho dễ hiểu, không rơi vào Thượng Đế vô ngã thì rơi vào Thượng Đế siêu nhiên!

Bất Đạt lại hỏi:

- Phật đạo cao hơn thế nữa chứ Thầy?

Nhà Sư mỉm cười:

- Phải! Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát thì cao hơn hết thảy các tôn giáo trên đời này. Nhưng cái cao ấy không nằm trong cặp phạm trù đối đãi cao và thấp. Nó ở trong tinh, khí, thần mà cũng siêu việt cả tinh, khí, thần. Nó bất khả lý niệm. Nó siêu việt cho đến nỗi: "Qua sông thì lội, lên dốc thì leo". Xem này!

Nói xong Nhà Sư chậm rãi bước qua những tảng đá thấp rồi cứ thế ung dung đi hoặc nhảy một cách bình thường.

Bất Đạt chăm chú nghe, nhìn, đến đây thì chú không còn hiểu được:

- Sao kỳ vậy Thầy? Cái thấp của đạo gia là tinh, khí, thần gì đó thì con làm chẳng được. Mà cái cao siêu bất khả thể tượng của Phật đạo thì con cũng làm được như chơi! Là sao kia?

Nhà Sư cười:

- Hà hà! Cao cho đến độ nó ở ngoài cả cái cao, cái thấp! Nó phi thường cho đến độ nom như cái bình thường, cái như thường! Khó hiểu, khó thấy quá, phải không con?

Vầng trán Bất Đạt càng lúc càng nhăn tít lại.

-----------------------------
Hải Vân

(còn tiếp)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Đến một chiếc hồ rộng, hai thầy trò nghỉ ngơi dưỡng sức. Bất Đạt hong khô mồ hôi một lát rồi nằm trên tảng đá, nước xâm xấp lưng. Nhà Sư lấy bi-đông nước mang theo uống từng ngụm nhỏ. Bất Đạt vừa đưa tay nghịch nước vừa nói:

- Suýt mấy lần con trượt chân vì rêu trơn. Khi qua nơi tảng đá hình sư tử, con đã bong chân, không thể đi được nữa mà phải lết, phải bò. Con đã mệt, đã đuối sức! Thầy mang gùi giúp con mà vẫn dẻo dai, nhanh nhẹn như không! Thế mới kỳ! Ôi! đường lên "Không Động" mới gian nan và vất vả làm sao!

Nhà Sư nhìn Bất Đạt với đôi mắt đầy bi mẫn rồi nói:

- Đúng thế, một hành giả lên đường chắc chắn cũng lắm gian nan và nhiều vất vả như vậy. Những hôn trầm, thụy miên, buông xuôi, tiêu cực, những vọng tưởng, hư tưởng, nghi ngờ, những hoài niệm, phân vân, do dự,... là những pháp ngăn che không cho chúng sanh thấy rõ sự thật. Chúng được ví cho những hầm hố, gai góc, những dây leo chằng chịt, bít bùng; những thung lũng hiểm trở, những sườn núi đá dựng đứng cheo leo, trơn tuột. Ngoài ra, còn có một số trở ngại vi tế như những dòng suối ngọt, những tàn cây xanh mát mẻ, những chùm trái cây chín mọng trên cành, những kỳ hoa dị thảo thơm ngát phô thắm sắc màu lóng lánh dưới sương mai...

- A! Bất Đạt ngạc nhiên la lên - những cái kỳ tuyệt như thế mà cũng là trở ngại sao Thầy?

- Ừ, chúng chính là những phiền não vi tế đấy con à! Những phong cảnh hữu tình mỹ lệ, những muôn hồng nghìn tía ấy được ví cho những cảnh trời mà dục lạc vật chất được thỏa mãn cao độ; được ví cho những phỉ lạc, những hạnh phúc trong các cảnh giới thiền hữu sắc. Rồi còn những vi tế thuộc không, thuộc thức của thiền vô sắc nữa chứ. Con đã từng mải mê ngâm mình dưới dòng suối trong xanh mát lạnh; con đã bần thần đứng ngắm cả một rừng phong lan nở hoa như một tấm thảm sắc; con đã lặng người khi nghe một khúc hòa tấu của những giọng chim chưa hề nghe ai nói tới; con đã thẫn thờ trước động đá thiên nhiên mà những rễ cổ thụ như những cánh tay bạch tuộc ôm một tòa lâu đài bằng ngọc xanh...

Bất Đạt nói:

- Phải! Đẹp quá Thầy ạ! Con muốn sống ở đây luôn!

- Chúng là những cạm bẫy bằng vàng, là những trò ảo thuật diệu hóa của Ma Vương, những mồi nhử cho hành giả. Sự mê chấp, tham đắm, thủ trước những hoa thơm cỏ lạ, những cảnh vật thơ mộng bên đường dễ làm cho chúng sanh quên đi mục đích giải thoát. Cũng như con vậy thôi, con chỉ muốn ngồi lại đấy, ở lại đấy chứ đâu còn muốn lên đường nữa?

Bất Đạt ngồi trầm tư, nghĩ ngợi. Những lời chỉ dạy của Nhà Sư vừa hợp tình, hợp lý, vừa cụ thể, rõ ràng quá làm rúng động cả châu thân chú. Chú thầm nghĩ: "Vượt qua, vượt qua, vượt qua cả ý niệm vượt qua! Hằng trăm trang sách nói về buông xả, viễn ly, vô chấp... cũng không bằng câu chuyện ví dụ thiết thực hiện tại và sống động này".

Nhà Sư tiếp:

- Một kẻ biết trọn vẹn lên đường, y phải biết vất bỏ những quyến niệm, những thằng thúc đeo níu về gia sản, tiền bạc, danh lợi, vợ con; biết quên đi những câu chuyện về thời sự, về xã hội, về kinh tế, về nhân tình thế thái; những câu chuyện về buôn bán, làm ăn, chuyện nơi thành phố, chuyện ở thôn quê, chuyện trong công sở, chuyện quá khứ vị lai, chuyện độ sinh, chuyện thế giới, chuyện chủng tộc, chuyện cải cách, chuyện thuốc men, chuyện sức khỏe, chuyện luyện khí, luyện công, chuyện khí hậu thời tiết, chuyện thiên văn địa lý... Khi ấy mới được gọi là một người thực sự xuất gia, lìa khỏi gia đình phiền não.

Bất Đạt con! Con theo Thầy lên Không Động, con cũng bỏ quên chuyện kinh kệ sớm hôm, chuyện tưới nước cho ớt, làm cỏ cho sắn, vun đất cho khoai; chuyện bếp núc, bàn bạc, hôm nay nên ăn canh lá giang cho mát, ngày mai nên kiếm lá bướm bạc nấu nước uống cho ngon; chuyện đói no, chuyện loanh quanh, luẩn quẩn với bạn bè, hàng xóm... Điều này cũng ví như là đang hành pháp xuất gia ba la mật vậy chớ khác gì đâu!

- Ồ! Kỳ diệu xiết bao!

- Lại nữa, chúng ta đã vượt qua biết bao là đồi núi, khe suối; qua lùm, qua truông, qua thung lũng, qua dốc, qua vực,... nếu không có ý chí, không biết kham nhẫn thì làm sao đến được Không Động hả con?

- Dạ, không thể được!

- Vậy nó khác gì tinh tấn, nhẫn nại và quyết định ba la mật không?

- Dạ, tương tự như vậy.

Nhà Sư tiếp:

- Còn nữa, nếu ta không cẩn thận từng cái vin tay, từng cái chân bước thì những triền đá lở, những bờ đất dốc sẽ làm cho chúng ta rơi xuống vực, nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, người xuất gia phải cẩn trọng giữ gìn thân, khẩu, ý; đừng để cho chúng vọng động, tạo nên những ác nghiệp mà rơi xuống bốn con đường khổ. Điều ấy có khác gì pháp trì giới của người xuất gia không hở con?

- Dạ, không khác.

Nhà Sư trầm ngâm giây lâu:

- Thầy cũng không hy vọng con lãnh hội trọn vẹn những điều Thầy vừa nói. Nhưng một phần nhỏ của sự thấy biết ấy là những trang bị cần thiết cho lộ trình gian khổ trong nay mai đó con!

*

Xế trưa, hai Thầy trò mới đến Không Động. Nhà Sư chỉ vào hai tảng đá lớn úp lại với nhau như hai mái nhà và một cốc lá dựng sơ sài dưới gốc đại thụ rồi nói:

- Không Động đấy!

Bất Đạt có vẻ thất vọng. Té ra chẳng có gì là đẹp như trong trí tưởng tượng của chú! Tuy nhiên, nơi đây mát mẻ và yên tĩnh một cách lạ lùng. Khí đá và sương mù vật vờ chao động trên triền núi, đầu cây. Thiên hô vạn hát là chim, là hoa, là thỏ, là sóc,... lại có cả khỉ và vượn nữa. Chú cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng như đã trút hết mọi mỏi mệt đường xa.

Nhà Sư nói:

- Trong trí tưởng của con có một "Không Động" khác phải vậy không?

Bất Đạt bẽn lẽn đáp:

- Dạ, quả vậy!

- Con đã hình dung một "Không Động" theo tưởng tượng của con, rồi con lên đây là để tìm cái "Không Động" ấy?

- Dạ, không sai.

Nhà Sư đưa mắt nhìn ra xa:

- Con ạ! Cũng vậy, tùy theo tâm tưởng của chúng sanh mà có Niết Bàn như thế này hoặc như thế kia. Họ tưởng tượng, dự phóng ra một cảnh giới rồi tu tập nhằm đạt cho được cảnh giới ấy. Vậy thì cảnh giới mà họ đạt được chính là bản ngã thứ hai của họ, con hiểu không?

- Vậy thì Niết Bàn ở đâu, bạch Thầy?

Nhà Sư chợt đọc bốn câu thơ của Tô Đông Pha:

"Mù tỏa non Lô sóng Triết Giang
Chưa đi đến đó hận muôn vàn
Đến rồi thì thấy không gì lạ
Mù tỏa non Lô sóng Triết Giang"

Rồi nói:

- Rời vọng niệm, rời lý niệm, rời hoài niệm, rời hư niệm... thì Niết Bàn tự dưng hiển lộ, chẳng cần phải tìm kiếm gì. Con có thấy gì không con?

Bất Đạt có vẻ suy nghĩ, trầm ngâm rồi phát biểu:

- Hôm nay con học được nhiều điều nhưng cái thấy rốt ráo thì mù tịt Thầy ạ! Nhưng chắc chắn sự giác ngộ phải là cái gì "bùng vỡ ghê gớm": cái "mặt trời, mặt trăng va chạm nhau", cái "đảo lộn càn khôn", cái "linh kiến nhiệm mầu", cái "tuyệt đối vô phân biệt", cái "phùng Phật sát Phật", cái "vô vị chân nhân", cái "thể nhập bản thể"...

Nhà Sư khoát tay:

- Thôi đủ rồi con! Đừng bắt chước người ta mà nói huyên thuyên "thiên trời địa đất" như vậy. Con chưa thật hiểu những ngôn ngữ con dao hai lưỡi ấy đâu. Đấy là cách diễn đạt sau này của một số sách thiền luận, học giả, các nhà thơ, nhà văn cùng những người sính văn chương chữ nghĩa. Nếu không thấy thực, sống thực thì chúng chỉ thuần là ý niệm, dễ đưa đến những vọng tưởng sai lầm, tạo nên những sở tri chướng cả thôi!

Nói ngang đây, Nhà Sư đi về cốc lá, nghĩ thầm:

- Ôi! Khó nói thay là giáo pháp tối thượng! Những sở cầu, sở đắc đã đẩy chúng sanh đi quá xa. Có người đi đến những xứ sở có đủ bảy báu, ngựa xe, đền đài, võng lọng; ở đấy thỏa mãn được những dục vọng truyền kiếp. Tâm tưởng của họ như thế nào thì cảnh giới của họ sẽ như thế. Làm sao ta có thể nói với họ rằng, chân lý là "cái bây giờ" đây? Bây giờ đây với nước chảy mây trôi, với đông khứ xuân lai; đói thì ăn, khát thì uống; bây giờ đây với nóng lạnh, với hít thở, với đi đứng nằm ngồi; bây giờ đây với lá vàng, lá xanh, cỏ, hoa, trời, mây, cây, đá? Là trọn vẹn sự sống đang diễn tiến, đang vận hành, luôn luôn phong phú, sống động và mới lạ trong từng phút giây? Ôi! Họ có thể hiểu, có thể biết nhưng "thấy" thì khó khăn làm sao?!

------------------------------
Hải Vân
(còn tiếp)
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Dùng ngọ xong, nghỉ ngơi một lát, hai thầy trò thu xếp vật dụng vào gùi và xách rồi lên ngồi chơi trên tảng đá khổng lồ, cao và to như hòn núi nhỏ. Từ đây có thể nhìn suốt cả vùng sơn thượng, nhìn thấy biển và mây hòa thành một màu ở chân trời, nhìn thấy Huyền Không Sơn Trung chỉ bằng cái hộp quẹt.

- Con ạ! Nhà Sư nói - Đây là Không Động, cũng gọi là Huyền Không Sơn Thượng. Như con hiểu, Sư Bá, chư Sư Thúc và Thầy đã chọn nơi đây là chỗ ẩn tu thiền định và thiền quán. Nếu có thể được, sau này, Không Động sẽ biến thành Rừng Thiền, dành cho những ai lựa chọn pháp hành làm lẽ sống cho đời mình. Họ có thể ẩn tu suốt đời và cũng có thể xin ở năm, bảy năm tùy theo sở thích và hạnh nguyện.

Một ngôi chùa như Huyền Không Sơn Trung của chúng ta, dầu cho ở núi cao vẫn không yên tĩnh. Một ngôi chùa với những sinh hoạt đa dạng của nó làm cho vị trụ trì cũng như chư sư, giới tử phải bận rộn luôn khi: xây dựng, trùng tu, cái ăn, cái mặc, học hành, kinh kệ, giao tiếp với xã hội, cầu an, cầu siêu, trồng cây, làm vườn, hộ khẩu, giấy tờ, đất đai... Đến một lúc nào đó, những sinh hoạt ấy trở nên gánh nặng, thành sự buộc ràng, thành một bản ngã, một chấp thủ không rời. Sư Bá, chư Sư Thúc và Thầy đã tiên tri điều ấy nên đã lập thêm Sơn Thượng này. Sơn Thượng không phải là một ngôi chùa với những sinh hoạt lăng xăng kia. Nó là Rừng Thiền, đây chỉ có việc hành thiền, sống thiền thôi, không làm gì khác, không tiếp xúc với ai...

Bất Đạt nói:

- Đây như là tu "thể nhập" và dưới kia là tu "tiếp hiện". Đây là thể và dưới kia là tướng dụng phải không hở Thầy?

Nhà Sư cười cười đáp:

- Ừ! Con đọc trong sách và người ta có nói như thế. Con hiện ở Huyền Không Sơn Trung nên phải làm tất cả mọi việc, phải học nội điển và cả ngoại điển. Xã hội ngày càng văn minh tiến bộ, cũng có nghĩa là con người ngày càng đầy đặc sở tri, đầy đặc kiến thức. Một tu sĩ muốn sống giữa cuộc đời, muốn đem đạo vào đời không thể là người chỉ biết đọc, biết viết hoặc chỉ biết thuần về kinh điển, mà phải trang bị cho mình những kiến thức phổ thông khác. Sự dốt nát, thất học là một hiểm họa, một đại nạn cho giáo pháp, con có biết thế không? Nếu không có khả năng học hỏi do tuổi lớn, do trí kém thì tu sĩ phải biết rúi lui; tìm những chỗ như "Không Động" này để chuyên tu pháp hành, thì thật là hạnh phúc thay cho giáo pháp, cho tứ chúng. Giáo pháp còn không phải là do chùa chiền nguy nga đồ sộ, do tăng chúng đông đúc, do những sinh hoạt lăng xăng rầm rộ hướng đến từ thiện xã hội, mà chính là do những tu sĩ có tu, có chứng, có giác ngộ, có giải thoát. Một tu sĩ có tu, có chứng, có giác ngộ, có giải thoát lợi ích cho Đạo nhiều lắm con biết không? Mặt nổi, mặt chìm luôn hỗ trợ nhau, nâng đỡ nhau, thiếu một trong hai là không được. Tuy nhiên, bề chìm của tảng băng bao giờ khối lượng cũng lớn hơn bề nổi của tảng băng, con nên biết như thế! Tiếc thay!

Thấy Nhà Sư định nói gì nhưng có vẻ ngập ngừng, Bất Đạt xen lời:

- Có phải Thầy muốn nói, tiếc thay Phật giáo khắp nơi người ta cổ súy, vận động tuyên truyền cho mặt nổi mà quên mặt chìm?

