P

học thiền 2

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Dưới Huyền Sa truyền qua La Hán Quế Sâm, đến Pháp Nhãn Văn Ích là Tổ của Pháp Nhãn Tông.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Dưới Dược Sơn Duy Nghiễm truyền qua Vân Nham Đàm Thạnh, đến Động Sơn Lương Giới với đệ tử Tào Sơn Bổn Tịch cùng nhau sáng lập Tào Động Tông. Ấy là cội nguồn thành lập của năm phái Thiền.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Nói gia phong là tác phong riêng biệt của mỗi Tổ dùng để phát dương Tông chỉ biệt truyền của Thiền Tông. Chư Tổ minh tâm kiến tánh dù đồng nhau, nhưng cá tánh mỗi mỗi chẳng đồng, nên phương pháp tiếp dẫn hậu học mới có sự khoan hồng, oai mãnh, ôn hòa, gấp bách mỗi mỗi khác nhau. Nói tóm lại, gia phong của các phái trong Thiền Tông đều lấy “Niêm hoa thị chúng” của Phật Thích Ca làm mô phạm.

Phương pháp phổ biến nhất của chư tổ Trung Quốc là dùng gậy, dùng hét để tiếp dẫn hậu học. “Gậy” bắt đầu từ Lục Tổ đánh Thần Hội, “hét” bắt đầu từ Mã Tổ tiếp Bá Trượng, tác dụng với niêm hoa chẳng khác. Cho đến Ca Diếp giơ tay, A Nan hiệp chưởng, Nhị Tổ Huệ Khả lễ bái xong về đứng chỗ cũ, Mã Tổ dựng phất trần, quăng phất trần, Bí Ma giơ chỉa, Hoa Sơn đánh trống, Thạch Củng giương cung, Tuyết phong đá cầu, Quốc Sư để chén nước, Qui Tông kéo đá, La Hán vẽ chữ, Đại Tùy hầm khoai, Đức Sơn vào cửa liền đập, Lâm Tế vào cửa liền hét, “Là cái gì?” của Bá Trượng, “Chớ vọng tưởng” của Vô Nghiệp, Triệu Châu uống trà, Vân Môn ăn bánh, tất cả đều chẳng khác với sự niêm hoa thị chúng của Phật Thích Ca. Ấy đều là chư Tổ tùy cơ phát huy dùng để tiếp dẫn hậu học, vốn chẳng qui tắc nhất định. Như Lâm Tế Nghĩa Huyền thiết lập các quan ải Tam Huyền Tam Yếu và Tứ Liệu Giản để khám xét đồ chúng, tiếp dẫn hậu học, con cháu truyền thừa nhau tỏ ra thành gia phong.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
GIA PHONG LÂM TẾ TÔNG:

Truyện Lâm Tế trong Truyền Đăng Lục rằng: Tăng hỏi thế nào là câu thứ nhất?

Sư nói: “Ấn khai tam yếu điểm son hẹp, chưa cho suy nghĩ chủ khách phân”.

Hỏi thế nào là câu thứ nhì?

Sư nói: “Diệu giải chẳng cho vấn vô trước (chấp trước), phương tiện đâu phụ (cô phụ) triệt lưu cơ”. Hỏi thế nào là câu thứ ba?

Sư nói: “Hãy xem trên đài hát múa rối, kéo dây đều do người bên trong”.

Lại nói: “Một cú ngữ phải đủ tam huyền môn, một huyền môn phải đủ tam yếu, có quyền có thực, các ngươi làm sao lãnh hội!”.

Thủ Sơn Tĩnh Niệm Thiền Sư (đời thứ năm phái Lâm Tế) trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục rằng: “Ngộ được câu thứ nhất làm thầy của Tổ và Phật, ngộ được câu thứ nhì làm thầy của người và trời, ngộ được câu thứ ba tự cứu chẳng xong!”.

Còn Từ Minh Sở Viên Thiền Sư (đời thứ bảy phái Lâm Tế) vì Tăng hỏi Tam huyền tam yếu mà thuyết tụng rằng:

Đệ nhất huyền:

Tam thế chư Phật tính nói chi?

Dạy bảo trong mộng sanh khinh rẻ,

Ngồi không lại thành đọa đoạn kiến.

