Chưa tin pháp môn Tịnh Độ

minhđịnh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
18 Thg 10 2011
Bài viết
1,036
Điểm tương tác
255
Điểm
63
Ông Từ giữ miễu trước kia tu Tịnh Độ, vì mất lòng tin nơi pháp môn này, nhưng những lý thuyết căn bản về pháp môn Tịnh Độ vẫn chưa mất. Nay "cải đạo" qua Nguyên Thủy, đem giáo lý Nghiệp giảng về "nghiệp thức, nghiệp lực" và nói Thanh Trúc khi chết sẽ "theo dòng nghiệp thức" sanh về đó. Sao không nói trắng ngay là "đới nghiệp vãng sanh" theo pháp môn Tịnh Độ cho Thanh Trúc dễ hiểu.

Rõ ràng chạy đâu cho khỏi, dù cho ông Từ có nói tánh, nói tướng gì đi nữa cũng không thoát khỏi cái "tiềm thức tập khí" của tư tưởng Tịnh Độ còn chưa xóa hết được (hi, hi, mừng ông Từ còn chút lương tâm).

Chào bác Tuấn Tú,

Tâm tôi thì lúc nào cũng có nhưng mà lương thì cuối tháng ông sếp mới phát cho...sắp Tết rồi mà ông sếp còn đang dọa qua Tết mới phát lương kìa....hihiihi.

Thực ra sau một thời gian tìm hiểu thì bản thân tôi cảm thấy rằng mình không thích hợp với Pháp môn Tịnh Độ này.Đến giờ vẫn vậy.Có lẽ do "tập khí" nhiều đời tích tụ khó bỏ được.Tôi trước kia vốn là kẻ vô thần,hay có thể nói là người theo Chủ nghĩa Duy vật.Cái gì mà mơ hồ,không có bằng chứng xác thực là tôi ít tin lắm.Cho nên mỗi khi đọc kinh mà có những truyện khó xác minh là tâm tôi sẽ phản ứng liền,dẫu biết rằng có những sự vật-hiện tượng nó tồn tại ngoài sự nhận biết chủ quan của mình.Cái đó chính là trở ngại cho tôi khi muốn tu pháp môn Tịnh Độ này.Bởi pháp môn này đòi hỏi trước hết là Lòng Tin mà không cần dựa vào một cơ sở nào cả,tin vào một Thế giới mà ta không nhìn thấy,nắm bắt hay có thể nhận biết được...Điều đó luôn làm tâm của tôi bất an,sinh ra hoài nghi.Mà đã hoài nghi thì khó tinh tấn được.Cho nên tôi mới quyết định tìm một con đường khác vậy.

Nhưng tôi cũng hiểu rằng có những điều nó tồn tại ngoài khả năng nhận thức của mình,do sự nhận biết hạn hẹp của mình nên mình không biết mà thôi.Nên tôi thường tâm niệm rằng,không có Kinh điển sai,mà chỉ có người tu học sai mà thôi.Bởi vì những kinh điển,giáo lý đó đều là những kinh nghiệm quí báu của những người đi trước,những người đã dày công tu tập...Với lại,tất cả đều xuất phát từ cái nền căn bản là những lời Phật thuyết mà ra.Vậy thì chì còn là do cơ duyên của mình đến đâu mà thôi.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
Chào bác Tuấn Tú,
Tôi trước kia vốn là kẻ vô thần,hay có thể nói là người theo Chủ nghĩa Duy vật.Cái gì mà mơ hồ,không có bằng chứng xác thực là tôi ít tin lắm.Cho nên mỗi khi đọc kinh mà có những truyện khó xác minh là tâm tôi sẽ phản ứng liền,dẫu biết rằng có những sự vật-hiện tượng nó tồn tại ngoài sự nhận biết chủ quan của mình.Cái đó chính là trở ngại cho tôi khi muốn tu pháp môn Tịnh Độ này.Bởi pháp môn này đòi hỏi trước hết là Lòng Tin mà không cần dựa vào một cơ sở nào cả,tin vào một Thế giới mà ta không nhìn thấy,nắm bắt hay có thể nhận biết được...Điều đó luôn làm tâm của tôi bất an,sinh ra hoài nghi.Mà đã hoài nghi thì khó tinh tấn được.Cho nên tôi mới quyết định tìm một con đường khác vậy.

Bây giờ lại thêm cái "tập khí" Vô thần vào nữa! Biết thú nhận là tốt lắm rồi. Bây giở tôi hỏi nè!

Ông Từ tu pháp môn Nguyên Thủy, đọc trong kinh thấy nói nhiều tích truyện Phật nói (nhớ là Phật nói chứ không là ma nói nhé! Vì những lúc Phật thuyết pháp đều có ông A Nan theo một bên làm thị giả ghi chép lại...) về các cõi Phạm Thiên của các vị trời, cõi trời Đao Lợi nơi mẹ đức Phật là hoàng hậu Ma Da sanh về, cõi trời Đâu Xuất Đà nơi Phật khi còn là Bồ tát, giáng sanh xuống Ấn Độ và cũng là nơi Bồ tát Di Lặc hiện đang ở thuyết pháp trên đó. Những cõi này có thật không? Nếu cõi này có thật thì Phật nói cõi Cực Lạc cũng có thật!

Nếu hoài nghi cõi Cực Lạc không thật, thì các cõi nói trên cũng không thật, và ngay cả cõi Niết Bàn mà A la hán trụ trong dó cũng không thật. Té ra Phật dối gạt chúng sanh à. Trong kinh điển nói đành rành, Phật từ cung trời Đâu Xuất thác sanh vào hoàng hậu Ma Da, làm thái tử Sĩ Đạt Ta, đi tu thành Phật hiệu là Thích Ca. Thì trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói, Tỳ kheo Pháp Tạng tu hành, phát bốn mươi tám lời nguyện độ tất cả chúng sanh thì mới thành Phật hiệu là A Di Đà...