Nhà Sư trầm ngâm. Bất Đạt tiếp:

- Và người ta cứ muốn nhảy xuống sông mà cứu người trong khi họ chưa biết bơi? Người ta chạy theo phương tiện, phát triển vô lượng chiêu thức biến ảo mà bỏ quên mục đích giác ngộ, rèn luyện công phu nội lực?

Nhà Sư gật đầu nhè nhẹ:

- Đúng vậy! Nội lực rất quan trọng. Ở Cam-pu-chia, Phật giáo quốc nạn, hàng trăm ngàn tu sĩ tiêu vong, hàng ngàn ngôi chùa bị đập phá, thế nhưng, sau đó, Phật giáo được phục hưng một cách nhanh chóng, con có biết tại sao không?

- Dạ, con chưa nghe.

- Do nhờ hai vị sư già trốn vào rừng sâu, có tâm tu bất thối, trở về và xây dựng lại tất cả từ đống tro tàn.

- Con đã hiểu.

- Rừng Thiền trong mai hậu là nơi để tu tập thiền định, thiền quán. Thiền định, thiền quán chính là hàm dưỡng nội lực, bản lãnh. Thứ nhất là dành cho những người lớn tuổi. Thứ hai là để dành cho các con sau thời gian học tập ở Sơn Trung. Có người sẽ ở đây trọn đời. Có người chỉ ở đây một thời gian trước khi xuống núi theo con đường hạnh nguyện. Họ có thể học thêm trong nước hoặc ngoài nước để lấy bằng cử nhân, tiến sĩ; cũng có thể họ chọn lựa đi vào các bộ môn nghệ thuật như văn, thơ, hội họa, điêu khắc; dịch thuật, báo chí, in ấn, thư viện; cũng có thể họ làm giảng sư, pháp sư, làm công việc từ thiện xã hội, bác sĩ Đông, Tây y.v..v... và mọi sinh hoạt lăng xăng này được gọi là Huyền Không Sơn Hạ đó con à!

Bất Đạt gật đầu:

- Dạ, con đã hiểu.

- Thầy nhận nhiệm vụ của chư Tăng huynh đệ lên xây dựng Không Động, ngoài mục đích bồi dưỡng nội lực, bản lãnh, còn có ý định trồng cây ăn trái khắp cả mấy khu rừng này. Về sau, bất cứ ai hiểu được tinh thần Huyền Không hoặc chấp nhận tu tập theo thiền phái Huyền Không, đều có thể lên đây ở tu mà không cần lo gì vật thực. Đây là khu rừng cấm, không giao tiếp với thập phương, không xã giao, ngoại giao với ai hết!

- Vậy tứ sự thì phải làm sao thưa Thầy?

- Con đừng lo điều đó. Có tu là có phước báu, có tứ sự đầy đủ thôi.

- Làm sao mà có được? Ai biết mà có?

- Cũng có thể như vậy lắm, nhưng cả mấy rừng cây trái, khỉ vượn sống được thì ta sống được!

- Còn y áo?

- Có lá cây, vỏ cây, sợ gì!

Bất Đạt ngước mắt lên, mơ màng:

- Đôi khi như vậy mà dễ sống an lạc, thanh tịnh, Thầy à!

Nhà Sư cười:

- Thầy nói vậy chỉ để xem ý tứ của con, chứ thật ra không đến nỗi nào đâu, chư Thiên họ sẽ lo điều ấy.

Bất Đạt cất giọng buồn buồn:

- Thế nhưng, hôm nay mình lại phải từ giã cái Không Động này rồi. Cái "mộng" của Thầy thế là "không thành"!

Nhà Sư nói:

- Không thành thì biết nó không thành chứ sao! Chưa đủ duyên thì nhân sao thành quả được? Trong ta nếu có "Không Động" thì lo gì sau này không có một cái Không Động khác hở con? Và biết đâu nó sẽ lớn lao hơn, kỳ vĩ hơn, đẹp đẽ hơn?

*

Về đến Sơn Trung thì trời đã chạng vạng tối, Nhà Sư nói với Bất Đạt:

- Con ạ! "Bất Đạt" chính là ra đi ngàn đời giữa lòng thế gian với tâm mát mẻ, vắng lặng, bao dung mà không cần bất kỳ một thành tựu, một đáp đền vị kỷ nào. Lại nữa, đường lên Sơn Thượng dẫu khó khăn gian khổ, nhưng nó chưa nghĩa lý gì so với đường đời đầy chông gai, vực thẳm, cạm bẫy ở trước mặt! Mai này, từ bỏ "Không Động" kia, nghĩa là từ bỏ "Không" để về "Huyền"; con luôn luôn lấy "dương" làm chủ "âm", lấy nội lực làm căn bản cho chiêu thức sở y; chắc chắn con sẽ đi thông suốt được con đường của mình một cách tự tin, nhẹ nhàng và an ổn. Điều sau chót, mục đích ở "cuối con đường" nó chỉ có giá trị ước lệ, đến đấy rồi thì không-thời-gian không còn nữa, Diệt Đế ở trong Đạo Đế, Đạo Đế ở trong Diệt Đế, không hai, không khác!

Bất Đạt suy tư, Nhà Sư nghĩ thầm: "Chưa thể nói cho nó hiểu rằng, Đạo Đế và Diệt Đế ấy là một, không phải cái-một-cô-lập, ngưng đọng; mà là cái-một-hằng-diễn, sinh động, đầy đủ nơi mỗi bước chân, nơi mỗi cảm thọ, nơi mỗi hơi thở!"

--------------------------
Hải Vân
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Pháp Môn "Đắp Chăn Nằm Ngủ"

Sư trụ trì đi vắng, giao cho Bất Ác nghiên cứu một đoạn kinh, còn Liễu Minh và Bất Đạt thì được tùy nghi thu xếp giờ giấc lao tác, học hành và thiền định.

Bất Ác chú tâm suy nghĩ đoạn kinh sau đây:

- Một thuở nọ tại Xá-Vệ (Sàvatthi) có một thiện nam tử sau khi nghe Bậc Mười Lực thuyết pháp, với hỷ tâm, với tín tâm xin được xuất gia. Vị A-xà-lê sư dạy về giới: "Này hiền giả! Đây là một giới, đây là hai giới,... đây là năm giới, đây là tám giới,... đây là nhiều loại giới, đây là trung giới, đây là đại giới. Đây là giới hộ trì giới bổn, đây là giới hộ trì các căn, đây là giới thanh tịnh mạng, đây là giới sử dụng các vật dụng.v..v..."

Trong khi nghe về giới như vậy, vị tân tỳ kheo suy nghĩ: "Ôi! Giới này thật quá nhiều, ta không thể giữ trọn. Thôi thì ta hãy trở lại sống đời làm gia chủ, làm các công đức như bố thí... và nuôi dưỡng vợ con." Nghĩ thế xong, vị ấy thưa: "Thưa Tôn giả, với chừng ấy giới, con không thể giữ trọn được thì xuất gia có ích gì? Con sẽ hoàn tục. Vậy xin Tôn giả hãy lấy lại Y Bát của con."

Chuyện đến tai Đức Phật, Ngài cho gọi vị A-xà-lê sư đến rồi la rầy như sau: "Sao ông lại nói quá nhiều giới đến cho tân tỳ kheo này? Bao nhiêu giới ông ta có thể giữ được, thì nói ra từng ấy giới mà thôi. Bắt đầu từ nay hãy tùy theo người mà hướng dẫn. Thôi, ông hãy đi đi! Ở đây Như Lai biết là Như Lai sẽ nói những gì." Rồi Bậc Đạo Sư kêu vị tân tỳ kheo ấy đến, nói rằng: "Không cần nhớ đến nhiều giới như vậy, Ông có thể giữ được ba giới không?" Vị tỳ kheo ấy hoan hỷ: "Ba giới thì chắc chắn con giữ được, bạch Đức Thế Tôn!" "Vậy thì bắt đầu từ đây, ông khá giữ gìn ba cửa: cửa về thân, về lời, về ý. Hãy đi và thực hành theo như vậy, chớ có hoàn tục. Hãy tinh tấn giữ ba giới ấy." Vị tỳ kheo y lời, chỉ một thời gian ngắn, với sự giữ gìn nghiêm túc và cẩn trọng ba giới về thân, khẩu và ý, vị ấy phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán."

Đọc xong đoạn kinh nêu trên, Bất Ác tán thán:

- Thật vi diệu thay là Đấng Mười Lực! Thật thù thắng thay là Bậc Vô Thượng Pháp Vương. Ngài đã thiện xảo phương tiện giáo giới, biết cách nói rõ ràng và dễ hiểu cho người thiểu trí hành trì. Như vậy, chỉ cần hộ trì ba cửa thân, khẩu, ý một cách tinh cần là có thể hoàn thành mục đích rốt ráo của sa môn hạnh.

Bất Ác vắt tay qua trán, suy nghĩ: "Muốn thân đừng ác thì hãy yên lặng cái thân, muốn lời đừng ác thì hãy yên lặng cái khẩu, muốn ý đừng ác thì hãy yên lặng cái ý. Có một pháp môn nào, chỉ một pháp môn duy nhất thôi, từ đó ta thọ trì, phụng hành mà cả thảy ba cửa đều yên lặng?"

Tư duy một hồi dường như đã tìm ra kế sách, Bất Ác cảm thấy hân hoan, hỷ lạc, chú bèn thưa với Liễu Minh và Bất Đạt:

- Bắt đầu từ hôm nay em sẽ tịnh cốc để phát triển "thiền quán". Vậy hai chú chỉ cho em dùng chút gì đó vào buổi trưa mà thôi.

Nói xong, Bất Ác đóng cửa phòng lại.

Liễu Minh và Bất Đạt ngạc nhiên về biến cố đột ngột đó, nhưng quen tôn trọng nhau nên không hỏi han làm gì.

Và ba ngày như thế qua đi.

Ngày thứ tư, Nhà Sư trở về, hỏi Bất Ác đâu thì hai chú kia trình bày lại tự sự. Nhà Sư khẽ cau mày nghĩ ngợi một chút.

Buổi trưa nghe "bảng" đánh ngọ, Bất Ác bước ra với đôi mắt hum húp, dáng dấp như còn say ngủ. Nhà Sư bảo Bất Ác đi rửa mặt cho tỉnh táo, trong mắt Nhà Sư như lấp láy nụ cười.

Đến chiều, giờ học đạo thường lệ, trường hợp Bất Ác được mang ra cho các chú thảo luận.

Nhà Sư nói chuyện với Bất Ác:

- Thầy đoán rằng, là khi nghiên cứu đoạn kinh nói về vị tỳ kheo chỉ thọ trì ba giới: Đừng làm ác về thân, về lời, về ý - rồi con tự nghĩ ra Pháp môn "đắp chăn nằm ngủ" phải không?

- Dạ... - Bất Ác dã dượi đáp - bạch Thầy, khi ngủ như vậy thì ba nghiệp đều yên lặng. Có ác nào mà khởi lên được khi thân không làm gì, khi khẩu không làm gì, khi ý không làm gì? Con trọ trì, phụng hành như vậy là không chơn chánh chăng? Là thiểu tuệ chăng?

Bất Đạt phì cười:

- Chẳng phải là phi chơn, phi chánh mà là đại chơn, đại chánh! Chẳng phải là thiểu tuệ, liệt tuệ mà là đại tuệ, tối thắng tuệ nữa đấy!

Nhà Sư trừng mắt nhìn Bất Đạt, rồi nói:

- Các con hãy cùng nhau thảo luận thử xem. Đó là một đề tài hay. Ta sẽ rút ra được bài học quý báu liên hệ đến hạnh và tuệ của một sa môn.

Liễu Minh đứng dậy, vòng tay:

- Bạch Thầy, con có đọc trong Trung bộ kinh, thấy Đức Phật có dạy với nội dung như sau: "Nếu hành trì hạnh, giới, tâm, uy nghi như chó thì sẽ cọng trú với loài chó. Nếu hành trì hạnh, giới, tâm, uy nghi như bò thì sẽ cộng trú với loài bò. Do đó, nằm hoài như rắn thì sẽ thành rắn, ngồi hoài như cóc sẽ thành cóc, ăn và ngủ như heo thì sẽ thành heo!" Vậy, giới, hạnh, tâm, uy nghi tương ứng với giống nào thì kết quả sẽ cọng trú với loài giống ấy, không thể là khác hơn.

Lại nữa, nếu ngủ một giấc dài đến mấy kiếp quả địa cầu như Chư Thiên Vô Tưởng hữu tình, chỉ tồn tại dạng thân xác với sắc pháp tế vi như gỗ đá vô tri, nhưng khi hết năng lực của thiền định thì cũng phải đi theo nghiệp trước đó của mình.

Bạch Thầy! Như vậy, pháp môn "đắp chăn nằm ngủ" của chú Bất Ác sai lầm trầm trọng rồi.

Bất Đạt cũng cất giọng nghiêm trang:

- Con xin được góp ý kiến hầu bổ sung thêm, bằng sự dẫn chứng kinh điển một cách cụ thể, đi thẳng vào trung tâm của vấn đề. Trong Kinh bộ, thuyết về một người du sĩ ngoại đạo chủ trương rằng: "Có bốn pháp: không làm ác về thân, không làm ác về lời, không làm ác về ý và không ác mạng. Người nào thành tựu bốn pháp ấy, sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là sa môn thành đạt tối thượng vô năng thắng."

Chuyện đến tai Đức Thế Tôn, Ngài đã đưa ra ví dụ dí dỏm với nụ cười của kẻ trí như sau: "Vậy thì một đứa trẻ vô trí, còn nằm ngửa trong nôi, nó không làm ác về thân, về lời, về ý và không ác mạng; thì ra nó cũng thành tựu thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc sa môn thành đạt tối thượng vô năng thắng hay sao?"

Nói xong, Bất Đạt ngồi xuống với nụ cười "ruồi", nháy nháy mắt với Bất Ác.

Nhà Sư nhìn Bất Ác một hồi lâu:

- Thấy chưa con? Thành tựu bốn pháp thiện về thân, thiện về lời, thiện về ý và không ác mạng - cũng chỉ giống như đứa trẻ nít vô trí nằm ngửa trong nôi thôi. Huống hồ con đắp chăn nằm ngủ thì chẳng biết sẽ ra cái giống gì!

- Dạ, phải rồi! Bất Ác cúi đầu đáp nhỏ - con quả thật là vô trí, ngu si. Giữ giới cái kiểu của con còn hơn phỉ báng Phật nữa.

Nhà Sư nhìn cả ba chú, mỉm cười nói:

- Tại sao một đoạn kinh Đức Phật nói chỉ cần giữ ba cửa thân, khẩu, ý, mà đoạn kinh sau, Đức Phật lại xem đấy chẳng khác nào đứa trẻ nít vô trí còn nằm ngửa trong nôi?

Bất Đạt thưa:

- Con nhớ nguyên văn đoạn kinh ấy như sau: "Một thời gian sau, nhờ giữ gìn cẩn trọng, nghiêm túc ba cửa thân khẩu ý, vị tỳ kheo phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán" Như vậy, bạch Thầy, giữ giới là để đưa đến tâm yên lặng, nhờ tâm yên lặng, vị ấy phát triển thiền quán mới chứng được đạo quả A-la-hán.

Nhà Sư quay sang Liễu Minh cố ý hỏi ý kiến của chú. Liễu Minh nói:

- Con cũng hoàn toàn đồng ý như thế. Giới chưa phải là cứu cánh của sa môn hạnh, chính Tuệ giải thoát mới là mục đích rốt ráo. Bạch Thầy, ví như kinh "Trạm xe" là rõ nhất: Giới là trạm xe thứ nhất, Tâm thanh tịnh là trạm xe thứ hai, Kiến thanh tịnh là thứ ba, Đoạn nghi là thứ tư, Đạo phi đạo tri kiến là thứ năm, Đạo tri kiến là thứ sáu, Tri kiến thanh tịnh là thứ bảy. Từ trạm xe thứ bảy này mới bước qua được "Vô thủ trước Bát Niết Bàn".

Nhà Sư gật đầu:

- Như vậy, ý kinh các con đều hiểu rõ cả. Nhưng phàm sự học đạo không phải chỉ ở nơi ngôn ngữ, kinh điển, từ chương, ở nơi sở tri mà chính là ở nơi cái thật, sự thật (chân lý), cái cụ thể, cái hiện tiền phong phú, mới mẻ, sinh động... Thầy chỉ muốn các con đưa ra ví dụ cụ thể "có da, có thịt" kìa?

Cả ba chú nhìn nhau ngơ ngác.

Nhà Sư gợi ý:

- Khi mắt nhìn thấy sắc, tai nghe âm thanh.v.v... cái ấy có phải là cái thật không?

