kakakaka, chắc chắn bạn cũng đã có những sự trả lời nào đó nhưng có lẽ ngại nói ra. VNBN cũng ngại trả lời vì phải nói khá nhiều (văn tự), còn cách trả lời khác là bất lập văn tự đi sâu vào trực ngộ bản tánh để tự trả lời. VNBN xin phép mượn văn tự đã trả lời.
1. Trong Kinh, Phật cũng đã trả lời và cũng tùy đối tượng hỏi mà Ngài trả lời.
Có thể tóm gọn là: bản tánh vốn đã tròn đầy nhưng do khởi niệm điên đảo làm nhân cho sự xuất sanh các cảnh tượng thế giới và chúng sanh.
Cái niệm điên đảo đó còn gọi là niệm bất giác tối sơ.
Các đệ tử lại hỏi Ngài: vì sao lại điên đảo?
Ngài trả lời là cái điên đảo không có nguồn gốc, chỉ khởi lên như vậy, nếu nhờ học Phật mà thức tỉnh thì cái điên đảo đó không còn giống như hoa đóm trong hư không, vốn chẳng có thật, chỉ do niệm bất giác vô minh khởi ra mà thấy có.
Cái niệm điên đảo khiến cho sanh tử luân hồi bắt đầu ấy còn được gọi là Nhất Niệm Vô Minh, nghĩa là một niệm vọng tưởng thấy biết khởi dậy cái vọng thức sai lầm và từ đó sanh tử luân hồi.
Vấn đề đặt ra là: trước khi khởi cái nhất niệm vô minh thì trạng thái của môi cá nhân như thế nào?
Các học giả, gọi trạng thái đó là Vô Niệm Vô Minh, tức là trạng thái vô tri vô giác chưa có ý niệm thấy biết khởi sanh.
2. Làm thế nào, từ trạng thái Vô Niệm Vô Minh (vô tình) lại sản sanh ra Nhất Niệm Vô Minh (hữu tình)?
Đức Phật chỉ chốt lại một câu là "không có nguồn gốc" như hoa đóm do bệnh mắt mà có. Còn vì sao bị bệnh mắt thì Ngài không nói.
Đức Phật không muốn xoáy sâu vào vấn đề này mà Ngài xoáy sâu vào vấn đề là từ chỗ Nhất Niệm Vô Minh làm sao để thức tỉnh? Không phải Ngài không biết mà là vì xoáy sâu vào vấn đề khởi ra nhất niệm vô minh thì rất khó khăn, người tu sẽ chẳng bao giờ hiểu được vì họ đang trong sự vô minh vọng động, người trong tối mà tìm hiểu bóng tối thì càng tối hơn. Vì vậy, cách tốt nhất là làm học thức tỉnh, khi thức tỉnh rồi thì tự họ biết được. Do đó, mà Đức Phật định hướng các đệ tử vào làm hiểu rõ sự vận hành của 6 căn, sáu thức, các tâm sở. Và khi viên thành Phật Quả thì họ sẽ tự biết lại hết tất cả những gì họ đã trãi qua trong giấc mơ vô minh ấy.
Trở lại câu hỏi: Làm thế nào, từ trạng thái Vô Niệm Vô Minh lại sản sanh ra Nhất Niệm Vô Minh?
Trả lời câu hỏi này, cũng tương tự như câu hỏi: từ một phàm phu sanh tử luân hồi thì làm thế nào chứng đạo quả thoát khỏi luân hồi?
Một phàm phu đòi hỏi phải có duyên với giáo pháp giải thoát, phát sanh lòng tin, rồi tin vững chắc, thực hành đốn bỏ các thứ lậu hoặc, tẩy trừ những thứ tư tưởng sai lầm,.... cho đến khi đoạn trừ hoàn toàn tâm sở hữu đối với các pháp hữu vi thế gian thì được giải thoát. Cái tâm giải thoát đó thì siêu vượt ý thức của phàm phu, phàm phu không thể suy lường được. Trong tiến trình này, phàm phu nhờ các duyên với các bậc giải thoát mà thẩm thu các hành động của của bậc tu hành giải thoát, huân tập theo mà thành tựu.
Ngược lại với quá trình trên, từ vô niệm vô minh mà khởi ra nhất niệm vô minh, cần các duyên khởi ra tính sở hữu, cũng do duyên với các cá thể liên quan đến nhất niệm vô minh mà thụ động huân tập dần dần. Trước hết là lập ra bốn tướng đất, nước, gió, lửa. Từ đó, lập ra các thức để nhận thức về đất, nước, gió, lửa và cao độ nhất là ý thức và tự ý thức.
3. Vì sao lại có Vô Niệm Vô Minh?
Như đã nói, Đức Phật chỉ chốt lại một câu là "không có nguồn gốc".
Bởi nếu nói: do các thứ này tứ kia sanh ra thì sẽ phát sanh thêm câu hỏi: các thứ ấy lại do đâu mà có! Xoay vần mãi chẳng có câu trả lời thích đáng.
Không phải vô cớ, không phải có cớ!
Bản tánh của mỗi cá nhân vốn đã tự nó bất hoại, trạm nhiên, tròn đầy tự sáng. Thì như vậy, ở nơi bản tánh đó chẳn hề có các việc mê muội và giác ngộ, không có các thứ dị biệt bất đồng. Lại chẳng thể là nhân để sanh ra các thứ khác hoặc được sanh ra từ thứ khác. Do vậy, tổ dạy: bản lai vô sự, không một vật. Đó là liễu nghĩa tuyệt đối như thế.
Thế thì sao lại sanh ra vô niệm vô minh rồi hàng loạt cái phía sau đó?
Bởi vì, không phải có một bản tánh duy nhất mà là vô số, tức là vô số Phật. Mỗi vị đều có bản tánh nhất thể của tự mình, không hòa lẫn với các vị Phật khác. Tuy không hòa lẩn nhưng cũng không có điểm khác biệt mà là bình đẳng với nhau không hơn không kém.
Chính vì những bản tánh nhất thể không hòa lẫn vào nhau nên xuất sanh ranh giới che đậy, nên đầu tiên xuất hiện trạng thái tối đen vô niệm vô minh.
Rồi cũng do mỗi bản tánh đều là nhất thể vốn chẳng có dị biệt nên cái ranh giới che đậy ấy buộc phải biến mất. Ngiã là phải có một tiến trình từ vô minh đến giác ngộ, từ tối đen đến sáng tỏ hoàn toàn.
Sự che đậy tối đen ấy, không do riêng một cá nhân nào sanh ra, ở bất kì cá nhân nào cũng xuất hiện. Bởi vậy, không thể quy về một cái gì sanh ra nó nên Phật mới nói là "không nguòn gốc".
Tóm lại, bản tánh vốn có là nhất thể vi diệu, hai mặt "tối đen" và "sáng tỏ hoàn toàn" đều là biến hiện của nhất thể ra bên ngoài. Ban đầu thì tối đen, thu nập nhân duyên dần dần thì chuyển hóa cái tối đen ấy, một bước ngoặc là phát khởi nhất niệm vô minh, bước ngoặc tiếp theo là chấm dứt luân hồi, cuối là là viên mãn thành Phật (bản tánh hiển lộ hoàn toàn ra bên ngoài pháp giới).
Trong Kinh đại thừa, chúng ta thường nhghe Phật giảng "không khác" giữa hai mặt của một vấn đề, chính là để người tu giác ngộ về tính chất nhất thể của nội tại bản thân. Chính bản thân mình vốn là nhất thể nên chúng ta mới có thể thấy biết nhiều thứ sai biệt cùng một lúc. Chỉ cẩn, tâm niệm mình không câu sanh vào các thứ sai biệt thì bản tánh nhất thể của mình tự nó hiển lộ và cũng là giải thoát.