Nếu hoài nghi cõi Cực Lạc không có đủ cơ sở để tin theo, chắc là mấy cõi kia trong kinh Nguyên Thủy có đủ cơ sở để cho ông Từ nhìn thấy, nắm bắt và tin theo à!

Nghi vừa phải thôi! Nghi quá hóa ngu đấy! (hi, hi)
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
Tham Thiền hay Niêm Phật

Trích: Duy Lực Ngữ Lục
Hỏi : Thiền tông lấy câu "Niệm Phật là ai" để tham, Tịnh độ niệm Phật lấy câu "A Di Đà Phật" , vậy sự thù thắng như thế nào để đạt đạo ?

Đáp : Đức Phật dạy chúng sanh tu hành gồm tám mươi bốn ngàn pháp môn, tùy theo căn cơ của mọi chúng sanh. Mục đích của Phật chỉ muốn mọi chúng sanh đều thành Phật, đạt đến tự do tự tại, vĩnh viễn thoát khỏi tất cả khổ. Sở dĩ có tám mươi bốn ngàn pháp môn là tùy theo căn cơ trình độ, sở thích của từng chúng sanh , do vọng tâm của chúng sanh muôn ngàn sai biệt nên mới dạy nhiều pháp môn, nhưng qui tụ lại thành bốn loại : Tham Thiền, niệm Phật, trì chú, quán tưởng.

Tham Thiền là tham câu thoại đầu, niệm Phật là Tịnh độ, hai cách tu khác nhau.
Tông chỉ của Tịnh Độ là TÍN, NGUYỆN, HÀNH. TÍN là tin, gồm có ba :

1/ Tin lời của Phật không vọng ngữ.
2/ Tin kiếp này sẽ được vãng sanh.
3/ Tin Cõi Tịnh Độ không bệnh không già không chết, muốn gì được nấy.



NGUYỆN có hai : Đại nguyện và tiểu nguyện. Thế nào là tiểu nguyện ? Là cầu cho mình được vãng sanh. Nhưng tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, không được vãng sanh. Tại sao ? Như đã kể trên, tin Tịnh độ không có già, không bệnh, không chết thì làm sao có đi đầu thai để trả nợ ? Phật pháp là nói về nhân quả; hễ tạo thiện nhân thì được thiện quả, tạo ác nhân ắt chịu ác quả, thiện quả tạm gác qua, về ác quả thì từ nhỏ tới lớn có ăn thịt cá không? Có sát sanh không? Cho dù bắt đầu từ bụng mẹ ra chưa hề đập chết con muỗi, không đạp chết con kiến, thế còn có ăn thịt không ? Có ăn cá không ? Nếu có, ăn một miếng thịt phải trả nợ một miếng thịt, ăn một con cá phải trả nợ một con cá, ấy mới hợp với nhân quả. Nếu vãng sanh Cực Lạc không trở lại nữa thì ai đầu thai trả nợ ? Thế là không hợp với nhân quả rồi ! Không hợp nhân quả thì không phải Phật pháp, nên nói tiểu nguyện không hợp với nhân quả, phải phát đại nguyện.

Đại nguyện như thế nào ? Ví như người thiếu nợ không có tiền trả, hẹn lại kỳ sau : Những nợ mạng nợ thịt mà mình thiếu, nay dù làm việc thiện bố thí cúng dường. đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, nguyện cùng ta sanh Cõi Cực Lạc, còn những chúng sanh chưa sanh Cõi Cực Lạc thì sau khi ta thành Phật rồi sẽ trở về độ hết tất cả chủ nợ, tất cả chúng sanh, ấy mới là đại nguyện, mới hợp nhân quả.

Lại, có hai thứ hạnh khi niệm Phật: Tán tâm niệm Phật và Nhất tâm niệm Phật. " Nhất tâm niệm Phật một câu hơn tán tâm niệm Phật ngàn lần". Thế nào là tán tâm niệm Phật ? Vừa niệm Phật vừa lo đủ thứ việc nhà, việc làm, lo Phật sự, lo ứng phó thí chủ v.v. Còn Nhất tâm niệm Phật là chỉ biết niệm Phật, ngoài ra không biết đến việc khác.Làm thế nào có thể nhất tâm niệm Phật ?
Ngài Ấn Quang Pháp sư, Tổ thứ mười ba Tông Tịnh Độ Trung Quốc dạy về nhất tâm niệm Phật bằng cách ghi số ( nhớ số ) niệm Phật, từng câu một, từ 1 nhớ đến 10. Ví như niệm một câu "A Di Đà Phật" nhớ là 1. ( chứ chẳng phải niệm thành "A Di Đà Phật 1, A Di Đà Phật 2.) . Vậy từ 1 nhớ đến 10, nếu dài quá nhớ không hết thì chia thành hai đoạn như từ 1 -5, từ 6 - 10, hoặc chia thành ba : ! -3, 4 -6, 7 - 10. Đến khi nào thuộc lòng rồi bỏ sự ghi số mà chỉ niệm Phật, đến lúc quen thuộc rồi bốn chữ A Di Đà Phật luôn ở trong tâm, niệm cũng ở trong tâm, không niệm cũng ở trong tâm, ấy gọi là "Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm", đạt đến nhất tâm bất loạn vậy.

- Nhưng pháp môn niệm Phật là chấp thật, cần có chữ Tín; tham Thiền là phá chấp thật, cần có sự nghi. Tức là niệm "A Di Đà Phật cần có lòng tin, còn tham câu "Niệm Phật là ai" cần phải nghi. Do đó, nói "Thiền Tịnh song tu" là không được, hễ tu Tịnh Độ phải đúng theo tông chỉ của Tịnh Độ, tham thiền phải theo đúng tông chỉ của Thiền tông, nếu Thiền Tịnh song tu thì dứt khoát hai cái đều không thành.