Liễu Minh đáp:

- Vâng, chỉ có cái đó là thật, là sự thật luôn luôn trôi chảy, dịch biến.

Bất Đạt nói:

- Chưa chắc. Mắt nhặm, tai điếc thì sao? Mắt mờ, tai nghễnh ngãng thì sao?

Liễu Minh nhìn chú Bất Đạt.

- Mắt nhặm, tai điếc thì thấy và nghe Cái Sự Thật của mắt nhặm, tai điếc. Mắt mờ, tai nghễnh ngãng thì thấy và nghe Cái Sự Thật kiểu mắt mờ, tai nghễnh ngãng. Cái nào cũng sự thật cả chú à! Có điều đừng lấy Cái Sự Thật này mà cãi lại với Sự Thật kia!

Bất Ác về phe với chú Liễu Minh :

- Đúng vậy! Nói vậy là chết lý!

Bất Đạt trừng mắt:

- "Chết lý", nhưng vẫn là "cái lý", thưa chú em! Thầy bảo là phải có da, có thịt kìa! Có da, có thịt nghĩa là cái "Sự" kìa! Cái mà từ đó ta "hạ thủ công phu", tu như thế nào kìa?

Liễu Minh đáp:

- Cái này thì chú nói đúng. Vậy thì chú tu làm sao?

Bất Đạt nói:

- Tôi chưa nói cách tu của tôi. Có nhiều người sau khi thấy "lý" như vậy rồi họ bèn "nhốt bò vào chuồng", không cho ăn lúa mạ của người nữa. Họ bảo đấy là cách làm tiêu hoại hạt giống cũ.

- Cũng đúng. Nhưng mà cho dẫu "nhốt bò vào chuồng" đến cỡ tứ thiền, bát định thì đến khi thả bò ra, bò đói quá lâu ngày, nó lại ăn lúa mạ mạnh và khỏe hơn trước nữa.

Bất Ác vỗ tay:

- Đúng thế, em đọc trong kinh, thấy rất nhiều kiếp, Đại Bồ Tát của chúng ta, đắc tứ thiền, bát định, có thần thông mà vẫn còn bị dục tâm lôi cuốn! Còn nữa, đệ tử của Ngài Ca Diếp, đắc tứ thiền, nhưng khi phiền não khởi lên, phải hoàn tục, lấy vợ sinh con, nghèo đói quá đi trộm cắp, bị bắt, bị dẫn ra pháp trường xử chém! Vậy cái kiểu tu như chú Bất Đạt nghe ra không ổn rồi.

Bất Đạt bất giác phì cười:

- Đừng vu oan chú em! Tôi không có tu theo kiểu ấy. Tôi nói là nói người ta tu như thế.

- Vậy thì chú tu làm sao? Bất Ác hỏi:

- Tôi ấy à? Tôi tu tôi chẳng dại gì lấy đá dằn cỏ mà cũng chẳng dại gì thả bò chạy rông. "Không mở, không đóng" là cách tu của tôi vậy.

Liễu Minh suy nghĩ giây lâu, rồi quay sang Nhà Sư :

- Bạch Thầy! Dường như chú Bất Đạt nói đúng, mà con không rõ là đúng ở đâu, tại sao lại đúng...?

Nhà Sư mỉm cười nhìn cả ba chú:

- Các con cứ loay hoay, tìm không ra, vì các con cứ đi tới đi lui nơi chỗ Giới và Định. Muốn giải quyết tận căn thì phải có Tuệ chứ? Tuệ mới nhổ hết được phiền não chứ?

Cả ba chú bây giờ mới chợt nhớ ra, thừ người lại. Nhà Sư nói tiếp:

- Thầy sẽ nói lại một đoạn kinh ở trong tiểu bộ kinh để các con suy gẫm, may ra có ánh sáng nào về cái Tuệ đó không! Này nhé! Đức Phật dạy cho Bàhiya như sau: "Này Bàhiya! đây là điều ngươi cần phải học tập: trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ, tưởng chỉ là cái thọ, tưởng, trong cái thức, tri chỉ là cái thức, tri! Do vậy, này Bàhiya, ngươi đâu phải là cái ấy, là chỗ ấy, thì ngươi không còn là đời này, không còn là đời sau, không còn là đời chặng giữa..."

Nói đến ngang đây, thấy ba chú rất chăm chú, Nhà Sư tiếp tục:

- Và kẻ như vậy sẽ được Đức Phật gọi là: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành... là kẻ mà Ma Vương không còn tìm thấy dấu vết, ngay hiện tiền này, ngay tại chỗ này!"

Cả ba chú ngồi tịnh mặc như nhập đại định.

Trời đã về chiều, nắng vàng trong, tất cả xung quanh dường như đều muốn đi vào đại định!

-----------------------------
HK - NB
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
ĐÓI THÌ ĂN CƠM BUỒN NGỦ THÌ NGỦ
( ĐẠI CHU HUỆ HẢI )


“Đói thì ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ” – đây chính là thiền, nếu thực hiện được điểm này, thì đó gọi là hiểu biết về thiền. Thời đại Cao Trung, tôi đã đọc một tác phẩm lớn của Linh Mộc Đại Chuyết tiên sinh một câu như thế. Lúc ấy tôi cho rằng câu nói đó là của Linh Mộc [Suzuki(?)] tiên sinh, nhưng sau này khi tiếp xúc với nền Phật học, tôi mới biết là thiền ngữ này đã được trích từ “Đốn Ngộ Yếu môn” của Đại Chu Huệ Hải thiền sư đời Đường. Dưới đây là nguyên văn:

Hữu Nguyên Luật sư đến hỏi: “Hòa thượng tu đạo, có dụng công không?” Thiền Sư Đại Chu Huệ Hải đáp: “Dụng công” Hỏi: “Dụng công thế nào?” Thiền sư trả lời: “Đói thì ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ” Hỏi: “Tất cả mọi người đều vậy, như thế thì vấn đề dụng công có giống với thiền sư hay không?” Thiền Sư trả lời” “Không giống” Hỏi: “Tại sao không giống?” Đáp: “Khi họ ăn cơm, nhưng họ không chịu ăn cơm vì bị trăm điều đòi hỏi; khi ngủ thì không chịu ngủ, vì phải so sánh tính toán vạn sự”. Hữu Nguyên bí lối.
(Đốn ngô yếu môn)

Có người tên Nguyên Luật Sư đến hỏi “Khi hoà thượng tu hành có cần dùng đến công phu?” Đại Chu thiền sư trả lời: “Cần”. Hỏi: “Công phu ấy như thế nào?” Trả lời: “Đói thì ăn cơm, buồn ngủ là ngủ”. Hỏi: “Người thông thường đều như vậy cả, công phu của Hoà thượng chỉ có thế sao?” Đáp: “Chẳng giống nhau”. Hỏi: “Có gì khác nhau?” Đáp: “Khi người khác lúc đáng ăn cơm thì không chịu ăn, lại phải đủ điều đòi hỏi; khi đáng ngủ thì không yên tâm để ngủ, vì còn ngàn việc đán đo. Vì thế ta với họ khác nhau”. Nguyên Luật Sư lặng im vì đã không còn lời nào để chất vấn.

Vừa thoạt nghe qua đã có đồng cảm. Có lúc dù cho một chút ý ngủ cũng không, nhưng trong quan niệm thì cứ cảm thấy là không ngủ thì không được nên tự cưỡng bức: Mình phải ngủ. Thì ra như thế, một mặt trong não ý nghĩ lung tung, một mặt vì tiếng đống hồ tích tắc mà cảm thấy tâm trí phiền não nóng nảy, kết quả càng không cách nào ngủ được. Mãi đến tảng sáng 2, 3 giờ...cuối cùng chỉ thấy bi ai tuyệt vọng.

Ăn cơm cũng thế, khi phải ăn cơm thì ăn cơm, nhưng thông thường ngưuời ta cứ phải tống điều phối thức ăn dinh dưỡng trước, sau đó mới chịu ăn, vì thế mà bao tử đã bị khổ sở vì đói.

Do vậy, “Đói là ăn, buồn ngủ là ngủ, đó tức là thiền”. Lời nói đơn giản này, tuy trên mặt chữ rất dễ lý giải, nhưng trên thực tế lại là việc mà những người phàm tục không thể làm được, mặc dù câu nói này lúc nào cũng “Nao nao trong lòng”, nhưng ban đêm vẫn không ngủ được, khi đang ăn cơm thì nghĩ bậy nghĩ bạ, nếu không thì một mặt vừa xem báo một vừa ăn cơm, hoặc một mặt vừa xem báo một mặt vừa ăn cơm, hoặc một mặt đánh cờ một mặt ăn cơm, muốn ăn bữa cơm ngon lành đúng nghĩa dường như là việc không phải dễ.

Nhất là đối với những ai đang đi làm, đói thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, điều đó chẳng khác nào như một mộng tưởng xa xăm vói không bao giời tới. Ví như, lúc 2, 3 giờ chiêu đang cơn buồn ngủ, nếu phải ngủ ngon trên chiếc bàn làm việc, thì bảo đảm là không bao lâu sẽ bị sa thải khỏi sở. Nghĩ đến thời đại cao trung, khi thầy đứng trên bục giảng say sưa giảng đến nước mồm tung tóe còn mình thì ở dưới lén ăn thức ăn mang sẵn theo, tâm trạng vừa có phần sợ hãi vừa có phần vui thú ấy, đối với một viên chức cũng là một loại luận đàm xa xôi. Có thể nói: “Đói thì ăn, buồn ngủ thì ngủ”, đại khái chỉ có những người xuất gia xa lìa trần tục mới có thể làm được, đối với chúng sanh thường tình như chúng ta, thì đó là vấn đề “có thể gặp mà không thể cầu”.

Nhưng, kỳ khôi nhất là tại sao sau 2, 3 giờ chiều chúng ta lại buồn ngủ? Phải ngủ bao nhiêu tiếng đồng hồ mới đủ? điều này đương nhiên tuỳ theo mỗi người mà có sự sai biệt. Trong truyền thuyết, Nã Phá Luân vị anh hùng của nước Pháp, mỗi ngày, chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, vì thế ông thường hay ngủ gật, thậm chí có một chuyện khôi hài đó là vì ngủ gật mà ông đã bị rơi từ trên lưng ngựa xuống đất. Đời nay, chúng ta thường thấy trên công xa đầy khác, nhiều người tay nắm cái móc, và cứ như thế mà đứng ngủ ngon lành. Nghe bảo trước đây trong quân đội đã có người vừa hành quân vừa ngủ gật. Khi thời gian ngủ bị thiếu thốn nhiều, đương nhiên rất dễ ngủ gật. Nói theo thường thức, bình quân mỗi người mỗi ngày ngủ khoảng 6 đến 7 tiếng đồng hồ, vì thế ban đêm nếu ngủ đầy đủ, thì ban ngày sẽ không bị tình trạng ngủ gà ngủ gật. Sau cùng, chúng ta cần kết luận là: Sinh hoạt cần phải có những quy luật rõ ràng.

Cái gọi là quy luật sinh hoạt, đó là 3 bữa ăn nên định lượng, và phải ngủ nghê đầy đủ, như thế thì khi đi làm, sẽ không bị ngủ gật và đói bụng, và ban đêm cũng tự nhiên vì không buồn ngủ mà mất ngủ.

Nếu có thể làm được quy luật sinh hoạt như thế -- Đói ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ thì đó tức là thiền. Đó là sự thể ngộ gần đây nhất của tôi. Có lẽ là vì liên quan đến tuổi cao! Khi con người đến tuổi trung niên, thì không thích sự vật mới mẻ khác lạ. Đối với tuổi trẻ, có lẽ cho rằng thiền như thế hơi bị gò bó, hơi “tượng gỗ” (không linh hoạt), và vì muốn truy cầu cảnh giới thiền mà đã có rất nhiều thay đổi không chừng.

Tôi đã từng nói, phương thức thực tiễn của thiền không phải chỉ có một loại. Có loại thiền thích hợp vời người tuổi trẻ, có loại thiền thích hợp cho người trung niên, và cũng có loại thiền thích hợp với bậc lão niên. Tóm lại, thiền không rơi vào bất cứ cái ổ cố định nào.

------------------
HIRO.
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
ĐỐI VỚI VẬT XẢ BỎ MÀ CẢM THẤY TIỀN NUỐI
THÌ CHÍNH NÓ LÀ MỘT LOẠI PHIỀN NÃO
BÀNG CƯ SĨ


Quyển sách “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” này, là ngũ lục của Đạo Nguyên thiền sư – Khai sơn tổ sư của Tào Động Tôn Nhật Bổn. Người soạn là cao túc (học trò) của Ngài là Hoài Trang thiền sư. Tôi muốn đem nội dung của quyển sách này để giới thiệu tỉ mỉ đến quý vị, nhưng, vì trang giấy có hạn nên chỉ có thể dẫn dụng những phần có liên quan đến nội dung thảo luận trong sách, và dưới đây là trích đoạn dịch văn đã tiết lục:

Một hôm, có một vị tăng đến hỏi tâm yếu của tâm hành. Tôi bảo với ông thế này: “Người học đạo có thể cần phải “Nghèo” trước, vì tiền bạc nhiều thì dễ mua sắm đắm đuối vào vật chất mà nản chí tinh thần, người tu hành tại gia thường lo lắng tiền tài, lưu luyến chỗ ở, và giao dịch qua lại với bao nhiêu thân hữu, do vậy dù mà có chí tu hành, cũng bị cản trở rất nhiều trong phần nhân duyên chứng đạo. Cho nên xưa nay dù người tham gia tu học đông đảo, nhưng số người ưu tú vẫn không bằng người xuất gia. Người xuất gia ngoại trừ ba y một bát tất cả đều không có tiền tài, không truy cầu chổ ở yên ổn, không tham áo gấm khăn ngọc, một lòng chuyên chú đạo nghiệp, cho nên việc tu hành phần nhiều đều đạt kết quả. Đó là duyen do của “An bần chi sở dĩ lạc đạo”.

Bàng Cư Sĩ tuy là tục nhân tại gia, nhưng tu hành không thua gì người xuất gia, và ông đã chiếm được một vị trí quan trọng trong Thiền Lâm. Bàng Cư Sĩ khi mới tham thiền, liền đã gom góp toàn bộ sở hữu tài vật trong nhà để chuẩn bị bỏ vào biển cả. Người đi đường thấy thế khuyên lơn là nên mang tài vật đó là dùng vào việc cứu nhân tế thế hoặc tạo tháp lập chùa thì tốt hơn. Cư Sĩ bảo rằng: “Vật này vì có hại đối với tôi nên tôi mới mang nó vứt bỏ, làm gì có cái đạo lý lấy cái vật hại mình đem tặng người khác!” Nói xong, không chút luyến tiếc ông đã đổ hết tiền tài xuống biển. Cư Sĩ tuy người tại gia, nhưng sự không tham luyến tài sản thế gian, thật đáng được gọi là một xuất gia hành giả”.

Khi tôi đang cai thuốc lá đã từng mang một máy quẹt đắt tiền tặng cho người khác. Lúc ấy cơn nghiện thuốc của tôi rất lớn, mỗi ngày phải hút độ khoảng 50 chục điếu thuốc. Vì nghĩ đến sức khoẻ nên mới nhất quyết cai thuốc, đó là chuyện dĩ vãng 20 năm trước. Khi đó tuy quyết lòng cai thuốc, nhưng tự biết mình không phải là người ý chí kiên định, nên đối với kỷ luật bản thân tôi đã không đủ tự tin để dứt khoát quyết tâm cai thuốc do thế mới nhất định tặng cái quẹt máy cho người khác.

Khi đọc giáo thị của Đạo Nguyên thiền sư, tôi đã không khỏi nghĩ đến dĩ vãng. Vì sức khoẻ mà mang vật không dùng tặng lại bạn bè, đây có phải là một việc làm thiều đạo đức? Đúng ra phải quăng bỏ nó đi mới phải...

Đa phần con người thường sa vào lề lối suy tư mê man như thế.

Hiển nhiên, cái quẹt máy sở dĩ có hại là vì dùng nó để đốt thuốc. Nếu không nhận thức được điểm này thì đối với suy tư trên mặt tiền tài lại càng không thể phân tích xác đáng. Tiền tài đối với kẻ tu hành Phật đạo có lúc đích thị là một chướng ngại, nhưng, cũng không thể phủ nhận sự hữu ích của nó. Ví như chúng ta có thể dùng nó để cứu tế kẻ nghèo khó, hoặc sử dụng nó để kiến tạo chùa chiền, chấn chỉnh đạo tràng v.v...Có khi cũng có thể dùng để quyên giúp cho các hội Bảo Trợ Nhi Đồng Quốc Tế ở Liên Hiệp Quốc v.v...chẳng hạn. Nếu đứng trên khía cạnh này đề suy gẫm, thì mang bạc tiền liệng vào lòng biển là một sự việc đáng tiếc.

Nhưng, cái tình cảm “Bỏ đi thất tiếc” này đã không là cái khổ não chướng ngại của việc tu hành ư? Vì thế, nếu còn luyến tiếc khi mang tài vật vứt bỏ thì không thể hoàn toàn chấm dứt khổ não. Bàng Cư Sĩ sở dĩ đáng kính, ,vì ông không do dự tí nào khi đoạn tuyệt tài vật. Thế mới mong kiên trì ôm cái chủ nghĩa “xuất thế trên hết” (tức là “chủ trương không xuất gia thì không thể hiểu rõ thiền” của Đạo Nguyên thiền sư), đồng thời cũng rất đáng tôn sùng công phu “năng xả” của Bàng Cư Sĩ vì ông can cường hơn cả những người xuất gia.

Ở chương thứ 10 “Tân Ước Thánh Kinh, Mã Khả Phúc Âm” ghi lại một mẫu chuyện thế này:

Lúc Gia Tô đi đường, có một thanh niên đến sụp xuống lạy và thưa rằng: “Lạy Thầy nhân hậu, tôi phải làm gì để được sống mãi?” Gia Tô bảo anh ta: “Tại sao gọi ta là nhân hậu? Không có ai là nhân thiện trừ Thiên Chúa. Để được sống mãi mãi ngươi phải giữ các giáo răn. Những giáo răn như ngươi biết: Chớ giết người, không trộm cướp, không tà dâm, đừng hại người, không làm chứng dối, phải hiếu kính cha mẹ và thương nguời thân như bản thân”.

Người thanh niên thưa với Gia Tô: “Tất cả những điều răn đó tôi đã tuân thủ từ thuở bé, thế thì tôi phải làm gì thêm?” Gia Tô người thanh niên, tỏ tình âu yếm và bảo: “Ngươi còn thiếu một việc: ngươi hãy về bán hết tài sản và chia phát cho người nghèo, làm thế ngươi sẽ được tài sản trên trời, rồi ngươi đến đây để theo ta”. Anh ta nghe Gia Tô nói xong, buồn rầu bỏ đi vì anh ta là người giàu có nhiều ruộng đất và lợi tức. Gia Tô buồn rầu nhìn các môn đồ rồi bảo rằng: “Các con hãy xem, người giàu muốn vào thiên đàng quả thật khó khăn! Này các con! Thầy bảo thật: Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng”.

Lời nói của Gia Tô trọng điểm là không phải mang tiền tài thí xá cho người nghèo mà nhấn mạnh đến sự vướng mắc tiền tài chính là sự chướng ngại cho con đường thông đến thiên quốc, điểm này mà chủ trương của Đạo Nguyên thiền sư giống nhau.

So với phú ông truy cầu con đường đi đến thiên quốc thì quyết tâm của Bàng Cư Sĩ đáng tôn kính hơn. Ông vì cầu đạo mà mang hết tài sản trút bỏ xuống biển, đích thật cần có quyết tâm và dũng khí. Không luận là Phật giáo hay Cơ Đốc giáo, đều cần những người có quyết tâm và dũng khí lớn như vậy để thực tu.

Bàng Cư Sĩ(? – 808) là một trong số ít người với thân phận tại gia mà lư danh trong thiền sử. Càng đáng đề cập hơn, Bàng Cư Sĩ cả nhà gồm có bốn người đều xứng đáng gọi là “Gia tộc của thiền”, bởi vì cái chết của họ tương đối khác thường, có thể nói đó là lối chết của thiền giả chính tông.

Những thiền gia tu hành cao thâm, phần đông đều có thể biết trước ngày chết của mình. Sự việc này thường thấy trong “Cao Tăng truyện”. Thậm chí không những biết trước ngày giờ ra đi mà nhiều thiền giả còn có thể tuỳ theo ý chí của mình mà quyết định công việc tử sanh. Bàng Cư Sĩ là một trong số những vị ấy. Giai thoại dưới đây được ghi trong lời tựa của “Bàng Cư Sĩ ngữ lục”:

Một hôm, Bàng Cư Sĩ quyết định vãng sanh (đương nhiên khác với tự tử, tuy chúng ta không rõ nguyên nhân trong ấy).

Bàng Cư Sĩ đem ý định của ông nói với cô con gái là Linh Chiếu và dặn dò:

“Thế gian hư ảo không thật. con ra ngoài cửa giúp ta để canh cao độ của mặt trời, đến khi đúng ngọ thì hãy thông tri cho ta một tiếng”

Bàng Cư Sĩ dự tính vừa đúng chánh ngọ thì sẽ vãng sanh.

Đến chánh ngọ, cô con gái vào nhà báo:

“Phụ thân đại nhân, đã chánh ngọ rồi, nhưng hôm nay là ngày nhật thực, không tinh cha hãy ra xem!”

“Thật có việc như thế sao!”

Thừa lúc Bàng Cư Sĩ bước ra ngoài nhà, Linh Chiếu cô nương đã toạ vãng sanh.

“Động tác con nhỏ này thật lanh lợi”

Bàng Cư Sĩ vừa mắng yêu vừa nhặt củi khô lo việc thiện hậu cho người con gái.

Bảy hôm sau, thái thú sở tại đến phúng điếu. Vị thái thú này bình thời đã dành rất nhiều sự kính ngưỡng đối với Bàng Cư Sĩ. Bàng Cư Sĩ gặp thái thú liền bảo:

“Phàm các hiện tượng đang hiện hữu điều là không tướng, nếu chấp không lmà có thì không thể được. Vì thế...” Lúc ấy trong nhà tràn đầy mùi thơm lạ và, Bàng Cư Sĩ đã vãng sanh.

Thế là thái thú phải long trọng cử hành tang lễ cho cư sĩ, và thông báo tin này cho Bàng phu nhân. Nghe tin, Bàng phu nhân bảo rằng:

“Thật là đáng ghét, không thông tri cho tôi một tiếng mà đi trước, làm sao chịu nổi!”

Bàng phu nhân lập tức truyền tin này cho người con trai đang làm ruộng hay.

“Ba con và Linh Chiếu đều đã chết rồi!” Bàng phu nhân vừa nói dứt lời, thì người con đang cầm cuốc đã buông lỏng và tằng hắng một tiếng rồi đứng đó vãng sanh.

Bàng phu nhân một mặt lo hậu sự cho con một mặt mắng yêu: “Thằng con thật bất hiếu!” sau đó đến từng nhà cáo biệt những người lân cận và từ đó không biết bà đã đi đâu.

--------------------------------
HIRO
---------------------------------
Lời bàn:
Được cái vé Vãng Sanh ai còn tiếc gì cái thân ô trược phàm tục !
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
TRẺ NÍT 3 TUỔI TUY BIẾT, ÔNG GIÀ 80 KHÔNG LÀM ĐƯỢC
(ĐIỂU SÀO ĐẠO LÂM )


Đường triều có vị Đạo Lâm thiền sư (741-824), do khi ngài tu hành tại Tần Vọng sơn Hàn Châu, chim trúc kéo đến làm ổ trên những cành cây tùng trong núi, cho nên được phong hiệu là “Điểu Sào thiền sư”.

Ngoài ra, chung quanh chỗ ở của ngài có rất nhiều chim ô thước làm tổ (đại khái có thể chúng cho rằng thiền sư là người cùng chủng loại), cho nên chúng rất ôn thuần với thiền sư, vì thế người ta cũng gọi ngài là “Thước Sào hoà thượng”. Vị Điểu Sào thiền sư này là vai chính trong câu chuyện.

Nhưng, nếu chúng ta không đề cập đến một vai chính khác, thì mẫu chuyện này không thể diễn xuất được. Vị đó là thi nhân Bạch Cư Dị đã rất nổi tiếng trong thi đàn Trung Quốc (772-846). Ông vì nhậm chức Thích Sử mà đến Hàng Châu. Thích Sử là quan lớn nhất của một châu, cũng gọi là “Thái Chú”, một quan chức có ngôi vị khá cao. Bạch Cư Dị lần đầu đến Hàn Châu, nghe cách đi đứng đặc dị của Điểu Sào thiền sư, bèn muốn đến bái kiến một phen.

Khi đến nơi, trông thấy chỗ ở của thiền sư, ông không thể tự chủ, lớn tiếng la hoảng:

“Chỗ ở của thiền sư rất nguy hiểm đấy!”

Bạch Cư Dị là người học Phật, ít nhiều cũng biết đôi chút Phật Pháp, vì thế ông thốt ra lời nói vừa có tính cách tỉnh nhưng đồng thời cũng nhắm vào hành vi đi đứng hiển dị khác thường của thiền sư đang mê hoặc dân chúng mà ngầm chứa mùi vị mai mỉa.

Khi đọc công án này lần đầu, tôi cũng đã có cùng cảm giác bực ghét như thế vì cảm thấy kẻ tu hành học Phật không cần thiết phải biểu lộ những hành động kỳ khôi lập dị.

“Nguy hiểm đấy!” lời nói của Bạch Cư Dị thật đúng chỗ. Bởi vì chúng ta có thể vin vào sự trả lời của thiền sư để hiểu rõ công phu tu hành của ngài. Và ngược lại, phản ứng của thiền sư sẽ cho thấy được công lực của Bạch Cư Dị đến đâu. Vì thế cuộc vấn đáp này có thể được coi là một trận biện luận tinh vi.

Điểu Sào thiền sư đã trả lời câu nói “Nguy hiểm lắm đấy!” rằng:

“Thái thú, cảnh ngộ của ông còn nguy hiểm hơn tôi!”

Quả thật, cảnh ngộ của chánh trị gia ngấm ngầm nguy cơ tứ phía. Chẳng hạn như bị giáng chức, đỗ hỏng, cách chức, bị hãm hại, làm ma thế mạng v.v... Không luận là giới chánh trị hay giới công thương đều đầy dẫy những loại nguy cơ như thế. Bạch Cư Dị vì giáng chức nên mới được điều từ kinh thành đến Hàn Châu. Trước những hiểm hoạ vô chừng ấy thà chấp nhận thế giới thiền định trên cây tùng còn an toàn hơn.

“Ông này! Thật lợi hại!”

Có lẽ trong lòng Bạch Cu Dị đã nghĩ như thế. Đến đây, thoại đề lại chuyển đổi.

Để bảo trì tính liên đới của toàn bộ cuộc đối đáp, chúng ta hãy thay đổi phương thức bằng cách tạm không giả thích từng câu, đợi sau khi phân rõ thắng bại, sẽ lần lượt giải thích tỉ mỉ, dưới đây là dịch văn:

Thái thú Bạch Cư Dị: “Chỗ ở của thiền sư nguy hiểm quá!”
Thiền sư: “Thái thú, cảnh ngộ của ông càng nguy hiểm hơn!”
Thái thú: “Thế nào mới là đại ý của Phật pháp?”
Thiền sư: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (đừng làm những việc ác, hãy thực hiện những việc lành).

Thái thú: “Việc đó trẻ nít 3 tuổi cũng biết”.
Thiền sư: “Nhưng, ông già 80 cũng khó mà làm được!”
Thái thú: “...”
Vấn đáp kết thúc, hiển nhiên Bạch Cư Dị đã thua.


Bạch Cư Dị hỏi: “Thế nào mới là đại ý của Phật Pháp?” không phải lấy cương vị học sinh để thỉnh giáo đại ý Phật pháp, mà là muốn Điểu Sào thiền sư trần thuật ra những gì đã liễu ngộ, đó là có ý trắc nghiệm thiền sư.

Còn Điểu Sào thiền sư đối với sự trắc nghiệm đã đưa ra lời giải đáp “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Thoáng nghe dĩ nhiên xuôi tai, không có chỗ nào sai lầm, nhưng lại cho người có trực giác nhận thấy câu trả lời quá tầm thường, Bạch Cư Dị đã nghĩ như thế.

Nào ngờ, câu nói này rất nổi tiếng trong Phật giáo [Thất Phật thông giới kệ]. Đó là kệ ngữ chung để chỉ dạy chúng sanh của bảy đức Phật đã từng thị hiện ở thế giới sa bà, trong đó có đức Thích Tôn. Toàn văn kệ ngữ này như sau:

Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo
(Đừng làm những việc ác, hãy thực hiện những việc lành, tự thanh tịnh tâm ý, đó là lới Phật dạy)

Bạch Cư Dị cảm thấy câu trả lời này thật tầm thường không có gì ly kỳ, nên thốt “Việc này đến con nít lên 3 cũng biết”, ý ngầm bảo nếu sớm biết như thế thì không cần thiết phải lặn lội đến thâm sơn bái kiến.

Nhưng không hổ danh Điểu Sào thiền sư, sau khi Bạch Cư Dị trả lời “Đến như trẻ nít 3 tuổi cũng biết”, thì ngài không chút do dự tức khắc đáp: “Hẳn thế, nhưng lão ông 80 tuổi chưa chắc làm được!”, bị thiền sư phang câu này, Bạch Cư Dị chỉ biết trợn mắt thè lưỡi, không sao có thể biện đáp thêm được.

Thiền hay Phật giáo cũng vậy, bất cứ là đạo lý gì, đều dạy con người bỏ theo thiện. Chỉ đơn sơ như thế, đơn thuần như vậy, mà chính là thiền, là Phật giáo.

Một thí dụ khác, khi qua đường lớn, tuy gặp đang lúc đèn đỏ, nhưng thấy không có xe cộ nên định băng qua, con tôi đứng bên cạnh vội cản tôi lại. Tôi bảo “Không được phép băng đèn đỏ thì đúng rồi, nhưng...có quan hệ gì đâu!”

Con tôi bấy giò chỉ đang học Ấu Trĩ Viên. Kết quả, cái quy tắc giao thông “Không thể vượt đèn đỏ” cả con nít 5 tuổi cũng biết, nhưng người lớn lại rất dễ vi phạm.

“Không quan hệ gì!” Vừa nói xong, trong đầu tôi tức khắc hiện lên lời nói của Điểu Sào thiền sư. A! cho dù người lớn, đã 40 như tôi, cả cái quy tắc giao thông thông thường cũng không cách nào tuân hành nghiêm túc. Như thế, đàn ông trung niên trên tuổi 40 chỉ biết cãi lời đoạt lý thôi sao?

Thiền không lý luận nhưng hiểu rõ đạo lý, “Thiền không phải là lý luận” chưa hẳn là đại biểu cho sự thấu hiểu về thiền. Nghe qua dường như có vẻ đáng buồn, nhưng xin hãy bình tĩnh, chớ nóng nảy, nóng giận là kẻ địch lớn của thiền. Hãy thong dong chậm rãi mà thể hội! Cuối cùng từ trong ấy bạn sẽ hiểu rõ đạo lý của thiền.

--------------------------
Hiro.
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
THẾ NÀO MỚI TRÁNH CHO MÈO KHỎI BỊ GIẾT?
(NAM TUYỀN PHỔ NGUYỆN )


Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) vốn là một vị tăng có trình độ học vấn rất cao, ngài tinh thông “Kinh Hoa Nghiêm” (1), lãnh ngộ “Không” lý (2) của Bát Nhã” và sau này còn chuyên nghiên cứu về giới luật. Dù thế, sau cùng ngài vẫn vứt bỏ tất cả học vấn, theo phụng sự Mã Tổ Đạo Nhứt thiền sư và tự nhận là một thiền giả suốt cả cuộc đời.

Mẫu chuyện dưới đây là một công án nổi tiếng của Thiền. Cái gọi là công án, cũng có thể gọi là trắc nghiệm vấn đề. Tốt nhất xin quý vị độc giả hãy trắc nghiệm ở đây rồi tự nêu ra một đáp án mà quý vị cho rằng tiêu chuẩn nhất.

Một hôm, có một số thiền sinh đã chỉ vì chuyện của một con mèo mà tranh cãi không ngừng, lúc bấy giờ Nam Tuyền thiền sư thấy thế, nắm cổ con mèo giơ lên cao và bảo:

“Này chư vị, trong số chư vị nếu có ai vì mèo mà có thể nói được một lời thì tôi sẽ không giết con mèo này, nếu không, tôi lập tức chém nó ngay. Hãy thử nói một câu!”

Lúc ấy, đám đông lặng thinh.

Thế là Nam Tuyền lập tức giết chết con mèo.

Đến đêm, một đệ tử của Mã Tổ là Triệu Châu (Tùng Phẩm) từ ngoài về, Nam Tuyền thiền sư đem câu chuyện xảy ra ban ngày thuật lại cho ông. Triệu Châu nghe xong, đã không một lời nào đáp lại, cởi đôi giầy rơm đội lên đầu rồi bước ra khỏi phòng .

Nam Tuyền thiền sư thấy vậy bèn nói:

“Lúc ấy nếu ngài có mặt, con mèo đã không bị giết...”


Vấn đề ở chỗ, Triệu Châu tháo giầy rơm đội lên đầu có ý gì?
Quý vị độc giả, quý vị có thể cứu sống con mèo này không?
Đề mục nêu trên, nếu mách với quý vị:

“Xin lỗi! tôi cũng không trả lời nổi” thì sẽ không khỏi bị độc giả mắng cho một trận! May mà vấn đề này có sẵn trong điển tích Thiền Tôn “Vô Môn Quan”, vì thế tôi mới có thể mạnh dạn thú nhận là tôi không có giải đáp. Xin độc giả tự căn cứ vào trí tuệ của mình mà tìm đáp án.

Nếu trong số quý vị có người muốn khống cáo Nam Tuyền hòa thượng là kẻ ngược đãi động vật, tôi khuyên độc giả ấy hãy giữ im lặng thì tốt hơn. Bởi vì bản ý của Nam Tuyền là muốn cứu con mèo, thật sự, để cho con mèo bị giết chính là những người đã đặt Nam Tuyền hòa thượng vào tình thế khó xử!
----------------------------------------------------------------------
HIRO .
------------------------------------------------------------------------------
Chú (1): Một trong những đại biểu kinh điển của Đại Thừa Phật giáo. Toàn Kinh thuật rõ đạo lý “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”.

Chú (2): “Không” là lý niệm cơn bản của Đại Thừa Phật pháp, cũng là trung tâm tư tưởng của “Bát Nhã Kinh”. Thuyết minh sở hữu thực thể tồn tại đều là đạo lý “Không” cùng với tư tưởng “Thiền” tương thông với nhau
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
TRÍ TUỆ THIỀN

Vào thời Phật tại thế, trong thành Xá Vệ, thủ đô nước Kiều Tát La (Kosa Là) Ấn Độ, có một người trẻ tuổi tên là Ương Quật Ma La là con ruột của một đại thần, không những thông minh lanh lợi mà còn là người đẹp trai tuấn tú. Đối với người Ấn, “Đẹp trai” còn có hàm ý là “tạo nghiệp”, “phạm tội”. Quả nhiên chàng thanh niên nầy “tội nghiệp” đầy mình. Lúc bấy giờ anh theo một vị Bà La Môn để tu, nhưng vợ của vị này cứ mãi tìm cách để khêu gợi anh.

Vì Ương Quật Ma La là một người tuổi trẻ có tinh thần cầu tiến nên đối với sự khêu gợi của sư mẫu anh đã đáp lại bằng một thái độ lãnh đạm. Dụ dỗ đủ cách nhưng vẫn không thành, do vậy, từ sự hổ thẹn bà đã trở thành giận dữ nên bà cáo buộc với chồng bà rằng Ương Quật Ma La đã tìm cách xâm phạm đến bà.

Để trừng phạt Ương Quật Ma La, Bà La Môn thượng sư đã ra lệnh cho hắn đến Xá Vệ thành giết 100 nam nữ và chặt hết ngón tay Út mang về để làm dây chuyền đeo cổ. Ương Quật Ma La không dám trái lệnh. Cuối cùng từ một người trẻ tuổi có tâm địa lương thiện anh đã biến thành một ma vương giết người không gớm tay.

Lúc Ương Quật Ma La giết xong người thứ 99 và chuẩn bị giết người cuối cùng thì gặp đúc Thích Tôn. Anh ta cũng định giết đức Thích Tôn, nhưng sau cùng vì nghe sự giáo huấn của đức Thích Tôn mà buông đao và cạo đầu làm đệ tử ngài.

Vấn đề là ở chỗ.

Sau khi Ương Quật Ma La đã thành đệ tử của Phật, một hôm đang ôm bình bát đến Xá Vệ để khất thực, vì mối cừu hận của những người trong thành đối với ông vẫn còn do vậy mọi người khi trông thấy ông đã ra tay ném đá công kích, dĩ nhiên đã không một ai đem vật thực để cúng dường. Ngay qua ngày, Ương Quật Ma La đành ôm bát không trở về và toàn thân lại mang đầy thương tích

Đức Thích Tôn chỉ im lặng thương hại nhìn ông. Mãi đến một hôm, đức Thích Tôn đã bảo với ông rằng:

“Này Uơng Quật Ma La! Hãy nhẫn nại thêm nữa! Đây là nghiệp báo mà lẽ ra kiếp sau con phải gánh chiu nhưng nó đã ứng nghiệm trong kiếp này!”

Đây là một lời dạy của một bậc đại giác! Khiến tôi phải thương hại cho Ương Quật. Ương Quật Ma La không nhẫn nại thì không còn cách nào khác. Nếu không nhẫn nại được cái khổ hiện tại mà chỉ muốn tránh thì cho dù có trốn được một lúc nhưng tương lai không bao lâu chắc chắn vẫn chịu sự báo ứng. Nếu muốn tương lai khỏi bị quả báo thì hiện tại nhất định phải hoàn tâm nhẫn nại.

Nhưng, thông thường người ta cứ muốn trốn tránh những hiện thực vì không chịu đựng được những khổ nạn trước mắt. Đa phần chỉ một mực ảo tưởng về một vị lai không thực tế, hoặc cứ đắm chìm trong quá khứ một cách vô vọng. Đây là hành vi vô minh nhưng chúng ta lại thường không tự biết.

Chỉ có sống với “Đang là, hiện tại”, đó mới là cuộc sống chân chính của chúng ta. Tuy ôm ấp lý tưởng tương lai là một điều không thể không có, nhưng chúng ta phải nhận thức rõ một điểm: Con người không thể sống trong cuộc sống của người khác. Căn cứ vào nhận thức nầy, chúng ta càng phải tích cực thể nhập và sống trọn vẹn ngay trong “Lập tức, hiện tại bây giờ và ở đây”.

Đó chính là sự sinh hoạt trí tuệ của thiền.

---------------------------------------------
HIRO .
---------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
THUYẾT PHÁP

Một phụ nữ đến gập vị sư trụ trì để cám ơn những buổi thuyết pháp mà bà ta đã được tham dự (miễn phí) .

Vị trụ trì nói bà ta không phải cám ơn vì đó là quyền lợi của bà ta .
Bà ta trả lời:
"Tôi không phải là Phật tử, trong một thời gian lâu, tôi tham dự các buổi thuyết pháp của ngài, không phải để đến nghe ngài thuyết pháp mà để tìm chỗ trốn ông chồng vũ phu của tôi . Tôi đến đây trong thời gian đó chẳng nghe ngài giảng gì hết, có thể tôi ngủ gục cũng nên .
Tuy nhiên có một hôm tôi lắng nghe thử bài thuyết pháp của ngài về sự "Tha Thứ" và "Thương Yêu" . Khi về nhà tôi "thử" áp dụng và kết quả tốt đẹp ngoài sự tưởng tượng của tôi .
Khi chồng tôi đánh đập tôi, tôi lặng thinh không "la lối", "kêu rên" như thường tình mọi lần mà chỉ nhẹ nhàng đối đáp lại với sự tha thứ và thương yêu . Chồng tôi ngạc nhiên với sự thay đổi của tôi và anh ta sau đó cũng dần dần bỏ thói vũ phu .
Mới đây anh ta đã mua quà tặng để xin lỗi về sự vũ phu đã qua . Hôm nay tôi đến cám ơn ngài là vì vậy ."

Vị trụ trì đáp:
"Thật ra tôi phải cám ơn bà mới được, vì đây là một dịp tôi phổ biến được Phật Pháp "

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
SỰ LÃNG MẠN CỦA THIỀN SƯ


Một Thiền Sư nhận một đệ tử ngưòi Mỹ . Khi đi khất thực với thầy, anh ta cứ như người mất hồn .

Thiền Sư hỏi:"Con nhớ bạn gái của con phải không ?"

(Vị Thiền Sư không nói tiếng Anh, câu hỏi được "Thông Dịch Viên" dịch qua tiếng Anh .)

Thiền Sinh người Mỹ, kinh ngạc, há hốc miêng ra . Anh ta nói với Thông Dịch Viên để dịch lại:

"Thầy nói đúng quá !"

Thiền Sư nói:
"Vậy con hãy viết thư cho cô ấy nói cô ấy gửi cho con cái gì do cơ thể cô ta tạo ra . Mỗi khi con nhớ cô ấy, con mang ra chiêm ngưỡng, thưởng thức ."

Thiền Sinh:"Tu sĩ có được phép làm vậy không thầy ? "

Thiền Sư:"Được"

Thiền Sinh:"Vậy thầy khuyên con nên nói cô ấy gủi cho con cái gì ?"

Thiền Sư trả lời xong, Thông Dịch Viên ngần ngừ mãi mới dịch và vừa dịch vừa bịt miệng cười .
Câu trả lời của Thiền Sư như sau:
"Con nói cô ấy gửi cho con một "Chai Đựng Phân" của cô ấy . Khi nào nhớ đến cô ấy, con mang chai phân đó ra ngửi !
-------------------------------------------------------

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
GIẾT MÈO
( Taisen Deshimaru )


Ngày xưa, có một gã samourai đi câu bên bờ suối, câu mãi mới được một con cá. Gã sửa soạn đem đi nướng ăn ngon lành, thì bỗng nhiên từ trong bụi rậm vụt ra một con mèo, cuỗm lấy cá, chạy đi. Gã nổi xung, tuốt kiếm đuổi theo và chặt con mèo ra làm hai đoạn. Cơn giận tiêu tan, gã đâm ra ăn năn, hối hận. Bởi vì gã vốn là một người Phật tử.
Trên con đường về, gã nghe như gió thổi trong cành lá tiếng "meo". Mỗi bước đi của gã dường như vang lên tiếng "meo". Những người qua lại trên đường nói chuyện lao xao với những tiếng "meo". Bạn bè cũng diễu cợt gã bằng tiếng "meo". Ngay cả trong ánh mắt những đứa con gã cũng phản chiếu tiếng "meo". Mỗi lần chợp mắt là gã mơ thấy "meo". Tỉnh dậy, chung quanh gã tất cả là "meo". Chính gã cũng trở thành "meo"...

Cuối cùng, mất ăn mất ngủ, gã samourai thân hình tiều tụy chỉ còn là cái xác không hồn. Gã tìm đến một ngôi chùa, gặp một vị thiền sư già, và xin ngài giúp đỡ :
" Bạch sư phụ, xin sư phụ cứu vớt con... Con không thể nào chịu đựng được nữa..."

Nghe kể lại sự tình xong, vị thiền sư thở dài, cau mày quở trách :
" Làm sao một võ sĩ như ngươi có thể hèn mạt đến như vậy được ? Nếu không thắng được những tiếng "meo" kia, thì ngươi chỉ còn có một cách là tự sát. Không còn con đường nào khác hơn, là tự làm hara-kiri, ngay bây giờ và tại đây ! Nhưng vì lòng từ bi, ta sẽ không để ngươi đau đớn, bằng cách chém phăng đầu ngay, sau khi ngươi bắt đầu tự mổ bụng."

Gã cúi đầu lạy tạ, tuy trong lòng vô cùng kinh sợ cái chết.

Sau khi sửa soạn nghi lễ xong, gã ngồi xuống, vạch áo, hai tay cầm chiếc dao hướng vào bụng mình. Vị thiền sư đứng sau gã, giơ cao kiếm. "Bắt đầu đi !", ông ra lệnh.
Gã samourai từ từ đặt lưỡi dao vào bụng mình, mồ hôi nhỏ giọt. Ngay lúc đó, vị thiền sư lên tiếng :
- Còn nghe thấy tiếng "meo" không?
- Chao ôi ! Không... Thật lúc này con không nghe thấy gì hết !
- Vậy, nếu không còn tiếng "meo" thì không cần phải chết ..."
---------------------------------------------

Lời bàn:
Đã trả xong nghiệp, dứt vọng tưởng !

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Thiền sư Bổn Tịnh dạy Minh Chí:

"Nếu đại đức hiểu bằng vào thấy-nghe-hiểu biết thì cùng với Đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết chứ không phải người cầu Đạo. Kinh dạy: Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn còn không, vậy thì thấy nghe hiểu biết nương vào đâu mà lập? Cùng tột nguồn gốc chẳng có chỗ nào còn tâm ?

---------------------------------
Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
THIỀN SƯ BÀNG KHUÊ (BANKEI)

Cũng một chuyện ấy

Một vị giảng sư Phật giáo đến bảo tôi: Thay vì cứ nói đi nói lại mãi một chuyện ấy trong các thời giảng hết ngày này sang ngày khác, đáng lẽ thỉnh thoảng ngài nên kể vài mẩu chuyện thần thông biến hóa trong đạo Phật, để cho người ta xả hơi đôi chút có hơn không?

Dĩ nhiên có lẽ ông ta nói có lý. Có thể là tôi rất ngu đần, nhưng nếu làm vậy mà cung cấp được điều gì thực sự hữu ích cho người ta, thì dù có ngu đần hay không ngu đần tôi cũng có thể rán học thuộc lòng vài mẩu chuyện. Tuy nhiên, giảng dạy những thứ ấy không khác gì cho người ta ăn thuốc độc. Mà cho người ăn độc dược là điều chắc chắn tôi không thể làm!

Tôi không giảng đạo Phật

Sư lại nói: Tôi không giảng dạy người ta bằng cách trích dẫn những lời nói của chư Phật chư Tổ. Vì tôi có thể làm việc ngay với chính tự ngã của mỗi con người, nên không cần chất thêm lên đó những trích dẫn lời Phật, Tổ. Tôi không nói về đạo Phật, không nói về đạo thiền. Thực sự là không cần gì nói đến những thứ ấy. Vì tôi hoàn toàn có thể được việc trong lúc chỉ cần trực tiếp với những bản ngã con người ngay đây trong hiện tại, nên tôi không cần nói Phật cũng không cần nói thiền...

Gặp những bậc Thầy: Dòsha và Ingen

Trước năm ba mươi tuổi, tôi vẫn tiếp tục mặc áo jittoku (CT. một kiểu áo dành cho người tập sự và cư sĩ- ND) không khoác thêm tăng bào. Nhưng năm tôi được 30 tuổi, thầy tôi (thiền sư Umpo, vị thầy đầu tiên của Bankei-ND) đề nghị tôi nên đến viếng vị thiền sư Trung hoa Dòsha Chògen ở Naninsan (nay thuộc tỉnh Phúc kiến- ND) vừa mới đến Nagasaki. Khi tôi quyết định đi, thầy bảo: "Lâu nay ông mặc vậy cũng được, nhưng bây giờ khi đến yết kiến một vị sư Trung hoa, ông mặc vậy không xong. Ông nên vì Pháp mà từ nay về sau hãy mặc tăng bào, vậy hãy mặc mà đi viếng Dosha". Thế là, theo lời dạy của thầy, lần đầu tiên tôi vận tăng bào mà đi viếng Dosha. Tôi trình bày ngay kiến giải của mình. Dosha nhìn tôi từ đỉnh đầu xuống đến gót chân rồi bảo: "Ông đã vượt qua sống chết!"

Trong số những thiền sư thời ấy, chỉ có Dosha có thể gọi là xác chứng được kinh nghiệm giác ngộ của tôi; mặc dù vậy, tôi vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn. Bây giờ khi nhìn lại, tôi vẫn không thấy Dosha khả dĩ chấp nhận được. Giá mà Dòsha vẫn còn sống đến ngày nay, thì tôi đã có thể giúp ông trở thành một con người khá hơn. Nhưng ông là một người thiếu may mắn và đã chết sớm, tôi rất lấy làm tiếc.

Khi tôi là một thành viên trong chúng hội của Dòsha, đại chúng gửi thư sang Trung quốc để cung thỉnh thiền sư Ingen. Vị này đến Nhật khi tôi còn ở với Dosha. Ông lên bờ tại cảng ở Nagasaki. Tôi cùng đi trong đoàn đón rước ông, nhưng vừa khi thấy ông bước ra khỏi tàu để lên bờ, tôi nhận ra ngay ông không phải là con người của Bất sinh, vì lý do đó mà tôi không bao giờ theo học với ông ta cả.

Tôi saün sàng làm chứng cho các bạn !

Tất cả quý vị ở đây hiện tại thật là vô cùng may mắn. Lúc tôi còn trẻ, không có những bậc thầy giác ngộ hoặc nếu có, tôi đã không đủ may mắn gặp được. Lại vì thuở bé tôi rất ngu đần nên đã phải chịu gian nan không thể tưởng. Ôi tôi đã phấn đấu một cách vô ích làm sao. Tôi không thể nào quên được những nỗ lực vô bổ ấy, đã để lại một ấn tượng sâu xa trong người tôi. Tôi phải học rất vất vả, học từ kinh nghiệm. Đó là lý do tôi rán xuất hiện như thế này mỗi ngày, để thúc giục quý vị, vì tôi muốn tất cả quý vị giác ngộ một cách tiện nghi thoải mái, không có một phấn đấu vô dụng nào như tôi đã làm. Tất cả quý vị phải tự thấy mình may mắn lắm. Quý vị còn tìm được ở đâu thứ cơ hội như thế này?

Tôi không định kể cho quý vị nghe chuyện này - về thời trai trẻ, chính vì ngu độn mà tôi đã phấn đấu một cách vô ích như thế nào - nhưng tôi sẽ đáng trách nếu trong quý vị có người nào cũng làm như tôi, vì tưởng không phấn đấu cam go thì không thể nào chứng ngộ chân lý. Bởi thế, mặc dù tôi không định nói, các bạn trẻ hãy lắng nghe cho kỹ. Bởi vì không cần phải trải gian nan như tôi, quý vị vẫn có thể đạt đến sự chứng ngộ hoàn toàn. Trước hết để tôi kể cho các bạn nghe về những phấn đấu của tôi, rồi các bạn sẽ thấy không cần làm như Bankei, các bạn cũng có thể đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Tôi muốn các bạn hãy nhớ lấy điều ấy trong khi lắng nghe. Vậy hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ bắt đầu.

Cha tôi họ Suga, vốn là một ronin hay hiệp sĩ độc lập, theo đạo Khổng, xuất thân từ Shikoku (một trong năm đảo lớn của quần đảo Nhật bản. Nay thuộc quận Tokushima. ND). Ông đến định cư tại vùng này (Aboshi - bài giảng này nói ở chùa Long môn. ND) ở đây tôi được sinh ra, nhưng ông qua đời lúc tôi hãy còn bé, để lại một mình mẹ nuôi tôi khôn lớn. Theo bà kể thì hồi thơ ấu tôi là một trẻ hư hỏng, làm đầu têu bọn trẻ phá làng phá xóm. Nhưng, mẹ tôi kể, vào lúc chỉ mới chừng hai ba tuổi, tôi đã sợ chết: mỗi khi tôi khóc mà có nguời nào làm bộ như chết, hoặc bảo tôi có người nào chết, thì tôi nín khóc ngay, và lại còn chấm dứt bất cứ trò nghịch phá nào nếu gặp lúc tôi đang chơi nghịch.

Dần dà tôi lớn lên. Khi tôi còn niên thiếu, đạo Khổng đang thịnh hành, mẹ tôi gởi tôi đến một ông thầy bắt tôi học thuộc lòng sách Đại học. (CT. Vào thời đại Tokugawa - thế kỷ mười bảy - ở Nhật, sách Đại học và một chương trong Lễ ký là chương trình học vỡ lòng chính thống, vì nó ngắn và dễ học nhất trong các sách nho, chỉ cốt cho trẻ tập viết và học thuộc lòng, không cần giảng nghĩa. ND). Nhưng khi đọc câu Đại học chi đạo, tại minh minh đức (Cái học lớn lao là phải làm sáng cái đức sáng) tôi không thể hiểu đức sáng là cái gì. Hết sức hoài nghi, tôi thắc mắc về nó một thời gian.

Có lần tôi đến hỏi một vài nhà nho: Đức sáng là thứ gì? Hãy nói cho tôi biết đức sáng là gì cái đã. Nhưng không ai biết để trả lời tôi.

Nhưng một hôm có người bảo tôi: Những điều khó như thế chỉ có các thiền sư mới hiểu nổi. Hãy đi mà hỏi các vị ấy. Dù chúng tôi có thể đọc vanh vách chữ nghĩa trong các cổ thư (Trung hoa) nhưng khi hỏi đến Đức sáng là cái gì, chúng tôi cũng chịu, không hiểu được.

Ổ, thì ra sự thể là như vậy, tôi than thầm, thấy mình vẫn còn ở mãi trong u tối. Vì trong vùng lân cận chẳng có vị thiền sư nào nên tôi không có dịp hỏi ai. Tuy thế, tôi liền lập chí thế nào mình cũng phải tìm cho ra ý nghĩa của Đức sáng, và sẽ nói cho mẹ già nghe trước khi bà nhắm mắt. Mặc dù chưa hiểu được điều ấy, tôi cũng đã mong mỏi trước hết sẽ nói cho mẹ nghe vì bà đã già, có thể chết bất cứ lúc nào. Với hi vọng giải quyết nghi vấn về Đức sáng, tôi đi lang thang khắp nơi một cách vô vọng, tìm kiếm khắp chỗ. Bất cứ nơi nào mà tôi nghe có buổi thuyết pháp, nói chuyện, diễn thuyết, thì dù cách xa đến mấy tôi cũng vội vàng đi đến. Khi trở về nhà, tôi thường thuật lại cho mẹ những gì có ý nghĩa mà tôi đã nghe được, nhưng thắc mắc của tôi về Đức sáng vẫn chưa tìm ra giải đáp.

Sau đó tôi quyết định đi viếng một thiền sư. Khi tôi hỏi ông về Đức sáng, ông bảo: "Nếu cậu muốn hiểu thì hãy tọa thiền đi, rồi sẽ hiểu Đức sáng là gì". Kết quả là ngay sau đó tôi khởi sự tập tọa thiền. Tôi đi vào trong núi, không ăn gì cả trong vòng bảy hay cả đến mười ngày, tìm một đỉnh núi nhọn mà ngồi, vén áo để lưng trần dựa vào đá núi, cương quyết thiền định tới cùng dù có phải chết, không rời khỏi chỗ ấy cho đến khi cuối cùng tôi ngã vật xuống. Vì không có cách gì nhờ người mang thực phẩm đến, nên thường tôi không ăn gì cả trong nhiều ngày. Nhưng vì chỉ muốn một điều là giải đáp về Đức sáng, nên tôi chẳng quản ngại ngất xỉu vì đói, và nhất định không để cho sự đói khát cản trở mình. Mặc dù vậy, tôi vẫn không thể giải quyết thắc mắc về Đức sáng.

Sau đó tôi trở về quê hương, dựng một cái chòi để nhập thất. Có những lúc hoàn toàn tập trung vào pháp niệm Phật (CT. nembutsu, một pháp thiền định bằng cách niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT liên tục mà các thiền sư áp dụng để định tâm. ND) tôi ngồi suốt cả ngày đêm không đặt lưng xuống chiếu.

Cứ thế tôi mò mẫm một cách vô vọng, nỗ lực mỗi ngày mà thắc mắc của tôi về Đức sáng vẫn chưa được giải quyết. Không kể gì mạng sống, tôi hành thân hoại thể đến độ da mông tôi bị rách nát, mà hậu quả là tôi chỉ có thể ngồi một cách hết sức đau đớn khó nhọc. Tuy nhiên, khi nhìn lại quãng đời ấy, tôi thấy lúc bấy giờ sức chịu đựng của tôi cũng khá, nên mặc dù đau đớn như vậy tôi vẫn không chịu nằm nghỉ lấy một ngày. Vì da thịt sau mông bị lở loét nên tôi phải lót một lớp dày giấy bổi để ngồi lên trên, và thay hết lớp này đến lớp khác. Mặc dù vậy, máu vẫn không ngừng tuôn ra, và vì quá đau đớn đôi khi tôi phải lót bông vải hay bất cứ gì ở phía dưới. Thế nhưng tôi vẫn có thể trải qua trọn một ngày đêm không đặt lưng nằm.

Vì nỗ lực quá căng vào những năm ấy, cuối cùng tôi ngã bệnh nặng. Vẫn chưa giải quyết được vấn đề Đức sáng, tôi phấn đấu với nó một thời gian, chịu đựng gian khổ ê chề. Bệnh tôi càng ngày càng nặng, cơ thể gầy mòn, mỗi khi ho đàm lại khạc ra từng cục máu tròn bằng ngón tay cái, đặc đến nỗi có khi nó bắn vào vách rồi lăn xuống. Khi ấy mọi người quan tâm đến tôi đều nói: Nhất định không xong rồi. Chú phải nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe. Bởi thế theo lời khuyên của họ, tôi rút về gian chòi, mướn một người tớ trai.

Nhưng bệnh tình của tôi tới hồi nguy kịch. Suốt bảy ngày liền tôi không thể nào nuốt được một chút gì ngoài chút ít nước cháo lỏng. Do đó tôi nhận ra mình sắp chết. "À ra thế, không còn gì có thể làm được nữa", tôi tự nhủ, nhưng không tiếc nuối gì ngoài ra là nghĩ mình sắp chết mà không hoàn tất được ước nguyện ấp ủ từ lâu.

Ngay khi ấy, tôi có một cảm giác lạ lùng nơi cổ họng, và khi khạc vào vách tường, tôi để ý thấy một viên tròn đông đặc màu đen như cái hột đào đang lăn xuống. Sau đó tôi cảm thấy lồng ngực nhẹ nhõm một cách lạ lùng, và đấy là cái lúc tôi chạm phải Nó. Mọi sự đều tự giải quyết hoàn toàn ổn thỏa với Bất sinh, bấy lâu nay vì không nhận ra điều này nên tôi đã nỗ lực đến kiệt sức một cách vô dụng! Cuối cùng tôi mới thấy tôi đã lầm.

Bấy giờ cảm thấy tinh thần sảng khoái, tôi gọi người tớ nấu cháo ăn. Người đầy tớ của tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy một kẻ sắp chết lại đòi ăn như vậy, anh ta sung sướng la lên và vội vàng luống cuống đi nấu cháo. Vì hấp tấp nên anh ta đã dọn cho tôi ngay cháo còn sống, song tôi vẫn mặc kệ, ăn liền mấy bát đầy mà vẫn không sao cả. Sau đó tôi dần bình phục và sống cho đến ngày nay (CT. Lúc ấy Bankei đã 68 tuối. ND). Cuối cùng tôi đã thực hiện được ước mơ tôi hằng ấp ủ là san sẻ chân lý tôi đã chứng ngộ cho mẹ tôi trước khi bà qua đời. (CT. Mẹ Bankei về sau cũng xuất gia với tên Myosetsu, chết năm 1680 lúc bà 91 tuổi. ND)

Từ khi tôi ngộ ra rằng mọi sự được thu xếp xong xả hoàn toàn nhờ cái Bất sinh, không người nào trong xứ có thể phản bác tôi được. Nếu trong lúc tôi mò mẫm một cách vô vọng như thế, mà có người nào đã giác ngộ nói cho tôi biết ngay từ đầu, như tôi đang nói cho quý vị hiện nay, thì có lẽ tôi đã khỏi uổng phí bao nhiêu phấn đấu vô ích. Nhưng vì hồi đó không tìm ra được một người nào như thế, nên tôi đã phải trải một thời gian dài khó nhọc phấn đấu vượt quá sức chịu đựng. Cũng vì thế mà đến bây giờ tôi vẫn còn là một kẻ ốm yếu, không thể ra gặp gỡ quý vị nhiều như tôi muốn.

Khi đã trực ngộ được mọi sự đều được thu xếp ổn thỏa nhờ cái Bất sinh, tôi mong muốn nói lên điều ấy với một người nào. Trong khi tôi hoang mang chưa biết ai là người tôi nên đi gặp, thì thầy tôi ( CT. tức Umpo- ND) bảo: "Ở Mino (CT. nay là quận Gifu- ND), có bậc thầy tên Gudò (CT. Gudò Tòshoku, 1579-1661, là một trong những bậc thầy thuộc tông Thiên thai vào đầu thời đại Tokugawa. Ông cũng thuộc hệ phái Umpo thầy của Bankei, phái này sẽ phát xuất thiền sư nổi tiếng vào thế kỷ 18 là Hakuin Ekaku, Bạch Ẩn, 1685-1769- ND). Nghe nói ông là người tốt. Có thể ông ta sẽ xác chứng cho kinh nghiệm của chú, vậy chú nên đến trình bày với ông ta."

Hi vọng gặp được Gudò để trình bày sở chứng, tôi theo lời thầy khuyên và khởi hành đi Mino để gặp vị thiền sư, nhưng khi tôi đến nơi thì ông đã đi Edo (CT. tức Tokyo ngày nay- Vào thời đại Tokugawa, đấy là thủ phủ Nhật bản thay cho Kyoto- ND). Thế là tôi không gặp được ông, và về sau cũng không có dịp nào để nói chuyện với ông cả.

Sau khi đã lặn lội từ xa đến mà không đạt mục đích, tôi quyết định thay vì bỏ về, sẽ đi viếng những thiền sư trong vùng ấy. Khi đến nơi họ, tôi tự giới thiệu: "Tôi là một tu sĩ thiền từ Banshù đến (CT. tức tỉnh Harima, nay là quận Hyogò- ND) với hi vọng duy nhất là thăm viếng và nhận được chỉ giáo của chư vị."

Khi những vị thầy đã trình bày những lời dạy của họ, tôi xin mạn phép được phát biểu. Tôi nói: "Tôi biết thực là không phải phép, nhưng xin chư vị thứ lỗi cho, khi tôi nói điều này. Tôi không phải là không biết ơn về những lời dạy của chư vị, nhưng tôi có cảm tưởng như là người ta chỉ gãi ngứa cho tôi ở ngoài giày, chưa đạt tới cái cốt tủy."

Rất thành thực, những vị thầy ấy bảo tôi: Đúng như ông nói. Mặc dù mang tiếng làm thầy, chúng tôi chỉ có học thuộc lòng những danh từ trong kinh điển và ngữ lục để dạy lại người ta. Chúng tôi phải hổ thẹn mà nói rằng vì bản thân mình chưa thực chứng nên khi nói pháp, sự giảng dạy của chúng tôi quả thật chỉ như gãi ngứa ngoài giày, không làm ông thỏa mãn. Ông rất hiểu chúng tôi vậy. Chắc ông không phải là người tầm thường!

Thế là, vì không tìm ra được người nào ấn chứng cho kinh nghiệm giác ngộ của tôi, tôi trở về nhà đóng cửa nhập thất. Trong khi quan sát nhu cầu mọi người và tìm phương cách trình bày điều tôi đã chứng để cứu giúp họ, tôi nghe tin bậc thầy về thiền là Dòsha từ Trung quốc đã đến, đang ở Nagasaki. Theo lời chỉ giáo của thầy tôi, tôi đến yết kiến Dòsha. Khi tôi trình bày chỗ ngộ của mình, ông tuyên bố: "Chú là người đã vượt qua sinh tử." Thế là chỉ khi đến nơi Dòsha, cuối cùng tôi mới nhận được một chút xác nhận về sự chứng ngộ của mình. Vào thời ấy thực khó mà tìm ra được người nào có thể xác chứng một cách chắc chắn kinh nghiệm của tôi, nên tôi gặp khá nhiều vất vả. Bởi thế cho nên, khi nghĩ lại tôi đã khổ đến thế nào, bây giờ tôi phải đi ra mỗi ngày như vầy để gặp tất cả quý vị, mặc dù tôi đang đau ốm. Nếu trong đây có người nào đã kinh nghiệm được sự giác ngộ - bất cứ là ai - thì lý do duy nhất mà tôi ra đây là để làm chứng cho vị ấy. Quý vị quả là rất may mắn. Vì quý vị đã có một người có thể xác chứng cho kinh nghiệm giác ngộ của mình, nên nếu ai trong đây đã giác ngộ hoặc nghĩ mình đã hiểu vấn đề, thì xin hãy bước ra, và hãy nói lên nghe. Tôi saün sàng làm chứng! Tuy nhiên nếu chưa có ai hiểu, thì hãy lắng nghe tôi nói, và hãy chứng ngộ cho rốt ráo...

Chứng ngộ rốt ráo rằng cái Bất sinh đang chiếu sáng một cách kỳ diệu đó chính là Tâm Phật, là như thế này: Giả sử mười triệu người đồng thanh tuyên bố con quạ là con cò. Con quạ đen không cần ai nhuộm, cũng như con cò trắng không cần ai tẩy - đấy là điều chúng ta vẫn thấy biết như chuyện đương nhiên. Bởi vậy, dù cho không những mười triệu người, mà tất cả mọi người trong nước đều đồng thanh tuyên bố con quạ là cò, bạn vẫn không bị lừa bịp, mà tuyệt đối vững tin nơi mình. Đó là ý nghĩa của sự chứng ngộ rốt ráo. Hãy chứng ngộ rốt ráo rằng cái gì bất sinh chính là tâm Phật, tâm Phật thực sự là bất sinh và chiếu sáng kỳ diệu, và mọi sự được sắp đặt hoàn toàn ổn thỏa với cái Bất sinh, để cho dù có nghe bất cứ gì người ta cố nói với bạn, bạn cũng đừng để cho họ lừa bịp. Bạn sẽ không chấp nhận những si mê lầm lạc của người khác.

Lúc tôi còn trẻ và khởi sự giảng dạy giáo lý chân thực về Bất sinh, không ai có khả năng hiểu được. Khi nghe tôi nói, người ta dường như nghĩ tôi là một thứ tín đồ tà giáo hay theo Ki tô giáo (CT. Vào giữa thế kỷ mười sáu, Ki tô giáo du nhập Nhật bản do những nhà truyền giáo Tây ban nha và Bồ đào nha. Sau một thời oanh liệt ngắn, tôn giáo mới này bị chính quyền nghi kî và thẳng tay đàn áp suốt thời đại Tokugawa dài hơn hai thế kỷ - ND). Vì vậy họ sợ hãi không dám đến gần tôi. Nhưng dần dà họ nhận ra mình đã lầm, và thấy những gì tôi giảng dạy đúng là Chính pháp. Bây giờ, trái ngược với tình trạng lúc đầu không ai dám bén mảng đến gần, tôi lại bị khách khứa tràn ngập - những người nôn nóng muốn gặp tôi, lắng nghe giáo lý tôi giảng. Họ theo tôi liên tục tới nỗi không để tôi yên dù chỉ một ngày. Đấy, sự tình là thế.

Trong bốn mươi năm ở đây, thỉnh thoảng tôi giảng giáo lý chân thực về Bất sinh cho mọi người, nên kết quả là vùng này (chùa Long môn- ND) đã sản xuất nhiều người khá hơn những giảng sư về đạo Phật. Bởi thế, với các bạn cũng vậy, sao cho công khó của quý vị từ xa xôi đến sẽ được đền bù bằng cách khi trở về, quý vị đã hoàn toàn chứng ngộ Pháp, thực chứng cái Bất sinh một cách rốt ráo để đừng chuyển nó thành những (vọng) tưởng.

---------------------------------
Bản dịch Ni Sư Trí Hải
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Lớn lên trong mê lầm

Cái mà mọi người hấp thụ từ nơi cha mẹ chỉ là Tâm Phật bất sinh. Nhưng vì cha mẹ bạn không nhận ra điều ấy, nên bạn cũng bị mê lầm, rồi chính bạn lại trưng bày cái mê lầm này ra khi nuôi dạy con cái bạn. Cả đến vú nuôi và những người giữ trẻ cũng ưa nổi nóng, mọi người quan hệ đến việc nuôi dạy trẻ đều trưng ra mọi kiểu hành xử mê muội, như ngu si, ham muốn ích kỷ, và thói giận dữ của loài tu la (quỷ chiến đấu). Khi lớn lên, được đoanh vây bởi những người si mê như vậy, trẻ em thường phát triển một loạt thói xấu tệ nhất, trở nên rất dễ bị mê muội và biến thành những người không giác ngộ. Lúc ban sơ khi mới sinh, quý vị không có si mê. Nhưng vì những lầm lỗi của những người nuôi dạy bạn, mà một con người vốn ở trong Tâm Phật lại biến thành chúng sinh kém giác ngộ số một. Đây là điều mà tôi chắc chắn tất cả quý vị đều biết với kinh nghiệm bản thân.

Khi bạn mới sinh, cha mẹ không cho bạn bất cứ mê lầm nào như thói xấu, dục vọng ích kỷ. Nhưng về sau, khi ra giữa đời bạn mới lượm lặt đủ thứ si mê dần dần trở thành những thói hư tật xấu, làm cho bạn không thể không thành ra người mê muội. Cái mà bạn không lượm nhặt từ bên ngoài, chính là Tâm Phật bất sinh, và ở đây không hiện hữu một si mê nào. Vì tâm Phật chiếu sáng một cách kỳ diệu, nên bạn có thể học hỏi đủ thứ, ngay cả những hành vi lầm lạc. Nhưng cũng vì nó chiếu sáng kỳ diệu, mà khi nghe điều này, bạn sẽ quyết định không si mê nữa, từ đây trở đi sẽ chấm dứt tạo nên mê lầm và sẽ an trú trong Tâm Phật bất sinh. Cũng hệt như khi trước bạn siêng năng tập tành thói si mê, làm cho mình trở thành mê muội thế nào, thì bây giờ bạn cũng sẽ áp dụng chính cái khả năng ấy để lắng nghe và chấm dứt si mê. Đấy là điều kỳ diệu về Tâm Phật. Hãy lắng nghe, rồi bạn sẽ thấy sự quý báu của tâm Phật. Khi đã thấy không gì bằng cái Tâm Phật quý báu này, thì dù bạn có muốn si mê trở lại cũng không thể được!

Chính vì không nhận ra sự quý báu của tâm Phật mà bạn sa vào ngã chấp tạo ra đủ thứ si mê lầm lạc làm hại mình. Tuy thế, những mê vọng ấy đối với bạn lại quý báu đến nỗi tất cả các bạn đều muốn mê, dù có phải vong mạng! Thật điên rồ, phải không? Vì không thể cưỡng lại những thúc bách thấp kém do dục vọng ích kỷ phát sinh, bạn trở thành mê si. Tất cả các mê lầm đều từ đấy mà ra cả.

Ai cũng cho rằng cái lối hành xử mà họ thích là do bẩm sinh đã vậy, nên không thể nào sửa đổi. Họ không bao giờ nói kỳ thực họ sa vào thói chấp ngã là do dục vọng ích kỷ, cứ bám lấy những thói xấu mà họ ưa thích. Trái lại, họ cố làm ra vẻ thông minh, bảo rằng cái nghiệp bẩm sinh của họ đã vậy. Cái mình không nhận từ cha mẹ mà lại gán cho cha mẹ, đó là đứa con đại bất hiếu. Có ai mới sinh ra đã nghiện rượu, cờ bạc, trộm cướp và có saün những thói hư tật xấu không? Không ai cả. Nhưng một khi bạn đã nhấm nháp hơi men, thì sẽ nhanh chóng phát triển thành thói nghiện rượu, rồi vì ham muốn ích kỷ, bạn không thể dừng uống, cũng không nhận ra được mình đã mê lầm. Đó chỉ là sự điên rồ mới bộc phát, bạn không có lý do nào để tuyên bố nó là bẩm sinh để đổ thừa cho cha mẹ!

Khi nghe điều này, tôi mong tất cả quý vị từ nay trở đi hãy an trú trong Tâm Phật Bất sinh, cái tâm mà bạn có từ khi cha mẹ mới sinh. Như vậy, bạn sẽ không tạo những mê lầm về bất cứ gì, và khi không còn mê lầm, thì từ đây bạn sẽ mãi mãi là những vị Phật sống. Không gì rõ ràng trực tiếp hơn thế nữa. Tất cả quý vị cần phải dứt khoát thực chứng điều này.

------------------------------------------
Bản Dịch Ni Sư Trí Hải
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Ba mươi ngày trong bất sinh

Tất cả mọi người hãy làm đúng như tôi nói, theo lời tôi chỉ dẫn quý vị hãy khởi sự trú trong Bất sinh trong ba mươi ngày. Hãy tập an trú Bất sinh trong 30 ngày, rồi từ đấy về sau, dù muốn dù không, quý vị cũng sẽ phải trú trong Bất sinh. Quý vị sẽ thành công an trú Bất sinh! Vì cái Bất sinh chính là tâm Phật, quý vị sẽ vận hành với cái tâm Phật vào mọi thời. Như vậy quý vị sẽ là những vị Phật sống ngay hiện tại, phải thế không? Vậy hãy lắng nghe tôi như thể là tất cả quý vị mới sinh trở lại ngày hôm nay, bắt đầu lại mọi sự. Khi đã có một định kiến thì bạn sẽ không thâu nhận vào những gì mình nghe. Ngay bây giờ quý vị hãy lắng nghe như thể mình mới sinh ra, thì sẽ như là mới nghe tôi nói lần đầu. Nếu quý vị trong tâm không saün định kiến, thì vừa nghe một lời quý vị cũng sẽ hiểu ngay, và đạt đến thực chứng hoàn toàn về Pháp.

Cứ hỏi rồi tôi sẽ nói

Một hôm Sư bảo đại chúng: Tôi chỉ ra đây mỗi ngày để gặp gỡ tất cả quý vị, tôi không có gì trong tâm đặc biệt muốn nói với quý vị. Vậy nếu ai có điều gì muốn hỏi, hãy bước ra. Hãy hỏi bất cứ về cái gì, rồi tôi sẽ nói cho quý vị. Tôi không có gì đặc biệt muốn nói.

Kappa

Lúc tôi còn trẻ, có một kẻ cướp tên gọi là Kappa, chuyên cướp giựt tiền của người đi đường. Anh ta có biệt tài về cướp bóc. Mỗi khi trông thấy một người nào trên đường, anh ta có thể biết đúng số tiền người ấy mang theo, không bao giờ sai một tơ tóc. Đấy quả là một tên cướp ghê gớm. Tuy thế một hôm anh ta bị tóm, và ở tù dài hạn trong nhà lao ở Osaka. Nhiều năm trôi qua, và vì anh ta là một tên trộm tài danh, nên được cái lợi thay vì bị hành quyết, anh ta được làm người điềm chỉ cho cảnh sát. Một thời gian sau, anh ta lại còn được phóng thích. Khi được tự do, anh học nghề tạc tượng Phật, và lại trở thành một nhà chuyên môn tạc tượng Phật, lập nghiệp ở Osaka. Hoàn toàn đổi bỏ tâm lý tệ ác ngày trước, anh ta chuyên chú vào việc tu hành để giải thoát, và vào những ngày cuối đời anh chuyên thực hành pháp môn niệm Phật.

Vậy, ngay một tên cướp khét tiếng như Kappa một khi đã sửa đổi cũng thành người thánh thiện. Ở đây các bạn có thể tìm thấy một người nào trộm cướp bởi vì cái nghiệp của họ sâu dày và tội lỗi đã quá nặng? Trộm cướp chính là nghiệp, trộm cướp chính là tội lỗi. Nếu không có sự trộm cướp thì cái tội và cái nghiệp trộm cướp không thể có. Bạn có trộm cướp hay không là tùy thuộc vào trạng thái tâm của bạn trong hiện tại, chứ không phải vào cái nghiệp của bạn trong quá khứ. Và điều tôi đang nói đây không chỉ liên hệ đến việc trộm cướp, mà nói chung tất cả những si mê lầm lạc đều như thế cả. Bạn có si mê hay không si mê là tùy thuộc vào trạng thái hiện tại của tâm bạn. Khi si mê thì bạn là một chúng sinh, khi không si mê thì bạn là Phật. Không có con đường tắt đặc biệt nào để thành Phật ngoài con đường này. Có phải vậy không? Thế thì mọi người hãy thực chứng điều này một cách rốt ráo.

Đừng đánh thầy tu ngủ gục

Vào ngày đầu tiên của lễ rohatsu (CT. tuần lễ tọa thiền tại các thiền viện Nhật bản để kỷ niệm ngày Phật thành đạo, kéo dài từ mồng một đến khuya mồng tám tháng chạp âm lịch. ND) Sư bảo đại chúng: Tại thiền viện chúng tôi, đời sống bình thường mỗi ngày đã là thiền, không như các nơi khác phải công bố Từ hôm nay trở đi, hãy thiền định! rồi mọi người mới lăn xả vào chẳm bẳm hành thiền.

Rồi Sư tiếp: Một lần, khi tôi ở trong hội chúng của Dosha (CT. tức thiền sư Trung hoa Tao-che đời Minh, mà Bankei theo học - ND) có một thiền sinh ngủ gục trong thời thiền bị một thiền sinh khác đánh, nhưng tôi bảo vị này: "Tại sao ông đánh một người đang ngủ êm? Khi ngủ, anh ta có khác gì khi thức?"

Tôi không khuyến khích người ta ngủ, nhưng đánh người ngủ thì thực là sai lầm. Bây giờ tại đây, tôi không cho phép làm như vậy. Mặc dù không khuyến khích họ ngủ, tôi cũng không đánh hay la rầy họ vì ngủ gục. Tôi không khiển trách hay ca ngợi ngủ, mà cũng không khiển trách hay ca ngợi không ngủ. Hãy để tự nhiên cho người ta ngủ hay thức. Khi một người ngủ, là ngủ với cái tâm Phật của lúc tỉnh thức; khi thức, cũng là thức với tâm Phật. Họ vẫn luôn an trú trong tâm Phật, không lúc nào an trú chỗ nào khác. Vậy thực là lầm khi tưởng rằng một người nào lúc ngủ, sẽ biến thành cái gì khác. Nếu bạn tưởng người ta chỉ ở trong tâm Phật lúc thức, còn khi ngủ sẽ biến thành cái gì khác, thì đấy không phải là chân lý tuyệt đối, mà là một sự biến hóa vô cùng.

Tất cả quý vị đều đang nỗ lực để thành Phật quả, bởi thế nếu có ai ngủ gục thì đánh hay mắng người ta quả là việc sai lầm. Điều mà tất cả quý vị có từ lúc cha mẹ sinh chỉ là tâm Phật bất sinh, không gì khác, vậy thay vì nỗ lực thành Phật, hãy luôn an trú trong tâm Phật bất sinh. Khi ấy thì dù thức hay ngủ, quý vị vẫn luôn luôn là một vị Phật sống, không lúc nào không là Phật. Đã luôn luôn là Phật, thì không có quả Phật gì đặc biệt để mà chứng đắc. Thay vì cố thành Phật, đơn giản hơn hết là đi tắt bằng cách vẫn là Phật.
---------------------------------------------
Bản Dịch Ni Sư Trí Hải
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Biết tâm người khác

Có người hỏi: Ai cũng nói ngài có tha tâm thông, có phải thế không?

Sư đáp: Trong trường phái của tôi, không có những chuyện phi thường. Và dù nếu có, chúng tôi cũng không sử dụng, vì tâm Phật vốn bất sinh. Khi nói với bạn, thì tôi làm việc với chính bản ngã của bạn, nên bạn tưởng là tôi có tha tâm thông. Nhưng tôi không có thần thông như thế. Tôi cũng giống như bạn mà thôi. Khi bạn trú trong Bất sinh, là bạn ở tận ngọn nguồn của tất cả thần thông diệu dụng của chư Phật, không cần tìm kiếm thần thông mà có thể xử lý mọi chuyện một cách êm thấm dễ dàng. Trong chính giáo về Bất sinh, bạn có thể dàn xếp mọi sự bằng cách làm việc với chính bản ngã bạn, không cần đưa vào những vấn đề ngoại lai.



Tiến và thối

Có người hỏi: Tôi đã nỗ lực hết sức để tiến đừng lùi, nhưng dù làm gì đi nữa, khuynh hướng thụt lùi vẫn mạnh hơn, và có những lúc tôi lùi thực sự. Và càng cố tiến tới, thì tôi chỉ có thấy mình lại thụt lùi. Làm sao cho tôi khỏi thụt lùi ?

Sư nói: Hãy an trú trong Tâm Bất sinh! Khi an trú, bạn không cần bận tâm về tiến hay thoái. Quả vậy, khi bạn an trú Bất sinh, thì nỗ lực tiến tới là lập tức lùi khỏi vị trí Bất sinh. Người của Bất sinh không can dự gì đến tiến hay lùi, mà vượt trên cả hai.

Giấy lộn

Một vị tăng nói: "Từ lâu tôi tham công án "Hyakujò và con chồn hoang (CT. Một mẩu chuyện trong Vô môn quan thế kỷ 13, về một vị tăng khi được hỏi bậc giác ngộ có rơi vào luật nhân quả hay không, đã trả lời là không, và chính vì trả lời vậy mà ông ta bị đọa làm chồn trong 500 kiếp. Vị tăng này cuối cùng được tổ Bách trượng Hoài hải cứu vớt, bằng cách sửa lại câu trả lời như sau: bậc giác ngộ không mê mờ luật nhân quả. Ở Viễn đông, con chồn là con vật nổi tiếng về tài vờ vĩnh, và từ ngữ "thiền chồn hoang" là để ám chỉ những người giả vờ làm như mình đã thực chứng- ND.) Mặc dù đã nỗ lực nhiều, tôi vẫn chưa giải quyết được công án ấy. Tôi chắc là do tôi đã không tu tập đúng mức. Xin ngài chỉ giáo cho."

Sư nói: Tại đây chúng tôi không tham khảo những thứ giấy lộn ấy. Vì bạn chưa từng nhận ra cái bất sinh đang chiếu sáng kỳ diệu chính là Tâm Phật, hãy để tôi nói cho nghe, rồi mọi sự sẽ thành ra sáng sủa. Vậy, hãy lắng nghe những gì tôi nói.

Khi ấy Sư trình bày giáo lý của ngài về Bất sinh như thường lệ. Sau khi chăm chú nghe, vị tăng thâm nhập chân lý, và về sau đã trở thành một bậc thầy xuất sắc.

Khi ấy một vị tăng ngồi kế bên đã hỏi: Vậy thì những công án của các bậc thầy ngày xưa là vô dụng, không cần thiết hay sao?

Sư trả lời: Những cách trả lời của các bậc thầy ngày xưa nhắm giải nghi cho từng người hỏi khi trực tiếp vấn đáp, tự bản thân chúng không có lợi ích gì đặc biệt. Tôi không cách gì nói được là chúng cần thiết hay không cần, ích lợi hay vô ích. Người ta chỉ cần duy nhất an trú trong Bất sinh, không có cách nào khác để tránh né. Hãy an trú Bất sinh! Trong trường hợp của bạn, thì chính vì tránh né đối diện trực tiếp với vấn đề nên bạn đã bị lầm. Hãy buông bỏ sự tránh né, vì cái bất sinh và chiếu sáng kỳ diệu ấy là tâm Phật không gì khác, hãy an trú trong đó.
----------------------------------------
Bản Dịch Ni Sư Trí Hải
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Tránh né vấn đề

Một cư sĩ từ Izumo đến thỉnh vấn: Đối với một người đã giác ngộ như ngài, có phải là Ba cõi thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai hiện rõ như trong lòng tay?

Sư trả lời: Có phải là bạn hỏi tôi, khi một người đã giác ngộ như tôi, thì Ba cõi hiện ra như được nhìn thấy trong lòng bàn tay, đúng không?

Cư sĩ đáp: Vâng, đúng thế.

Sư bảo: Câu hỏi ấy bạn đã suy nghĩ, hay mới đột nhiên nảy sinh để hỏi ?

- Không hẳn là tôi mới hình thành câu hỏi đó ngay tức thì, mà tôi nghiền ngẫm nó đã lâu rồi mới đây nghĩ lại, tôi đem ra hỏi ngài.

Sư bảo ông ta: Trong trường hợp đó, anh bạn không cần phải bận tâm hỏi chuyện của tôi. Còn việc bạn muốn thấy Ba cõi thì có thể đợi đó. Trước hết, hãy xem xét tường tận cái ngã của chính bạn - điều thực sự quan yếu ngay bây giờ và ở đây. Khi mà bạn chưa thấu rõ tự ngã của mình, thì dù tôi có bảo cho bạn biết vạn pháp đối với tôi ra sao, bạn cũng sẽ không nhận ra, không thấy được và do đó bạn sẽ không tin. Dù có tin, bạn cũng không thể xác chứng những lời tôi nói. Vì bản thân bạn chưa thấy được Ba cõi, tôi nói cũng không ích gì cho bạn. Khi đã hoàn toàn cứu xét tự ngã của mình, bạn sẽ tự biết cả cái thấy được lẫn cái không thấy được (hữu hình vô hình). Tôi không cần phải nói với bạn, bạn cũng không cần phải hỏi tôi. Làm như vậy chỉ là đánh trống lấp, tránh né vấn đề. Việc ấy hoàn toàn không dính gì đến bạn, chẳng khác nào đếm tiền cho người ta mà bản thân mình không có lấy nửa xu teng. Trước hết hãy lắng nghe kỹ lời tôi nói, và khi đã thực sự nhận thức được nó, thì hôm nay mọi sự đối với bạn sẽ được xong xả một lần dứt khoát. Vậy hãy chú ý lắng nghe, và theo lời tôi chỉ giáo. Khi bạn đã nhận ra được và thực chứng một cách rốt ráo lời tôi nói, bạn sẽ thành một vị Phật sống ngay tại đây và bây giờ. Còn về câu hỏi có thể thấy Ba cõi hay không, bạn không cần phải bôn ba khắp nơi đi hỏi người này người khác. Hãy đơn giản nhận ra lỗi lầm của bạn, rồi bạn sẽ chấm dứt làm chuyện lạc đề ấy, và lắng nghe tôi.

Khi ấy Sư trình bày giáo lý về Bất sinh như thường lệ. Khi người cư sĩ nghe xong, liền saün sàng xác nhận lời Sư dạy, và tuyên bố: "Thực cảm ơn Sư xiết bao" rồi lui ra.

Tự lực tha lực

Giáo lý của tôi không dính gì đến tự lực hay tha lực. Cái gì vượt ngoài tự lực và tha lực, ấy là điều tôi giảng dạy. Tôi xin chứng minh việc này cho quý vị: Trong khi mọi người quay cả về phía này mà nghe tôi nói, ngoài kia có chim sẻ chíp chíp, chim quạ quác quác, tiếng đàn ông đàn bà, tiếng gió thổi...Dù không cố tình nghe những tiếng ấy, mà khi mỗi tiếng đến tai, quý vị đều nhận ra và phân biệt rõ ràng. Cái việc nghe ấy không phải là do bạn làm, nên không phải chuyện tự lực. Mặt khác, vì không phải ai khác nghe giùm cho bạn, nên cũng không thể nói là tha lực được. Thế thì, cái gì vượt ngoài tự lực và tha lực, không dính dấp đến cả hai chuyện ấy, giáo lý của tôi nói về cái đó. Có phải thế không nào? Khi quý vị nghe với cái Bất sinh như vậy, quý vị vượt ra ngoài bất cứ gì. Và tất cả hoạt động khác của quý vị cũng đều hoàn tất nhờ cái Bất sinh như thế. Với bất cứ người nào để cho Bất sinh vận hành như vậy, thì mọi sự đều tự giải quyết một cách toàn hảo. Bởi thế, con người của Bất sinh không can dự đến tự lực hay tha lực, mà vượt trên cả hai.
Mộng mị

Một vị tăng hỏi: Khi ngủ say tôi thường chiêm bao. Tại sao chúng ta nằm mộng? Tôi muốn biết tôn ý của ngài về vấn đề này.

Sư nói: Khi một người ngủ say thì không mộng mị. Khi bạn nằm mộng, là bạn không ngủ say.

Vị tăng không nói gì được.
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Mông Sơn Dị Thiền sư dạy chúng

Tôi năm 20 tuổi mới hiểu đạo, đến năm 32 tuổi đi thưa hỏi 17, 18 vị Trưởng lão, thế nào thực hành công phu, đều không ai chỉ ra manh mối. Sau đến tham học với Hoàng Sơn Trưởng lão, dạy khán chữ KHÔNG. Suốt cả ngày đêm chăm chăm khán nó như mèo rình chuột, như gà ấp trứng, không cho gián đoạn. Khi chưa thấu triệt phải như chuột khoét rương chưa phủng thì không dời chỗ khác. Thực hành công phu như vậy nhất định có ngày phát minh. Tôi y lời dạy, ngày đêm chăm chăm thể cứu trải 18 hôm, sau khi uống trà, chợt ngộ "Đức Thế Tôn đưa cành hoa, Ngài Ca Diếp mỉm cười", vui mừng vô hạn. Đi cầu 4, 5 vị Trưởng lão quyết nghi, các ngài đều không dạy một lời. Hoặc bảo dùng Hải ấn tam muội (1), nhất ấn mà ấn định, ngoài ra chớ để lòng. Tôi tin lời nầy hơn hai năm. Nhằm năm Cảnh Định thứ 5 tháng sáu, tại Tứ Xuyên phủ Trùng Khánh, tôi bị bệnh kiết nặng, ngày đêm đi cả trăm lần, nguy kịch sắp chết. Tất cả công phu đều không đắc lực, đến Hải ấn Tam muội cũng không dùng được. Những điều hiểu ngộ ngày trước dùng cũng không được, có miệng không thể nói ra lời, có thân không thể cử động, chỉ chờ chết mà thôi. Tôi cố sức gắng gượng làm chủ, phân phó mọi việc xong xuôi, bước lên bồ đoàn, sửa soạn một lò trầm, chậm rãi ngồi định. Thầm khấn: "Tam bảo Long Thiên chứng giám, con xin sám hối các nghiệp ác về trước. Nếu đại hạn con đã đến, nguyện nương sức Bát nhã chánh niệm thác sanh, sớm được xuất gia. Nếu bệnh được lành, con xin xả tục làm Tăng, mau được giác ngộ, rộng độ những kẻ sau". Khởi nguyện nầy rồi, tôi đề khởi chữ KHÔNG hồi quang tự khán, không bao lâu nghe trong tạng phủ động ba bốn lần, không quan tâm đến nó, chập lâu mí mắt không động. Lại lâu lâu không thấy có thân, chỉ có thoại đầu thầm thầm liên

(1) Hải ấn Tam muội : Chánh định trong lặng tâm suốt thấu vạn vật, như biển nước yên lặng vạn tượng đều in hình không sót. tục.

Đến chiều mới xuất định, bệnh bớt được phân nửa. Lại tọa thiền đến cuối canh ba, các bệnh đều dứt, thân tâm nhẹ nhàng. Đến tháng 8, tôi sang Giang Lăng xuất gia.

Qua một năm, tôi rời đây đi hành khước, giữa đường dừng lại thổi cơm, hiểu được công phu một mạch liên tục không gián đoạn. Đến Huỳnh Long, vào tạm trú. Một hôm, đang tọa thiền ma ngủ đến, liền tại tòa chấn chỉnh tinh thần, ma ngủ nhẹ nhẹ rút lui. Lần thứ hai, ma ngủ lại đến, cũng làm như lần trước chúng thối lui. Lần thứ ba, ma ngủ rất trầm trọng, bèn bước xuống tòa đi lễ Phật, chúng liền tiêu tán. Lại lên Bồ đoàn ngồi, y như nghi thức đã định trước, tinh tấn mãnh liệt đuổi bọn ma ngủ đi mất. Ban đầu khi ngủ dùng gối ngắn kê đầu, sau dùng cánh tay gối đầu, sau nữa giữ không cho thân xoay trở. Qua hai ba đêm, ngày đêm đều nhọc nhằn mỏi mệt, dưới chân bức bách khó chịu, bỗng nhiên trước mắt như mây mù tan, tự thân như tắm mới ra nhẹ nhàng mát mẻ. Trong tâm nghi tình càng mạnh, không cần dụng công mà thầm thầm hiện tiền. Tất cả thinh sắc, ngũ dục, bát phong đều không thể xâm nhập, trong sạch tợ như tách pha lê đựng tuyết, như bầu trời trong tạnh buổi sáng mùa thu. Tự suy nghĩ công phu tuy khả quan, nhưng không thể quyết trạch. Tôi liền từ giã đi Chiết Giang.

Dọc đường quá nhọc nhằn nên công phu thối thất. Đến Thừa Thiên, chỗ Cô Thiềm Hòa thượng tạm dừng. Tự thệ : "Nếu không được hội ngộ, quyết không đi đâu". Hơn một tháng công phu phục hồi như cũ. Bấy giờ khắp mình sanh ghẻ lở, tuy thế không để ý đến, quyết tâm liều chết sấn sướt công phu, tự nhiên được đắc lực. Thế là, thực hành được công phu trong lúc bệnh. Một hôm nhơn đi thọ trai, vừa ra khỏi cửa đề khởi thoại đầu, đi mà không hay mình đi cho đến nhà trai chủ. Lại thực hành được công phu trong lúc động. Công phu đến chỗ này như trăng hoa dưới đáy nước, tuy sóng gió ầm ầm ở trên mà vẫn không tan, không mất, hoạt bát linh động.

Ngày mùng 6 tháng 3, tôi trong khi tọa thiền đề khởi chữ KHÔNG, bỗng ngài Thủ tọa vào thiền đường thắp hương, đụng hộp nhang khua lên tiếng, hốt nhiên như dưới đất động một tiếng, chợt ngộ được chính mình, thấu đạt được ý ngài Triệu Châu. Liền đắc ý một bài tụng :

Chớ bảo cuối đường cùng,
Dẫm ngược sóng là nước.
Lão Triệu Châu siêu quần,
Diện mục chỉ như thế. (2)

Khoảng mùa thu đến yết kiến các vị Đại lão : An Kiến, Tuyết Nham, Thối Tỉnh, Thạch Khanh, Hư Chu. Hư Chu khuyên trở về Hoàng Sơn. Tôi y lời trở về Hoàng Sơn.

Vừa vào chùa gặp Hoàng Sơn Trưởng lão hỏi : "Quang minh tịch chiếu biến hà sa, đâu không phải lời của Tú Tài Trương Chuyết ?". Tôi vừa mở miệng, Ngài nạt một tiếng, rồi đi. Từ đây, đi, ngồi, ăn uống đều không còn ý tứ, trải qua sáu tháng. Đến năm sau vào mùa xuân, nhơn ra ngoài thành trở về, lên bực thang đá, bỗng nhiên nghi ngại trong lòng đều tiêu tan, không còn biết có thân đi trên đường. Tôi vào yết kiến Hoàng Sơn. Ngài hỏi lại câu trước. Tôi bèn lật ngược thiền sàng. Về trước những phương pháp thực hành, bao nhiêu công án, giờ này mỗi mỗi đều minh liễu.

Chư nhơn giả ! Tham thiền rất là tinh mật, tôi nếu không bị bệnh nặng ở Trùng Khánh có thể một đời đã trôi xuôi. Cần thiết gặp bậc thầy thấy biết chơn chánh. Cho nên, cổ nhơn sáng tham học, chiều thưa hỏi để quyết trạch thân tâm, chăm chăm khẩn thiết tham cứu cho thấu đáo việc này.

(2)Nguyên văn :
Một hưng lộ đầu cùng
Đạp phiên ba thị thủy
Triệu Châu lão siêu quần
Diện mục chỉ như thị
-------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Reputation: 100%
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
“Phật vàng không độ qua lò. Phật gỗ không độ qua lửa. Phật đất không độ qua nước. Phật thứ thiệt ngồi ở bên trong. Bồ-đề và Niết-bàn, Chân như và Phật tính, tất cả là chiếc áo ngoài buộc siết thân thể. Chúng cũng được coi như là phiền não (kleśa). Khi không có vấn đề phải hỏi, không có phiền não. Trong giới hạn của thực tại, trong căn cơ của chân lý tuyệt đối, không có gì cả cho các ngài bám vào. Khi không có một niệm móng khởi bên trong, thì không có lỗi lầm sai quấy nào hết. Muốn đạt đến sâu thẳm của thực tại, chỉ yên lặng ngồi xuống, cứ gì hai hay ba chục năm, nếu mà các ngài vẫn không thấu hiểu nổi, cứ cắt cái đầu của lão tăng đi. Tất cả như mộng, như huyễn, như hoa đốm giữa trời, ích gì mà nhọc công chụp bắt. Khi các ngài có thể giữ cho các tâm niệm không lang thang, muôn pháp đều thành nhất như. Không có vật gì từ ngoài đến, tại sao phải bận rộn? Ích gì mà quanh quẩn, như dê thọc mũi vào mọi chỗ, nhặt lượm bất cứ thứ gì rồi cho vào miệng? Khi lão tăng ở với Thạch Đầu,[1] mỗi khi có ai hỏi, ngài thường nói: “Câm mồm lại, đừng sủa như chó!” Lão tăng theo gương đó, mà nói: “Câm mồm lại, đừng sủa như chó!” Chấp thủ ngã là cáu bẩn; không chấp thủ ngã là tịnh.[2] Các ngươi như một con chó săn, chỉ muốn có cái gì bỏ vào mõm. Vậy đến bao giờ mới hiểu Phật pháp? Một nghìn, cho đến hàng chục nghìn người, đều là những kẻ đang đi tìm Phật. Trong đó, không có lấy một người đáng gọi là chân nhân. Nếu các ngươi muốn là đệ tử của Không Vương, chớ để cho tâm vướng phải bịnh ngặt nan y. Khi thế giới chưa có, tính này đã có; khi thế giới này hủy hoại, tính này vẫn không hoại. Một khi ta tham kiến lão tăng này, ta là ta chứ không ai khác. Ta là chủ nhân ông của ta. Các ngươi khỏi cần tìm kiếm chủ nhân ông đó ở thế giới bên ngoài. Chủ nhân ông ở ngay đây, chớ có quay đầu thay đổi não mà bỏ lở cơ hội tham vấn.”

--------------------------------
(Triệu Châu Tùng Thẩm )


Chú thích:

[1] Trong bản Anh: Shih-t’ou. Trong bản Hán, Truyền đăng lục, op.cit: Dược Sơn Hòa thượng藥山和尚. Cổ tôn túc ngữ lục và Ngũ đăng hội nguyên cũng nói là Dược Sơn. (ng.d.)

[2] Truyền đăng lục, ibid., hình như có
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top