Đệ nhị huyền:

Lanh lợi nạp Tăng mắt chưa sáng,

Lửa đá điện chớp là chậm trễ,

Nhướng mày nháy mắt càng cách xa.

Đệ tam huyền:

Vạn tượng sum la vũ trụ rộng.

Mây tan hang trống núi non lặng,

Nước chảy đất bằng đầy sông ngòi.

Đệ nhất yếu:

Thánh phàm nói chi diệu,

Suy nghĩ đường càng xa,

Mở mắt điên đảo nhiều.

Đệ nhị yếu:

Đánh kiểng gọi đỉnh núi,

Thần thông đến tự tại.

Đa văn kêu ngoài cửa.

Đệ tam yếu:

Ngồi nằm khiến người chê.

Bàn tay nắm thiên địa.

Chiếu soi đủ ngàn sai.

Về Tứ Liệu Giản, trong Lâm Tế Lục ghi rằng: “Như kiến giải Thiền Tông, tử hoạt dĩ nhiên, người tham học cần nên chú ý, cũng như chủ khách gặp nhau thì có ngôn luận qua lại, hoặc tùy vật hiện hình, hoặc toàn thể tác dụng, hoặc nắm cơ tùy phương tiện mà vui giận, hoặc hiện bán thân, hoặc cỡi sư tử, hoặc cỡi tượng vương. Như tiếng hét của người học chơn chánh là đưa ra cái thau bằng keo, Thiện tri thức chẳng biết là cảnh, bèn dính mắc cảnh họ mà làm dáng làm điệu, liền bị người học hét thêm thêm tiếng nữa, Thiện tri thức chẳng chịu buông xuống, ấy là bệnh tuyệt vọng, chẳng thể trị, gọi là “khách nhìn chủ”.

Hoặc là Thiện tri thức chẳng đưa ra vật gì, tùy chỗ hỏi của người học liền đoạt, người học bị đoạt thà chết chẳng chịu buông, ấy gọi là “chủ nhìn khách”.

Hoặc có người học tỏ một cái trong sạch ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức biết là cảnh, liền quăng vào hầm sâu, người học nói: “Tốt lắm Thiện tri thức”. Thiện tri thức liền nói: “Ngốc thay chẳng biết tốt xấu”. Người học liền lễ bái, đây gọi là “Chủ nhìn chủ”.

Hoặc có người học còng tay còng cổ ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức lại cho còng thêm một lớp, người học hoan hỷ, hai bên đều chẳng biết, ấy gọi là “Khách nhìn khách”.

Các Đại đức! Sơn Tăng kể chuyện như thế đều là phân biệt ma quái để biết rõ chánh tà vậy.

Lại nói:

“Có khi đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh,

Có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn,

Có khi nhơn cảnh đều đoạt,

Có khi nhơn cảnh đều chẳng đoạt”.

Tăng hỏi thế nào là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh?

Sư đáp: “Mặt trời phát sinh lụa trải khắp, hài nhiều tóc dài trắng như tơ”.

Hỏi thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn?

Sư đáp: “Lệnh vua đã ban khắp thiên hạ, tướng quân biên thùy chẳng thấy nghe”.

Hỏi thế nào là cả nhơn cảnh đều đoạt?

Sư đáp: “Biên giới cách tuyệt tin tức, tự cô độc ở một nơi”.

Hỏi thế nào là nhơn cảnh đều chẳng đoạt?

Sư đáp: “Vua lên ngôi bửu điện, lão ẩn dật ca ngợi”.

Lại nói:

“Người học từ bốn phương đến, Sơn Tăng ở đây phân làm ba thứ căn cơ: Như người trung hạ căn đến thì ta đoạt cảnh mà họ mà chẳng trừ pháp họ; như người trung thượng căn đến thì ta cảnh pháp đều đoạt; như người thượng thượng căn đến thì ta cảnh pháp, nhơn đều chẳng đoạt; như có kẻ kiến giải xuất cách (siêu việt ba thứ căn cơ) đến thì Sơn Tăng ở đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng tùy căn cơ”.

Ngài Lâm Tế ứng cơ thường hay dùng hét, người ta gọi là “Vào cửa liền hét”. Bởi trong một tiếng hét sẵn đủ tam huyền tam yếu và tác dụng chủ khách. Sư từng nói: “Có khi một tiếng hét như bửu kiếm Kim Cang Vương, có khi một tiếng hét như Kim Ma sư tử cự địa (thế sắp chụp người), có khi một tiếng hét như cây trúc dọ thám hình bóng trong đám cỏ, có khi một tiếng hét chẳng cho là tác dụng một tiếng hét, các người làm sao lãnh hội!”.

Lúc bấy giờ, môn đồ tham học trong hội cũng bắt chước Sư hét, Sư nói: “Các người cứ bắt chước Ta hét, nay Ta hỏi các ngươi: Có một người từ bên Đông ra, một người từ bên Tây ra, hai người cùng hét một lượt, ở đây phân được chủ khách chăng? Mà các ngươi làm sao phân? Nếu phân chẳng được, về sau chẳng nên bắt chước lão Tăng hét?”.

Đối với gia phong Lâm Tế, Thủ Sơn Tĩnh Niệm Thiền Sư từng nói: “Các Thượng Tọa! Chẳng nên hét mù hét bậy, ở đây bình thường nói với các ông, khách thì rốt cuộc là khách, chủ thì rốt cuộc là chủ; khách chẳng hai khách, chủ chẳng hai chủ. Nếu có hai khách, hai chủ tức là hai thằng mù, cho nên nếu ta đứng thì ngươi phải ngồi, nếu Ta ngồi thì ngươi phải đứng. Ngồi thì cùng ngươi ngồi , đứng thì cùng ngươi đứng, mặc dù như thế, đến đây con mắt phải nhìn nhanh cho rõ mới được, nếu con mắt do dự thì cách xa muôn ngàn dặm. Tại sao như thế? Giống như cách cửa sổ xem cỡi ngựa, suy nghĩ tức chẳng dính dáng. Các Thượng Tọa đã lưu tâm việc này, cần phải chú y, tốt nhất đừng bám vào chỗ giả dối, hôm nọ ngày sau ngươi sẽ bị gạt”.

Đây là gia phong đại khái của Lâm Tế Tông.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
GIA PHONG QUI NGƯỠNG TÔNG:

Qui Ngưỡng Tông cho chín mươi sáu tướng tròn, gia phong tương đối ôn hòa, chẳng giống sự mãnh liệt của Lâm Tế Tông. Trong Nhơn Thiên Nhãn Mục nói về gia phong Qui Ngưỡng Tông là “Cha từ con hiếu, lệnh trên thì dưới tùng, ngươi muốn ăn cơm ta liền bưng canh; ngươi muốn qua sông ta liền chèo thuyền, cách núi thấy khói liền biết là lửa; cách tường thấy sừng liền biết là trâu”.

Còn Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Luận rằng: “Qui Ngưỡng thì vuông tròn mặc khế, như tiếng dội trong hang, như phù hợp luật lệ thông qua quan ải”.

Truyền Đăng Lục Qui Sơn truyện rằng:

Phổ thỉnh hái trà, Sư (Qui Sơn) nói với Ngưỡng Sơn rằng: “Suốt ngày hái trà, chỉ nghe tiếng ngươi, chẳng thấy hình ngươi, xin hiện bổn hình ra xem!”.

Ngưỡng Sơn lắc cây trà, Sư nói: “Ngươi chỉ được cái dụng, chẳng được cái thể”.

Ngưỡng Sơn nói: “Chưa rõ Hòa Thượng thế nào?”.

Sư im lặng giây lâu, Ngưỡng Sơn nói: “Hòa Thượng chỉ được cái thể, chẳng được cái dụng”.

Sư nói: “Cho ngươi hai mươi gậy”.

Ngưỡng Sơn nói:”Gậy Hòa Thượng con ăn, gậy con bảo ai ăn?”.

Sư nói: “Cho ngươi ba mươi gậy”.

Ngữ Lục của Chơn Tịnh Thiền Sư khi trụ trì Đông Sơn có ghi: “Thượng đường kể: Thuở xưa Diêm Quan thường dạy Tăng về pháp môn kiến tánh nghe nói Qui Sơn cũng vậy, liền sai hai vị Tăng đi dọ thám, đến nơi tọa hạ, nghe trăm điều đề xướng đều chăng hiểu, lại sanh tâm khinh mạn. Một hôm gặp Tiểu Thích Ca (Ngưỡng Sơn) nói: “Ngươi chớ tâm thô”. Tiểu Thích Ca bèn làm một tướng tròn, hai tay đưa ra, hai Tăng cũng chẳng hiểu, Tiểu Thích Ca nói: “Ngươi chớ tâm thô” liền bỏ đi.

Sư Chơn Tịnh nói: “Tiểu Thích Ca tam muội, hai vị Tăng chẳng biết, dưới cửa Động Sơn có kẻ nào biết ta chăng? Là tam muội gì?”. Giây lâu Ngài nói tiếp: “Làm mì cần xứ trồng lúa mạch, ca nhạc nên tôn người Đế Hương” (Nhạc thần của Đế Thích).
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
GIA PHONG VÂN MÔN TÔNG:

Vân Môn Tông người sáng lập là Tổ Văn Yểm, ban sơ tham vấn Ngài Mục Châu phát minh Tâm địa sau tham Ngài Tuyết Phong. Gia Phong của Tuyết Phong thấu được áo chỉ, bèn nối pháp Tuyết Phong thì ôn hòa, huyền ảo Văn Yểm kế thừa sở trường của hai nhà, phát huy chỉ vi diệu đặc biệt, trụ núi Vân Môn Thiều Châu, đồ chúng thường hơn ngàn người, kẻ nối pháp sáu mươi mốt người.

Gia Phong của Vân Môn thẳng tắt, thường dùng ba chữ Cố (nhìn), Giám (xem), Ỷ (chê) để khám xét người học; còn có Vân Môn Bát Yểu: một Huyền, hai Tùng, ba Chơn Yếu, bốn Đoạt, năm Hoặc, sáu Quá, bảy Tán, tám Xuất, Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Luận xưng Ngài Vân Môn là “Hàm cái triệt lưu”, nói gia phong nhà họ giống như nước sông đang chảy gấp mà đột nhiên dừng lại.

Văn Yểm có tự làm bài kệ rằng:

Vân Môn chót vót trên đám mây,

Cá chẳng dám trụ nước chảy bay,

Vào cửa đã biết ôm kiến giải

Đâu phiền kể lại sình bánh xe.

Đệ tử Ngài Vân Môn là Viên Minh Thiền Sư có bài tụng ba câu của Vân Môn rằng:

1/ Hàm cái càn khôn:

Càn khôn và vạn tượng,

Địa ngục với thiên đường,

Vật vật đều trực hiện,

Mỗi mỗi chẳng đúng sai.

2/ Triệt đoạn chúng lưu:

Đầy núi đầy biển lại,

Mỗi mỗi đều trần ai,

Lại muốn lập huyền diệu,

Ngói bể băng tiêu ngay.

3/ Tùy ba trục lãng:

Cách hỏi đủ biện tài,

Cao thấp đáp chẳng sai,

Cũng như thuốc đúng bệnh.

Chẩn hỏi lúc lâm thời.

Riêng hỏi ngoài ba câu:

Đương nhơn nếu đề xướng,

Ba câu đâu thể gồm,

Có hỏi việc thế nào,

Nam Nhạc và Thiên Thai.

Ngài Trí Môn làm bài tụng “Rút chữ Cố” rằng:

Vân Môn rút cố cười hi hi,

Suy nghĩ bị nó cố giám ỷ,

Dầu cho Trương Lương nhiều kế sách,

Cuối cùng ở đây cũng khó thi (hành).
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
GIA PHONG PHÁP NHÃN TÔNG:

Người sáng lập là Thanh Lương Văn Ích Thiền Sư, Trụ trì Kim Lăng Thanh Lương Tự, học giả bốn phương tấp nập tìm đến tham học, hình thành một Tông phái trong Thiền Tông.

Gia phong của Pháp Nhãn Tông có Lục tướng và Tứ Liệu Giản dùng để tiếp dẫn hậu học. Tứ Liệu Giản tức là Văn văn (phóng), Văn bất văn (thu), Bất văn văn (minh), Bất văn bất văn (ám).
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
GIA PHONG TÀO ĐỘNG TÔNG:

Tào Động Tông đúng ra phải xưng là Động Tào Tông, do Động Sơn Lương Giới Thiền Sư với đệ tử là Tào Sơn Bổn Tịch Thiền Sư sáng lập. Ngai Lương Giới thọ tâm yếu nơi Vân Nham Thiền Sư, sau trụ trì Động Sơn Phổ Lợi Viện ở Dự Chương, đề xướng Ngũ Vị để tiếp dẫn học giả. Ngũ vị là: Chánh trung thiên, Thiên trung chánh, Chánh trung lai, Thiên trung chí, Kiêm trung đáo. Còn có bài Bửu Cảnh Tam Muội ca.

Động Sơn gia phong miên mật, trong số đệ tử thượng thủ, Ngài Tào Sơn Bổn Tịch đắc tâm truyền, Trụ trì Tào Sơn Sùng Thọ Viện ở Võ Châu, xướng dương yếu khuyết Ngũ Vị, người học đến tấp nập, người đời xưng là Tào Động Tông.

Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Tụng rằng: “Tào Động là xướng họa làm dụng”, bởi gia phong một vấn một đáp, qua lại miên mật, so với cơ phong thẳng tắp của Lâm Tế ý thú khác xa. Nên người xưa có lời nói “Lâm Tế tướng quân, Tào Động nông dân”. Vì gia phong Lâm Tế như tướng chỉ huy binh lính trăm vạn, mà gia phong Tào Động thì như kẻ nông phu canh tác ruộng đất rất chu đáo vậy.

Có Tăng hỏi Phần Dương Thiệu Chiêu Thiền Sư thế nào là Chánh trung lai?

Đáp: “Bông sen nở đầy trên đất khô”.

Hỏi: “Sau khi sen nở thế nào?”.

Đáp: “Nhụy bông Kim Liên hứng sương ngọc, cao Tăng chẳng tọa đài Phượng Hoàng”.

Hỏi: “Thế nào là Chánh trung thiên?”.

Đáp: “Mặt trăng chiếu sáng đầu đêm rồi, gà gáy phải báo trước canh năm”.

Hỏi thế nào là Thiên trung chánh?

Đáp: “Mầm nhỏ thành cây to, giọt nước làm sông ngòi”.

Hỏi thế nào là Thiên trung chí?

Đáp: “Ý khí chẳng đắc từ thiên địa, anh hùng đâu nương thời thế thành”.

Hỏi thế nào là Kiêm trung đáo?

Đáp: “Ngọc nữ dệt vải thuyền ọt ẹt, người đá đánh trống tiếng đùng đùng”.

Sư vì Tăng xin hỏi Ngũ vị, bèn tụng ra từng vị rằng:

Chánh trung lai:

Bửu kiếm Kim Cang vạch trời ra,

Một tia thần quang khắp thế giới.

Phẩm tánh sáng tỏ tuyệt trần ai.

Chánh trung thiên:

Cơ phong sấm sét nháy mắt nhìn,

Lửa đá điện chớp chậm trễ thay!

Suy nghĩ đo lường xa ngàn dặm.

Thiên trung chánh:

Hãy xem Luân Vương ban chánh lệnh,

Bảy ngàn Thái Tử đều theo hầu,

Giữa đường một mình tìm gương vàng.

Thiên trung chí:

Sư tử tuổi oai thế sẵn,

Thiên tà bá quái ló đầu ra,

Rống lên một tiếng đều hàng phục.

Kiêm trung đáo:

Hiển bày vô công chớ tạo tác,

Trâu gỗ bước đi trong lửa hồng,

Thật là Pháp Vương diệu trung diệu.



Còn Ngũ Vị của Từ Minh Sở Viên Thiền Sư rằng:

Chánh trung thiên:

Gà đen nửa đêm gáy trong phòng,

Đáy biến đốt đèn thế giới sáng.

Tảng đá trồng bông mọc cây linh.

Thiên trung chánh:

Mặt trời lặn xuống hiện bóng lạ,

Ảnh tượng rõ ràng hiển Tông thừa,

Lông mày chớ nhìn trăng trong giếng.

Chánh trung lai:

Ngựa gỗ sanh con khắp thiên hạ,

Mặc tình dẫn dắt đi đường chim,

Há chẳng người nương ổ chim ở.

Thiên trung chí:

Mỗi mỗi trượng phu có ý khí,

Mâu thuẫn chống nhau chẳng vết thương,

Tung hoành khai triển chẳng lìa nhau.

Kiêm trung đáo:

Trắng đen chưa rõ chớ tạo tác,

Phải biết trụ cột chưa sanh con.

Chớ nhận lời cuồng ngưng nửa đường.

Trên đây là gia phong đại khái của Tào Động Tông.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Người xưa có bình luận Ngũ gia gia phong rằng:

Tào Động đinh ninh, Vân Môn thẳng tắt, Pháp Nhãn linh xảo, Lâm Tế thế thắng, Qui Ngưỡng trao nhau.

Còn Bạch Vân Pháp Diễn Thiền Sư trong Ngữ Lục có luận về Ngũ gia gia phong rằng:

Tăng hỏi thế nào là việc Lâm Tế?

Đáp: “Ngũ nghịch nghe sấm sét”.

Hỏi thế nào là việc Vân Môn?

Đáp: “Cờ đỏ lấp lánh”.

Hỏi thế nào là việc Tào Động?

Đáp: “Gởi thơ chẳng đến nhà”.

Hỏi thế nào là việc Qui Ngưỡng?

Đáp: “Bia gãy nằm đường xưa”.

Tăng lễ bái.

Sư nói: “Sao chẳng hỏi việc Pháp Nhãn?”

Tăng nói: “Để giành cho Hòa Thượng”.

Sư nói: “Người tuần phạm luật giới nghiêm”.

Sư nói tiếp: “Ngộ thì việc đồng một nhà, chẳng ngộ thì muôn ngàn sai biệt, một nửa ăn bùn ăn đất, một nửa ăn mạch ăn mè, hoặc là hàng long phục hổ, hoặc là lượm sò với tôm. Hòa Sơn chỉ biết đánh trống, Bí Ma luôn luôn giơ chỉa. Nói chung một tuồng hát cười, đều do mỉm cười niêm hoa, đồ bỏ trong đám Bạch Vân, gió xuôi xả đất, xả cát, nếu chẳng tâm can thế này, sao được áo gấm vinh qui! Vậy một tiếng “Vinh qui” nên nói thế nào? Vinh hoa hôm nay người chẳng biết mười năm trước là một thư sinh”.

Còn thượng đườngnói: “Đạt Ma từ bên Tây đến, việc lâu nhiều biến đổi, con cháu đời sau gia phong vô hạn, nhiễu loạn thân tâm, một đống chỉ mành. Bạch Vân hôm nay thảy đều cắt đứt.

Đại chúng! Một trăm lẻ năm ngày thanh minh, Thượng nguyên nhất định là rằm tháng giêng.

Nên biết, nói gia phong chỉ là phương tiện tùy nghi của chư Tổ dùng để tiếp dẫn hậu học. Gia phong dù theo người mà khác, nhưng Phật tánh thì ngàn xưa chẳng đổi, kẻ ngộ thì thấu qua như một, chẳng ngộ thì lại thêm rắm rối.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Pháp Nhãn Tông truyền sang Đại Hàn, Vân Môn Tông thất truyền đã lâu, nay chỉ còn ba Tông là :

Qui Ngưỡng,
Tào Động,
Lâm Tế,


nhưng con cháu của các Tông, chỉ lấy cội nguồn gia phổ để truyền thừa với nhau, ghi tên trên pháp quyển là Thiền Sư đời thứ mấy mà thôi, nếu hỏi về gia phong Tông chỉ thì ngơ ngác chẳng thể trả lời. Nên khuyên người học đời nay, hễ được minh tâm kiến tánh liền được liễu thoát sanh tữ, nối tiếp Huệ mạng của chư Phật chư Tổ với chư Phật chư Tổ nắm tay cùng đi, đâu cần phân chia Tông phái chi nữa!
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Phương pháp trực tiếp biểu thị Phật tánh

Thế Tôn đem hạt châu Ma Ni Tùy Sắc hỏi Ngũ Phương Thiên Vương rằng:
- “Hạt châu này màu gì?. "
Khi ấy ngũ Phương Thiên Vương tùy sự thấy của mình đều trả lời màu sắc khác nhau.
Thế Tôn dấu hạt châu rồi lại đưa tay hỏi tiếp:
-“Hạt châu này màu gì?”.
Các Thiên Vương nói:
- “Trong tay Phật chẳng có hạt châu thì đâu còn màu gì!”.
Thế Tôn nói:
“Các ngươi sao mê muội điên đảo quá? Ta đem hạt châu thế gian cho xem thì nói có xanh, vàng, đỏ, trắng, Ta thị hiện hạt châu chơn thật thì chẳng biết gì cả!”. Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương đều tự ngộ đạo.


-----------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Một hôm , ngoại đạo hỏi Thế Tôn:
- “Không hỏi một lời, không hỏi chẳng lời”.
Thế Tôn im lặng giây lâu, ngoại đạo tán thán rằng:
- “Thế Tôn đại từ đại bi, khai phá đám mây mê muội cho con, khiến con được ngộ nhập”, xong đảnh lễ rồi ra đi.
Ngài A Nan hỏi Phật: “Ngoại đạo được lý lẽ gì mà tán thán?”.

Thế Tôn nói: “Như con ngựa hay của thế gian, thấy bóng roi liền chạy nhanh”.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
SỰ KHÁC BIỆT CỦA THIỀN HỌC VỚI HÌNH NHI THƯỢNG HỌC.

Người ta thường hay nhận lầm Thiền học tức là Hình nhi thượng học của Triết học Tây phương, thật ra thì chẳng đúng. Bởi Hình nhi thưọng học là một môn học để giải thích bản thể của vạn hữu, mà pháp Thiền là phương pháp dùng để chứng nhập bản thể của vạn hữu. Hình nhi thượng học dù muốn giải thích bản thể của vạn hữu, nhưng vì bản thân của người nghiên cứu chưa chứng nhập bản thể cho nên chẳng có cách nào chơn chánh để nhận biết bản thể và giải đáp một cách đầy đủ triệt để. Thật bản thể này chẳng phải dùng kinh nghiệm suy tư có thể đạt đến, như kinh Viên Giác nói: “Dùng tâm suy tư để đo lường cảnh giới của Như Lai, như lấy lửa đom đóm để đốt núi Tu Di thì làm sao cháy được!”.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Học giả Tây phương đối với vấn đề chơn thật siêu việt kinh nghiệm xưa nay chẳng có cách nào để giải quyết, như các nhà triết học Emmanuel KANT (1724-1804) bèn cho trí thức năng lực của con người chỉ có thể nhận biết thế giới tương đối trong phạm vi cảm giác suy tư, đối với cái bản thể thế giới tuyệt đối siêu việt kinh nghiệm suy tư thì chẳng có cách nào để nhận biết được, lại có người cho rằng việc này chẳng cần nghiên cứu nữa, rồi chuyển hướng hết lòng để nghiên cứu khoa học, nhưng đại đa số học giả vẫn cho là trong thế hệ Triết học chẳng thể thiếu sự nghiên cứu Hình nhi thượng học, bất quá chẳng lấy bản thể tuyệt đối làm đối tượng nghiên cứu, chỉ lấy lý luận căn bản của sự vật để làm vấn đề nghiên cứu mà thôi. Cho nên trong Triết học Tây phương chỉ có bản thể luận tương đối, chẳng có bản thể luận tuyệt đối.

NKTS
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Từ xưa nay trải qua mấy ngàn năm, học giả Tây phương đều hướng vào kinh nghiệm suy tư để làm công phu, chẳng những không được chứng nhập bản thể siêu việt kinh nghiệm suy tư, lại nghiên cứu sâu chừng nào thì xa lìa bản thể nhiều chừng nấy, cái nguyên do là thiếu một phương pháp để chứng nhập bản thể.

Sự Tham Thiền chẳng phải trực giác, trực giác là do tác dụng của bộ não thần kinh, bộ não thần kinh chẳng thể biết được Phật tánh. Các học giả Tây phương chỉ tùy theo kinh nghiệm trong vật chất, chọn cái nào là căn bản nhất để làm cái nguồn gốc của vạn vật mà thôi.

Trong khi triết học Hy Lạp dùng kinh nghiệm suy tư để truy cứu nguồn gốc của vạn vật, Phật Thích Ca dùng phương pháp trực tiếp chứng nhập bản thể, siêu việt kinh nghiệm suy tư đã mấy ngàn năm. Cho nên pháp Thiền của Phật Thích Ca thật là một phát minh lớn nhất của loài người, giá trị ấy thật chẳng thể đo lường.

(dựa theo tài liệu của NKTS)
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
MUỐN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BẢN THỂ CHỈ CÓ CÁCH THAM THIỀN.

Bản thể tức là việc rất thực tế rốt ráo, nhà Phật gọi là thật tướng, cũng gọi là Chơn như Phật tánh, tên gọi rất nhiều, đều tùy dụng đặt danh, cái ý nghĩa của bản thể này với bản thể của nhà Triết học Tây phương khác nhau, muốn chứng nhập bản thể, ngoài Tham Thiền chẳng cách nào khác.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Nhà Triết học Tây phương đối với vấn đề bản thể chỉ có một thái độ nghiên cứu để nhận biết, nhà Phật đối với Chơn như Phật tánh thì tỏ ra một thái độ thọ dụng thực tế, vì người Tham Thiền một khi được chứng nhập bản thể tức là kiến tánh thành Phật, ra khỏi sanh tử luân hồi, được sự thọ dụng lớn (tự do, tự tại vĩnh viễn), mục đích của người học Phật là vậy. Nên bất cứ tông phái nào trong Phật Giáo đều lấy pháp Thiền làm căn bản, đồng thời căn cứ theo pháp Thiền đó có thể khiến người kiến tánh hay không mà phân biệt cao thấp. Như Tiểu Thừa dứt lục căn, phá ngã chấp mà lọt vào pháp chấp, Trung Thừa phá pháp chấp mà lọt vào không chấp, ấy đều chưa thể chứng nhập bản thể, chẳng được kiến tánh thành Phật. Đại Thừa Bồ Tát phá không chấp (vô thỉ vô minh) rồi đạt đến cảnh giới tuyệt đối của thật tướng, phương pháp của Thiền Tông là chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt đến, mà chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập, gọi là Đốn ngộ thành Phật. ------------------------------

NKTS
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Kinh Lăng Già nói:


“Ví như người đang đi ngoài đồng, thấy có đường đi bằng phẳng liền theo đó vào thành, thọ dụng sự an lạc như ý. Xưa kia tất cả Phật đều đi đường này thì nay ta cũng đi theo mà thôi”.
Do đó mà xét thì biết pháp Thiền ra đời là do nhu cầu tự nhiên của loài người, trước khi chưa có loài người, Phật tánh đã sẵn sàng và pháp Thiền cũng đã là bản trụ. Bao nhiêu Cổ Phật trước đời Phật Thích Ca đều nương theo đường này mà đạt đến chỗ chơn như rốt ráo, vô lượng chư Phật – sau đời Phật Thích Ca cũng sẽ nương theo đường này để đạt đến giác ngộ cuối cùng. Ngoài pháp này ra chẳng có pháp nào khác, nên đường lối này dù là sẵn có, nếu chẳng có Phật Thích Ca chỉ thị thì chúng sanh ắt phải quanh quẩn trong ngã rẽ mà quên việc trở nhà.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Kinh Hoa Nghiêm nói:

“Nếu có chúng sanh căn cơ thấp kém thì thuyết hạnh Thanh Văn cho họ, nếu căn cơ lanh lợi, ham Độc Giác thì thuyết đạo Duyên Giác cho họ, nếu có người từ bi, ham lợi ích chúng sanh thì thuyết hạnh Bồ Tát cho họ, nếu có người tâm trí huệ thù thắng thì chỉ thị ngay pháp Vô thượng của Như Lai”.

Phật Thích Ca dù giả thiết đủ phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, nhưng tông chỉ duy nhất chẳng ngoài một việc kiến tánh thành Phật mà thôi, nói vì một nhân duyên đại sự ra đời là vậy. Nên duy có pháp Thiền được khiến chúng sanh đạt đến kiến tánh thành Phật, mới là sự phó chúc huệ mạng của chư Phật, chư Tổ.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15/6/06
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Kinh Pháp Hoa nói:

“Trong mười phương quốc độ, duy có pháp Nhất Thừa, chẳng hai cũng chẳng ba, ngoài Phật thuyết phương tiện, chỉ dùng giả danh văn tự, dẫn dắt cho chúng sanh, nên nói trí huệ Phật, chỉ một sự thật này, ngoài ra đều chẳng chơn”.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên