Như hôm trước có dừng ở câu hỏi “Có phải rằng chỉ cần hiện diện đơn thuần với các tiến trình thân tâm pháp... mà không can thiệp hay nắm bắt là được chăng ?”
Và qua quá trình thiền tập, nhận thấy rằng điều này có lẽ hợp lý. Bởi không thể có chuyện nằm ngoài kiến văn giác tri, nằm ngoài ngũ uẩn được. Hay nói cách khác, ngoài thân thọ tâm pháp, vốn không còn gì khác.
Vì thế, phải ngay trong thân thọ tâm pháp mà tu.
Tức tự do là ung dung trong ràng buộc. Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau.
Vậy, hiện diện là hiện diện thế nào ? Không nắm bắt là thế nào ?
Tại sao lại là hiện diện chứ không phải quán sát ?
Bởi quán sát, như đã nói, dễ dẫn đến cái sự hiểu sai, tức là có sự quán sát, và có cái được quán sát. Còn hiện diện, tức là chỉ sự đồng nhất của sự quán sát và cái được quán sát. Tức khi thấy hoa, thì ở đó chỉ có cái tiến trình vận động của cái thấy và cái được thấy. Tức là cái tiến trình đơn thuần, chứ không nên có một tiến trình khác, chẳng hạn như tiến trình quán xét cái tiến trình thấy đó, hay tiến trình định hình giá trị cho cái tiến trình thấy đó. Đây có thể coi là nói về câu “trong cái thấy chỉ có cái thấy”.
Nhưng căn bản, trước tiên thì cái tiến trình đơn thuần đó luôn luôn tồn tại. Chỉ khác biệt là người bình thường lại thêm vào đó một tiến trình áp đặt giá trị lên trên tiến trình đó ? Tức trong tiến trình thấy một bông hoa, ở đó là tiến trình đơn thuần do duyên sinh và vốn luôn đơn giản như vậy. Nhưng chúng ta lại thêm lên một tiến trình yêu ghét, phân định,… và tại sao ?
Trước tiên, có lẽ là do nghiệp duyên, các kinh nghiệm cũ trong quá khứ vận hành để chúng ta tự áp đặt giá trị nào đó lên thực tại, nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sinh sống.
Kế đến, cái tiến trình áp đặt giá trị này vốn đã được huân tập, giáo dục từ bao đời nay, cũng như hình thành sẵn trong cơ chế sinh học nhằm duy trì sự sống.
Vậy tiến trình này có tốt ?
Nó có lợi ích cho việc sinh tồn, nhưng nó cũng tạo ra nhiều hệ lụy mà gọi chung là khổ. Mà hệ lụy của nó chính là việc không kiểm soát được tiến trình áp đặt giá trị, coi coi nó có cần thiết hay không, có hữu ích hay không, mà cứ chạy theo nên sinh ra cái gọi là tham, sân, si.
Nhưng cũng chính vì nó có tác dụng của nó, và nó cũng là một chức năng khác của tâm thức, vì thế không nên diệt bỏ nó cũng như không thể diệt bỏ nó.
Như thế, tức là nếu tiến trình áp đặt giá trị là phù hợp, tạo lợi ích, và cần thiết, thì vẫn hoàn toàn tốt lành. Chỉ khi nào buông lung để nó hoạt động vô tội vạ, mới sinh ra tham sân si và khổ não.
Vậy phải làm thế nào để tiến trình đó hoạt động một cách lợi ích mà không biến tướng thành tham sân si ?
Quay lại với sự hiện diện, tức là trong mọi hành vi suy nghĩ, đều phải hiện diện trong từng cử chỉ hành động. Hiện diện tức trải nghiệm mọi hành vi suy nghĩ một cách sáng suốt. Tức là để ngay trong các giác quan, các tiến trình của giác quan, mà cảm nhận được chúng chỉ là những sự vận động, là các tiến trình thân tâm.
Nhưng phải để ý các điều sau:
- Chú ý khi các nghiệp thức khởi lên tạo tác.
- Hiện diện ngay trong từng hành vi dù là nhỏ nhặt nhất.
- Hiện diện mà không phải cố ý nỗ lực, bởi ngay trong từng cử chỉ đều vốn sẵn sự dụng công một cách tự nhiên. Nên ngay trong từng sự trải nghiệm đều sẵn có thể cảm nhận thấy.
- Chú ý tới cảm thọ, bởi cảm thọ khá dễ cảm nhận, nhưng cũng là tác nhân lớn để sinh tâm.
- Nếu được nên hiện diện đến tổng thể thân thọ tâm pháp, nhưng không nên gượng ép, cứ tùy duyên mà tu.
- Chú ý tới tâm thức, nó dễ dàng sinh khởi từ các giác quan, ngoài ra cũng sinh khởi từ nghiệp trong quá khứ.
- Tâm thức là cái thầm lặng, khó nhận thấy và dễ buông lung theo. Cần cảnh giác, quay về, hiện diện.
- Nếu được nên sống chậm lại, để dễ dàng hiện diện trong mọi hành vi hơn.
Trong lúc hiện diện với các cảm thọ, tâm thức,… nếu thấy sự nắm bắt nổi lên, cũng cứ tùy nghi mà ứng xử, không nên tự gò bó mình, bởi gò bó theo một khuôn mẫu cũng không khác gì việc chạy theo một tâm tham sân si khác.
Điều quan trọng là cần hiện diện ngay trong sự nắm bắt, ngay trong sự tham, sân si, để thấy ra đó cũng là những tiến trình không hơn.