Hỏi : Đời mạt pháp nên tu pháp môn nào thích hợp ?
Đáp : Theo lời của Tổ Sư cũng như lời của Phật nói :" Nhất thiết duy tâm tạo", bốn câu kệ trong Kinh Hoa Nghiêm :" Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo". Chánh pháp cũng là duy tâm tạo, mạt pháp cũng là duy tâm tạo, "nhất thiết" bao gồm tất cả pháp, đâu có phân biệt chánh pháp hay mạt pháp ! Do tâm của mình chấp thật thành có. Tổ sư Thiền tông nói "Có thể chuyển mạt pháp thành chánh pháp"; thượng căn, hạ căn cũng do tâm chấp thật thành có phân biệt, nên Tổ sư nói "chuyển hạ căn thành thượng căn".
Nói đến mạt pháp chánh pháp, trước kia chưa mở trí huệ, tôi cũng tin rằng trong mạt pháp con người không tham thiền được vì không có nhân tài. Nên trước kia tôi hoằng pháp Tịnh Độ, trải qua mười mấy - hai mươi năm, sau đó phát hiện chưa một người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, tu còn không có, nói chi vãng sanh !

* Ngày mùng 2 tháng 4 năm 1977 ÂL, ngài Trụ Trì Chùa Từ Ân bảo tôi hoằng pháp Tổ Sư Thiền, ấy chẳng phải ý tôi muốn, tôi đã từng phát nguyện là chưa kiến tánh thì không thuyết pháp. Trước đó một ngày , tôi được mời cúng dường tại Tịnh Xá Giác Huê ở Quận 5, Hòa Thượng Trụ Trì lúc cúng ngọ tại Chùa Từ Ân tuyên bố với các Phật tử rằng ngày mai sẽ có thầy Duy Lực ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền, lúc đó tôi còn chưa hay biết. Tối đến, Hòa Thượng mới thông báo cho tôi biết là sáng ngày Mùng 2 Phật tử đến nghe pháp.
Tôi bất đắc dĩ phải ra hoằng pháp, nhưng còn mang một thành kiến rằng Tịnh Độ thích hợp hơn pháp Thiền, nên mỗi ngày tôi đều giảng ba lần về pháp Tịnh Độ. Ngày hôm sau, Hòa Thượng đến phòng tôi bảo "Đừng nói pháp Tịnh Độ nữa mà phải giảng về pháp Thiền,Tịnh Độ đã nhiều người hoằng dương rồi nhưng pháp thiền thì chưa có người nào." Mặc dù vậy, tôi vẫn giảng tiếp pháp môn Tịnh Độ trong vài ngày.

Tôi hoằng pháp Tịnh Độ, vạch rõ đường đi và tăng cường lòng tin cho Phật tử, kể các sự tích của Cổ Đức và các vị tu trong thời nay để chứng tỏ, nhưng người nghe vẫn không thực hành đúng theo tông chỉ của Tịnh Độ.

Tôi bắt đầu hoằng pháp Tổ Sư Thiền, Phật tử tham thiền trên năm trăm người, mặc dù chúng không hoàn toàn chuyên tu tham thiền, nhưng số tiểu ngộ phát huệ cũng có gần trăm người. So sánh với lúc hoằng Tịnh độ gần hai mươi năm, chưa có một người tu đúng tông chỉ, ngược lại khi hoằng pháp Tổ Sư Thiền từ mấy năm nay, lại có hơn mấy trăm người thực hành và cả trăm người được phát huệ, thông suốt kinh điển, thì biết pháp nào thù thắng hay không thù thắng, pháp nào thích hợp hay không thích hợp rồi.

Thật ra, thù thắng hay không thù thắng, thích hợp hay không thích hợp, đều lọt vào tứ cú. Nghi tình là quét sạch tứ cú thì có gì là thù thắng hay không thù thắng, thích hợp hay không thích hợp ? Hiện nay nhân tài tham thiền rất nhiều, số người tham thiền đã xuất ngoại có mặt ở nhiều nước trên thế giới : Anh, Pháp, Mỹ, Uùc, Canada. Vậy nếu hỏi đến pháp nào thù thắng, pháp nào thích hợp thì không biết đâu mà nói, tất cả đều do tâm mình, chứ không thể chấp vào lời của Phật, của Tổ.

Nếu chấp vào lời nói, ví như chấp vào tứ cú của Phật: Cú thứ nhất "Có", cú thứ nhì "Không", cú thứ ba :" Chẳng có chẳng không", cú thứ tư :" Cũng có cũng không". Mà ý Phật là muốn mình lìa tứ cú; hễ chấp "Có" thì Phật nói "Không" để phá chấp, hễ chấp "không" thì Phật nói "Có" để phá chấp của chúng sanh. Lúc Phật nói "Có" ý Phật chẳng phải là có, lúc nói "Không" ý của Phật chẳng phải không, nếu chấp vào lời nói là nghịch với ý, nên Tổ Sư Thiền tông thí dụ như "con chó và con sư tử" :

Có người liệng ra một cục xương, con chó liền đuổi theo cục xương, còn sư tử chẳng màng đến cục xương mà cắn ngay người đó. Con người dụ cho Tự tánh, cục xương dụ cho lời nói của Phật, của Tổ; hễ hướng về lời nói của Phật, Tổ mà ngộ ấy là con chó,hướng về Tự tánh mà ngộ mới là sư tử. Phật muốn mình làm con sư tử chứ không muốn mình là con chó, chớ nên đuổi theo lời mà chấp là thật. Lời nói ấy là khai thị cho người ngộ vào tự tánh, trong Kinh Pháp Hoa nói " Khai thị ngộ nhập tri kiến Phật", khai thị đó chẳng phải để ngộ nhập cái khai thị, mà là nhờ khai thị ngộ nhập tự tánh của mình. Thế thì không cần phân biệt thù thắng hay chẳng thù thắng, thích hợp hay chẳng thích hợp, tất cả đều do tâm của mình, do lòng tin của mình vậy.
Hỏi : Nhiều người nghĩ rằng "Niệm Phật nếu mình vẫn còn nghiệp chướng , khi vãng sanh tiếp tục nhờ tha lực tiếp dẫn", còn Thiền tông phải tự lực, hễ tự lực yếu thì kiếp sau dẫu được làm người, làm quan, có địa vị nhưng mê muội, phải lăn lóc trong dòng đời thì bao nhiêu công sức của kiếp trước bỏ hết sao ?

Đáp : Không đúng. Phật pháp nói là nhân duyên, ví như trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Lục Tổ nói : "Quí vị được nghe tôi thuyết pháp, ấy là nhân duyên đã được gieo trồng từ bao nhiêu kiếp". Đã có nhân duyên rồi thì nhân duyên ấy làm sao mất được ! Nếu có mất là không đúng nhân quả. Lời của Sư bà vừa hỏi là lời nói bên Tịnh Độ, hễ chuyên về pháp mônTịnh Độ thì lời nói cũng hướng về pháp môn ấy.

Phật thuyết đủ thứ kinh, ở kinh này thì tán thán hạnh của kinh này hạng nhất, ở quyển kinh kia thì tán thán hạnh của kinh kia hạng nhất, kết quả là kinh nào thù thắng ? Ý của Phật là muốn chúng ta nhất môn thâm nhập, nên nói những lời phương tiện ấy. Như tôi vừa nói ở trên, về một phương diện khác, Phật nói người nữ có năm thứ chướng, nhưng ở kinh Đại thừa liễu nghĩa như Kinh Pháp Hoa thì Phật lại phá năm thứ chướng của người nữ.

Về vấn đề tự lực và tha lực : Nếu có TỰ và THA chẳng phải pháp bất nhị của Tự tánh; Tự tánh bất nhị làm sao có tự và tha, mà nói là có tha lực để nhờ ! Nếu có tha lực để nhờ thì Phật Thích Ca đã thành Phật, A Nan là em trai của ngài, ắt có thể nhờ Phật lực của người anh mà thành Phật sao ! ( Kinh Lăng Nghiêm ). A Nan là em của Phật cũng chẳng thể nhờ, La Hầu La là con của Phật cũng chẳng thể nhờ, kể cả cha mẹ của Phật cũng chẳng thể nhờ thì tha lực làm sao nhờ được !

Bởi do tâm chấp thật của người tu Tịnh Độ rất nặng, Đức Phật chẳng thể nào khiến bỏ chấp được, nên phải tùy thuận chúng sanh: Tất cả mười pháp giới nếu chấp vào đó thì chi bằng tạm thời cho chấp vào Phật, tạo nhân duyên cho sanh cõi Tây Phương rồi, do hoàn cảnh khiến buông bỏ tập khí xong, chuyển qua tham Thiền mới có thể kiến tánh thành Phật . Bây giờ do tâm chấp quá nặng, nếu không tạm cho chấp thật thì chẳng có phương tiện cứu độ. Phật cứu độ chúng sanh không bỏ sót chúng sanh nào, mặc dù bệnh chấp quá nặng, nên mới có pháp môn Tịnh Độ.

Nếu có thể bỏ được bệnh chấp ngay kiếp này thì đâu cần đợi đến kiếp sau ! kiếp này thành Phật có phải hơn không ? Ví như nói " Hạ phẩm hạ sanh", sau khi chết phải trải qua mười hai đại kiếp mới có thể ra khỏi, một đại kiếp biết phải trải qua thời gian bao lâu không ? Nếu có thể ngay trong kiếp này , trải qua mấy mươi năm được thành Phật thì hay biết bao !
 

minhđịnh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
18 Thg 10 2011
Bài viết
1,036
Điểm tương tác
255
Điểm
63
Bây giờ lại thêm cái "tập khí" Vô thần vào nữa! Biết thú nhận là tốt lắm rồi. Bây giở tôi hỏi nè!

Ông Từ tu pháp môn Nguyên Thủy, đọc trong kinh thấy nói nhiều tích truyện Phật nói (nhớ là Phật nói chứ không là ma nói nhé! Vì những lúc Phật thuyết pháp đều có ông A Nan theo một bên làm thị giả ghi chép lại...) về các cõi Phạm Thiên của các vị trời, cõi trời Đao Lợi nơi mẹ đức Phật là hoàng hậu Ma Da sanh về, cõi trời Đâu Xuất Đà nơi Phật khi còn là Bồ tát, giáng sanh xuống Ấn Độ và cũng là nơi Bồ tát Di Lặc hiện đang ở thuyết pháp trên đó. Những cõi này có thật không? Nếu cõi này có thật thì Phật nói cõi Cực Lạc cũng có thật!

Nếu hoài nghi cõi Cực Lạc không thật, thì các cõi nói trên cũng không thật, và ngay cả cõi Niết Bàn mà A la hán trụ trong dó cũng không thật. Té ra Phật dối gạt chúng sanh à. Trong kinh điển nói đành rành, Phật từ cung trời Đâu Xuất thác sanh vào hoàng hậu Ma Da, làm thái tử Sĩ Đạt Ta, đi tu thành Phật hiệu là Thích Ca. Thì trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói, Tỳ kheo Pháp Tạng tu hành, phát bốn mươi tám lời nguyện độ tất cả chúng sanh thì mới thành Phật hiệu là A Di Đà...

Nếu hoài nghi cõi Cực Lạc không có đủ cơ sở để tin theo, chắc là mấy cõi kia trong kinh Nguyên Thủy có đủ cơ sở để cho ông Từ nhìn thấy, nắm bắt và tin theo à!

Nghi vừa phải thôi! Nghi quá hóa ngu đấy! (hi, hi)


Bác Tuấn Tú,

Ngu thì tôi không sợ,chỉ sợ mình u mê,mê lầm mà thôi:icon_nude:.Ngu thì có thể học chứ u mê thì không biết kiếp nào mới thoát ra được.

Như tôi đã nói,tôi vốn không tin vào những gì không chứng thực được cho nên đối với tôi,khi đọc đến tất cả những truyện như Cung trời,Địa ngục,Thần Thánh...cho đến cả 10 phương chư Phật tôi cũng không tin:chuot18:.Tất cả những thứ đó khi mới bắt đầu tìm hiểu Đạo Phật nó khiến tôi trăn trở,suy nghĩ.Tôi thường tự hỏi : Tại sao một người như Đức Phật với Tứ Diệu Đế,Bát Chánh Đạo,Vô Ngã,Vô Thường,Duyên Khởi... lại có thể thuyết về Cung Trời Đao Lợi,Cõi trời Phạm Thiên hay là cả Tây Phương Cực Lạc,rồi Ma Vương Ba Tuần... nữa.Hai điều đó hoàn toàn trái ngược nhau.Một bên là khoa học,một bên là huyền hoặc như vậy mà chẳng lẽ đều do Phật thuyết?Sự mâu thuẫn đó khiến tôi mất một thời gian không tiếp thu nổi.Nhưng gần đây thì tôi chợt hiểu rằng,chả nên để ý những điều như thế,cứ tập trung vào những gì mình tâm đắc,còn những chuyện cao siêu,huyền hoặc đó để...tính sau.Hihihi.Giống như câu truyện người bị cung tên bắn vậy.Trước hết là lo chữa thương chứ không cần hỏi nhiều đến những việc như là ai bắn,tên làm bằng gì,bắn từ đâu...Cái việc thiết thực nhất là bắt tay vào thực hành những điều mình biết.Đó mới là quan trọng.

Cho nên tôi thường hay đọc lại hai câu của Đức Phật mà tôi tâm đắc :

“Đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy từng được nghe nói đến, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy được quảng bá rộng rãi, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do truyền thống để lại, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy được kinh điển truyền tụng, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do một vị giáo chủ nói ra, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ do suy đoán, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ do suy luận, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì mình thấy điều đó có lý, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với thành kiến, quan điểm nhận thức của mình, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do thầy mình nói ra. Nhưng chỉ khi nào tự mình biết rằng những điều đó là không đúng, những điều đó không chính đáng, những điều đó bị người hiền trí phê phán, và khi chấp nhận, khi thực hành sẽ đưa đến tai hại và khổ đau thì các ngươi hãy từ bỏ những điều đó. Khi nào chính các người biết rằng những điều đó là chân chính, những điều đó không bị chê trách, những điều đó được người hiền trí khen ngợi, những điều đó khi được chấp nhận và thực hành sẽ dẫn đến an lạc hạnh phúc, thì các người phải nỗ lực mà thực hành” (Kinh Kalama, Tăng Chi Bộ kinh I).

“Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh si ám, người hiểu giáo lý mà không có lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng có đủ để làm cội gốc tu hành” (Kinh Niết Bàn)


 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Nhãn Đầu Mùa kính.

NGUYỆN có hai : Đại nguyện và tiểu nguyện. Thế nào là tiểu nguyện ? Là cầu cho mình được vãng sanh. Nhưng tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, không được vãng sanh. Tại sao ? Như đã kể trên, tin Tịnh độ không có già, không bệnh, không chết thì làm sao có đi đầu thai để trả nợ ? Phật pháp là nói về nhân quả; hễ tạo thiện nhân thì được thiện quả, tạo ác nhân ắt chịu ác quả, thiện quả tạm gác qua, về ác quả thì từ nhỏ tới lớn có ăn thịt cá không? Có sát sanh không? Cho dù bắt đầu từ bụng mẹ ra chưa hề đập chết con muỗi, không đạp chết con kiến, thế còn có ăn thịt không ? Có ăn cá không ? Nếu có, ăn một miếng thịt phải trả nợ một miếng thịt, ăn một con cá phải trả nợ một con cá, ấy mới hợp với nhân quả. Nếu vãng sanh Cực Lạc không trở lại nữa thì ai đầu thai trả nợ ? Thế là không hợp với nhân quả rồi ! Không hợp nhân quả thì không phải Phật pháp, nên nói tiểu nguyện không hợp với nhân quả, phải phát đại nguyện.
Thưa tiền bối, Nhân, Quả thiện, ác là điều không thể phủ nhận. Nhưng theo lời đại nguyện thứ 15 của Đức Phật A-Di-Đà thì chuyện "Đầu thai trả nợ"là không hợp lý. Vì :
_Nguyện thứ 15 _ Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi chánh giác.

Đại nguyện như thế nào ? Ví như người thiếu nợ không có tiền trả, hẹn lại kỳ sau : Những nợ mạng nợ thịt mà mình thiếu, nay dù làm việc thiện bố thí cúng dường. đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, nguyện cùng ta sanh Cõi Cực Lạc, còn những chúng sanh chưa sanh Cõi Cực Lạc thì sau khi ta thành Phật rồi sẽ trở về độ hết tất cả chủ nợ, tất cả chúng sanh, ấy mới là đại nguyện, mới hợp nhân quả.
Thưa tiền bối, Dù là Hạ Phẩm Hạ Sanh, cũng dần được vào bậc Chánh Định, vĩnh viễn thoát khỏi sinh tử luân hồi, thì đâu thể nào còn có một mảy mai nhân quả nào ràng buộc mà gọi là "

Những nợ mạng nợ thịt mà mình thiếu" ?

- Nhưng pháp môn niệm Phật là chấp thật, cần có chữ Tín; tham Thiền là phá chấp thật, cần có sự nghi. Tức là niệm "A Di Đà Phật cần có lòng tin, còn tham câu "Niệm Phật là ai" cần phải nghi. Do đó, nói "Thiền Tịnh song tu" là không được, hễ tu Tịnh Độ phải đúng theo tông chỉ của Tịnh Độ, tham thiền phải theo đúng tông chỉ của Thiền tông, nếu Thiền Tịnh song tu thì dứt khoát hai cái đều không thành.
Thưa, có lẻ câu nầy chỉ dành cho những ai tâm còn tán loạn, cho nên cổ đức chỉ dạy như vậy để nhiếp tâm mà thôi. Vì cũng chính chư Tổ dạy : " Pháp không ngoài tâm, tâm chính là Phật". Thì theo lý nầy Thiền, Tịnh đâu khác gì nhau. Cho nên bảo rằng : "
nếu Thiền Tịnh song tu thì dứt khoát hai cái đều không thành" thì có phải là vấn đề thiết yếu cho người học Phật nên suy gẫm ?.
Thưa, bangtam vội trình bày vài điều trên, kính mong sự chỉ dạy thêm từ tiền bối.

Kính
bangtam
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
Bác Tuấn Tú,

Ngu thì tôi không sợ,chỉ sợ mình u mê,mê lầm mà thôi:icon_nude:.Ngu thì có thể học chứ u mê thì không biết kiếp nào mới thoát ra được.

Như tôi đã nói,tôi vốn không tin vào những gì không chứng thực được cho nên đối với tôi,khi đọc đến tất cả những truyện như Cung trời,Địa ngục,Thần Thánh...cho đến cả 10 phương chư Phật tôi cũng không tin:chuot18:.Tất cả những thứ đó khi mới bắt đầu tìm hiểu Đạo Phật nó khiến tôi trăn trở,suy nghĩ.Tôi thường tự hỏi : Tại sao một người như Đức Phật với Tứ Diệu Đế,Bát Chánh Đạo,Vô Ngã,Vô Thường,Duyên Khởi... lại có thể thuyết về Cung Trời Đao Lợi,Cõi trời Phạm Thiên hay là cả Tây Phương Cực Lạc,rồi Ma Vương Ba Tuần... nữa.Hai điều đó hoàn toàn trái ngược nhau.Một bên là khoa học,một bên là huyền hoặc như vậy mà chẳng lẽ đều do Phật thuyết?Sự mâu thuẫn đó khiến tôi mất một thời gian không tiếp thu nổi.Nhưng gần đây thì tôi chợt hiểu rằng,chả nên để ý những điều như thế,cứ tập trung vào những gì mình tâm đắc,còn những chuyện cao siêu,huyền hoặc đó để...tính sau.Hihihi.Giống như câu truyện người bị cung tên bắn vậy.Trước hết là lo chữa thương chứ không cần hỏi nhiều đến những việc như là ai bắn,tên làm bằng gì,bắn từ đâu...Cái việc thiết thực nhất là bắt tay vào thực hành những điều mình biết.Đó mới là quan trọng.

Cho nên tôi thường hay đọc lại hai câu của Đức Phật mà tôi tâm đắc :

“Đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy từng được nghe nói đến, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy được quảng bá rộng rãi, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do truyền thống để lại, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy được kinh điển truyền tụng, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do một vị giáo chủ nói ra, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ do suy đoán, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ do suy luận, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì mình thấy điều đó có lý, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với thành kiến, quan điểm nhận thức của mình, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do thầy mình nói ra. Nhưng chỉ khi nào tự mình biết rằng những điều đó là không đúng, những điều đó không chính đáng, những điều đó bị người hiền trí phê phán, và khi chấp nhận, khi thực hành sẽ đưa đến tai hại và khổ đau thì các ngươi hãy từ bỏ những điều đó. Khi nào chính các người biết rằng những điều đó là chân chính, những điều đó không bị chê trách, những điều đó được người hiền trí khen ngợi, những điều đó khi được chấp nhận và thực hành sẽ dẫn đến an lạc hạnh phúc, thì các người phải nỗ lực mà thực hành” (Kinh Kalama, Tăng Chi Bộ kinh I).

“Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh si ám, người hiểu giáo lý mà không có lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng có đủ để làm cội gốc tu hành” (Kinh Niết Bàn)

Chắc ông Từ cũng biết trong phần đầu cuốn "Phật Thuyết A Di Đà Kinh", có câu: "Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc Viên, dữ đại Tỳ kheo Tăng thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A La Hán chúng sở tri thức..."

Đoạn kinh trên chính là một trong "Lục chủng chứng tín", gọi là sáu thứ thành tựu:

1. Tín thành tựu: Như thị
2. Văn thành tựu: Ngã văn.
3. Thời thành tựu: Nhất thời.
4. Chủ thành tựu: Phật.
5. Xứ thành tựu: Vườn Kỳ Thọ của ông Cấp Cô Độc.
6. Chúng thành tựu: Một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo Tăng.


Sáu điều thành tựu này luôn luôn có chép trong phần đầu của mỗi cuốn kinh, nói lên những điều có thật trong cuộc đời thuyết pháp của đức Phật, có sự dự thính của tất cả đại đệ tử. Kinh nào mà không có phần này đều không đáng tin cậy.

Và sau cùng ở cuối đoạn kinh có chép: "Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất cập chư Tỳ kheo, nhất thiết thế gian, thiên nhân, A Tu La đẳng văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ".

Thời Phật còn như thế, thời nay mọi người đều tin, chỉ trừ có ông Từ là không tin, thật là tội lỗi vô cùng!
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
...

Thưa, có lẻ câu nầy chỉ dành cho những ai tâm còn tán loạn, cho nên cổ đức chỉ dạy như vậy để nhiếp tâm mà thôi. Vì cũng chính chư Tổ dạy : " Pháp không ngoài tâm, tâm chính là Phật". Thì theo lý nầy Thiền, Tịnh đâu khác gì nhau. Cho nên bảo rằng : "[/SIZE]nếu Thiền Tịnh song tu thì dứt khoát hai cái đều không thành" thì có phải là vấn đề thiết yếu cho người học Phật nên suy gẫm ?.
Thưa, bangtam vội trình bày vài điều trên, kính mong sự chỉ dạy thêm từ tiền bối.

Kính
bangtam
[/QUOTE]
Bạn phải hiểu đúng nghĩa của Phật , Tổ nói. đừng bám theo lời nói, Pháp không có trong - ngoài. khi thì tâm chính là Phật , nhưng khi thì phi tâm phi Phật...
Tất cả chỉ là Phá chấp cho chúng sinh. nay muốn biết cụ thế nó như thế nào thì phải " tu " cho đạt đạo rồi thì cái gì cũng biết. Chúng ta bị cái bệnh lớn nữa là bệnh "Phật" rất khó chữa. thôi nhé cứ tu theo hiểu biết của cá nhân mình đi. nếu tôi nói sai thì cứ xóa cho nhẹ bụng
 

minhđịnh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
18 Thg 10 2011
Bài viết
1,036
Điểm tương tác
255
Điểm
63
Chắc ông Từ cũng biết trong phần đầu cuốn "Phật Thuyết A Di Đà Kinh", có câu: "Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc Viên, dữ đại Tỳ kheo Tăng thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A La Hán chúng sở tri thức..."

Đoạn kinh trên chính là một trong "Lục chủng chứng tín", gọi là sáu thứ thành tựu:

1. Tín thành tựu: Như thị
2. Văn thành tựu: Ngã văn.
3. Thời thành tựu: Nhất thời.
4. Chủ thành tựu: Phật.
5. Xứ thành tựu: Vườn Kỳ Thọ của ông Cấp Cô Độc.
6. Chúng thành tựu: Một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo Tăng.

Sáu điều thành tựu này luôn luôn có chép trong phần đầu của mỗi cuốn kinh, nói lên những điều có thật trong cuộc đời thuyết pháp của đức Phật, có sự dự thính của tất cả đại đệ tử. Kinh nào mà không có phần này đều không đáng tin cậy.

Và sau cùng ở cuối đoạn kinh có chép: "Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất cập chư Tỳ kheo, nhất thiết thế gian, thiên nhân, A Tu La đẳng văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ".

Thời Phật còn như thế, thời nay mọi người đều tin, chỉ trừ có ông Từ là không tin, thật là tội lỗi vô cùng!

Bác Tuấn Tú,

Chỗ này chính là "tập khí sâu dày" của tôi đây.Có lẽ trong nhiều kiếp trước tôi ít có duyên với Đạo Phật cho nên kiếp này gặp phải trở ngại như vậy.Thế cho nên Phật mới có 84 ngàn pháp môn để tùy theo căn cơ của chúng ta mà tu tập.Đành phải "từ từ mà tốn","dục tốc bất đạt" vậy.Không được như Lục Tổ Huệ Năng thì tôi xin theo gương Ngài Thần Tú vậy...hihihi.Nên chính vì thế dạo gần đây tôi đã thông suốt 1 điều : trong Đạo Phật,cái gì ta chưa hiểu thì...bỏ qua:icon_winkgrin2:,rồi sẽ đến lúc ta sẽ hiểu được nó,không việc gì mà vội vàng cả,cũng không việc gì phải suy nghĩ,tìm cách phản biện làm gì.Cái gì ta hiểu thì ta thực hành,cái gì ta chưa hiểu thì theo sự tinh tấn trong quá trình tu học,ta sẽ hiểu.Giống như trình độ lớp 1 thì không nên giải toán lớp 12 vậy...Nhức đầu lắm bác Tuấn Tú ạ:icon_winkgrin2:

À,đọc thấy bác dùng chứ Tội Lỗi hơi kỳ kỳ,bác nên dùng chữ Tội Nghiệp thì mới đúng là Phật tử chứ:icon_winkgrin2:.Tôi không tin nên tôi tạo nghiệp,nên là Tội Nghiệp mới đúng chứ phải không bác !
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
Bác Tuấn Tú,

Chỗ này chính là "tập khí sâu dày" của tôi đây.Có lẽ trong nhiều kiếp trước tôi ít có duyên với Đạo Phật cho nên kiếp này gặp phải trở ngại như vậy.Thế cho nên Phật mới có 84 ngàn pháp môn để tùy theo căn cơ của chúng ta mà tu tập.Đành phải "từ từ mà tốn","dục tốc bất đạt" vậy.Không được như Lục Tổ Huệ Năng thì tôi xin theo gương Ngài Thần Tú vậy...hihihi.Nên chính vì thế dạo gần đây tôi đã thông suốt 1 điều : trong Đạo Phật,cái gì ta chưa hiểu thì...bỏ qua:icon_winkgrin2:,rồi sẽ đến lúc ta sẽ hiểu được nó,không việc gì mà vội vàng cả,cũng không việc gì phải suy nghĩ,tìm cách phản biện làm gì.Cái gì ta hiểu thì ta thực hành,cái gì ta chưa hiểu thì theo sự tinh tấn trong quá trình tu học,ta sẽ hiểu.Giống như trình độ lớp 1 thì không nên giải toán lớp 12 vậy...Nhức đầu lắm bác Tuấn Tú ạ:icon_winkgrin2:

À,đọc thấy bác dùng chứ Tội Lỗi hơi kỳ kỳ,bác nên dùng chữ Tội Nghiệp thì mới đúng là Phật tử chứ:icon_winkgrin2:.Tôi không tin nên tôi tạo nghiệp,nên là Tội Nghiệp mới đúng chứ phải không bác !

- Tội nghiệp cho ông Từ quá, thôi tha cho về nhà lật tự điển ra xem cho rõ ràng, thế nào là "Tội lỗi và tội nghiệp". :icon_winkgrin2:
 

hungmq

Registered
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2014
Bài viết
503
Điểm tương tác
258
Điểm
43
Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn dựa vào niềm tin, niềm tin mà còn lung lay thì còn cầu được ai? Tự huấn và giáo dục mình, linh tại ngã bất linh tại ngã. Trong kinh A Di Đà, hay kinh Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ có nói tới các thành phần hạng người có thể được về Tịnh Độ đó thôi, vấn đề là có làm được đúng như trong kinh hay không thôi, và niềm tin phải tuyệt đối. Đời này không được thì đời sau đó đều là tạo thiện nghiệp cho mình cả.
Còn về cầu siêu, cũng phải có niềm tin, Kinh Địa Tang, Kinh Vu Lan Báo hiếu há chẳng phải là Đức Địa Tạng khi còn là bà la môn Quang Mục hay Mục Kiền Liên Tôn Giả cứu mẫu thân Thanh Đề đó sao. Cả hai đều không tiếc của cải, và nguyện hiến thân cho Phật Pháp, cúng dường chư Tăng. Kinh Địa Tạng, và kinh Vu Lan chính là minh chứng cho việc cầu siêu sẽ có kết quả quan trọng là do người làm, người làm không tốt đừng đổ lỗi cho mọi thứ xung quanh.
Cầu siêu bi giờ ở Hà Nội mình không rõ nơi khác thế nào tầm 80 - 120 triệu chả có kết quả gì vì sao là do tâm Thầy kém, các bạn tìm hiểu kỹ sẽ thấy, Đức Địa Tang cứu mẹ là tự mình bán tự mình làm cơm 100 mâm đãi Tăng, chứ Tăng không đòi. Còn giờ thì Thầy đưa ra giá cứng luôn.
Nếu không có tiền thì nên xem phần Chú Đại Bi, Vãng Sinh chăm chỉ tu hành tự sửa mình, niệm và hồi hướng cho người mình muốn siêu, cái này bằng sự cố gắng chính bản thân. Cho nên đừng có nói rằng Phật tử tại gia không siêu độ được cho người thân mình, và chúng sinh mà chỉ có Tăng mà thôi là sai lầm.

Do đó bạn có tiền bạn làm cầu siêu cúng dường chư Tăng, mời Tăng tụng kinh
Bạn không có tiền, bạn niệm Đai Bi, phụng sự chúng sinh với tấm lòng khiêm nhường tuyệt đối, được nhìn thấy bản thân mình là Phật.
Cả hai điều trên cần niềm tin tuyệt đối. Chớ có mà không tin, mà đã nghi ngờ thì nên dừng việc niệm Phật lại.
 

laobat

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 8 2014
Bài viết
11
Điểm tương tác
4
Điểm
3
...............
Còn về cầu siêu, cũng phải có niềm tin, Kinh Địa Tang, Kinh Vu Lan Báo hiếu há chẳng phải là Đức Địa Tạng khi còn là bà la môn Quang Mục hay Mục Kiền Liên Tôn Giả cứu mẫu thân Thanh Đề đó sao. Cả hai đều không tiếc của cải, và nguyện hiến thân cho Phật Pháp, cúng dường chư Tăng. Kinh Địa Tạng, và kinh Vu Lan chính là minh chứng cho việc cầu siêu sẽ có kết quả quan trọng là do người làm, người làm không tốt đừng đổ lỗi cho mọi thứ xung quanh.
Cầu siêu bi giờ ở Hà Nội mình không rõ nơi khác thế nào tầm 80 - 120 triệu chả có kết quả gì vì sao là do tâm Thầy kém, các bạn tìm hiểu kỹ sẽ thấy, Đức Địa Tang cứu mẹ là tự mình bán tự mình làm cơm 100 mâm đãi Tăng, chứ Tăng không đòi. Còn giờ thì Thầy đưa ra giá cứng luôn.
Nếu không có tiền thì nên xem phần Chú Đại Bi, Vãng Sinh chăm chỉ tu hành tự sửa mình, niệm và hồi hướng cho người mình muốn siêu, cái này bằng sự cố gắng chính bản thân. Cho nên đừng có nói rằng Phật tử tại gia không siêu độ được cho người thân mình, và chúng sinh mà chỉ có Tăng mà thôi là sai lầm.

Do đó bạn có tiền bạn làm cầu siêu cúng dường chư Tăng, mời Tăng tụng kinh
Bạn không có tiền, bạn niệm Đai Bi, phụng sự chúng sinh với tấm lòng khiêm nhường tuyệt đối, được nhìn thấy bản thân mình là Phật.
Cả hai điều trên cần niềm tin tuyệt đối. Chớ có mà không tin, mà đã nghi ngờ thì nên dừng việc niệm Phật lại.
Bạn có cái nhìn thực tế về cầu siêu rồi đó. Ngày xưa thần thông như ngài Mục Kiền Liên mà còn không cứu được mẹ mình, phải nhờ đến thần lực của mười phương tăng mới cứu được. Thì bây giờ ngày nay mấy ông thầy đầu tròn khăn vuông tụng kinh tính giờ lấy tiền làm sao mà có khả năng để cứu ai.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên