Trích dẫn: Đại cương về Luận Câu Xá

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
daicuongveluancauxa1294132769.jpg

1.Chuyển mê khai ngộ

Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui. Mê thì thành chúng sanh luân hồi sanh tử, ngộ thì thành chư Phật giải thoát Niết-bàn.

Nhưng mê là tâm mà ngộ cũng là tâm. Chuyển mê khai ngộ tức là chuyển đổi tâm mê lầm thành tâm giác ngộ. Như vậy đạo Phật chính là đạo nói về tâm (Phật ngữ tâm tông, nhất thế Phật ngữ tâm).

Tùy theo trình độ căn cơ của chúng sanh mà mỗi kinh nói về tâm mỗi khác.

Khi thì nói về tâm tánh, khi thì nói về tâm tướng, khi thì nói về tâm dụng. Thậm chí có khi đề cập vấn đề thế giới sắc trần, sự vật chuyển biến nhưng cũng cốt để chỉ rõ tâm hầu dễ thực hành chuyển mê khai ngộ.

2. Tâm:

Kinh Pháp Cú nói: "Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác mọi sự". "Ham muốn sinh lo, ham muốn sinh sợ, không còn ham muốn có lo sợ gì !" Ðó là nói tâm.

Kinh A-hàm nói: "Tứ đế, Thập nhị Nhơn duyên, Vô thường, Vô ngã, Giới, Ðịnh, Tuệ...". Ðó là nói tâm.

Kinh Bát-nhã nói: "Bát nhã tâm, vô sở đắc, vô trụ, nhất thiết không, vô trú sinh tâm, vô tướng vô tự tánh...". Ðó là nói tâm.

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tam giới thượng hạ pháp, duy thị nhất tâm tắc. Tâm như công họa sư, họa chủng chủng thế gian. Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo...". Ðó là nói tâm.vô tướng vô tự tánh...". Ðó là nói tâm.

Kinh Lăng Già nói: "Năm pháp, ba Tự tánh, tám thức, hai Vô ngã. Thánh trí tự giác ...". Ðó là nói tâm.

Kinh Lăng Nghiêm nói: "Bảy chỗ gạn tâm, mười phen chỉ tánh thấy. Thức tinh nguyên minh, tánh tịnh minh thể, tri kiến lập tri, tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn...". Ðó là nói tâm.

Kinh Pháp Hoa nói: "Phật tri kiến, nhất thừa đạo, chúng sanh đều thành Phật...". Ðó là nói tâm.

Kinh Niết-bàn nói: "Phật tánh thường trú, thường lạc ngã tịnh...". Ðó là nói tâm.

Kinh Viên Giác nói: "Huyễn tùng giác sanh, huyễn diệt giác viên, giác tâm bất động...". Ðó là nói tâm.

Thiền tông nói: ''Bản lai diện mục, vô vị chân nhân. Thuyền không đáy, đàn không giây...". Ðó là nói tâm.

3.Bàn về các Luận sư

Nhưng trong kinh, đức Phật nói tâm một cách vắn tắt cô đọng. Các vị Tổ sư, Luận sư mới dựa theo để suy tầm tu chứng phát hiện ra nhiều ý nghĩa ẩn khuất trong đó, mới tạo luận để giải thích, dần dần mới phát sinh nhiều ý nghĩa mới lạ độc đáo giúp cho hành giả có thêm sự hiểu biết hết sức phong phú.

Từ lý Tứ đế, ngài Long Thọ đã khái quát thành hai đế là tục đế và chơn đế, hay thế tục đế, thắng nghĩa đế.

Ngài Hộ Pháp lại khai triển ra thành bốn lớp hai đế (Tứ trùng Nhị đế) là thế gian thế tục đế, đạo lý thế tục đế, chứng đắc thế tục đế, thắng nghĩa thế tục đế, thế gian thắng nghĩa đế, đạo lý thắng nghĩa đế, chứng đắc thắng nghĩa đế, thắng nghĩa thắng nghĩa đế.

Chữ vô minh trong kinh cũng được trong luận chia ra làm phát nghiệp vô minh, nhuận sanh vô minh, nhiễm ô vô tri, bất nhiễm ô vô tri, kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc, năm trụ địa vô minh.

Luận Du-già cuốn hai còn nói đến mười lăm thứ vô minh.

Ngay luận Câu-xá này cũng đã hệ thống năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới thành ba khoa và phân tích một cách tỉ mỉ theo hai mươi hai phương diện (hai mươi hai môn phân biệt) Những gì thuộc về tâm mê như năm cái, mười triền mười hoặc...và những gì thuộc về tâm ngộ như giới, định, tuệ, biến tri, biến đoạn, tận trí, vô sanh trí...đều được gom lại sắp đặt có hệ thống để luận giải làm cho rõ ràng từng ly từng tí quá trình diễn biến trong khi mê, cũng như tuần tự tu chứng trên bước đường ngộ...

...Riêng luận Câu-xá còn có vị trí rất quan trọng đối với Hữu bộ, cũng như luận Thắng Pháp Tập Yếu của ngài A-nậu-lâu-đà có một vị trí rất quan trọng đối với Tân Thượng tọa bộ. Và có thể nói môn tâm lý học, đạo đức học Phật giáo cũng đã được các luận này trình bày khá đầy đủ.

Từ Ðàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Học viện Phật giáo Việt <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999

1. Forum:

Xin thưa cùng các bạn trong cộng đồng diễn đàn.
Hôm nay cp trích dẫn nguyên văn của Cố HT. Thích Thiện Siêu ra đây, là có ý tham khảo lại những lời dạy trong kinh Câu Xá Luận. http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3407_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Trích dẫn: Thì không thể gọi là sao chép, nên có lược bỏ những đoạn không hiểu, những đoạn cần ghi chú, những đoạn cần chia sẽ thêm với các bạn thì cp trích dẫn ra.​

Mục đích là trích dẫn sao cho mình hiểu và cộng đồng thích. Do đó có điều sơ sót các bạn giúp đở thêm, thật cảm ơn.​

Thân kính.​
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
daicuongveluancauxa1294132769.jpg

1. Forum:



Mời các bạn cùng cp chia vui.
1.Chuyển mê khai ngộ

Làm tốt cũng mình, xấu cũng do mình, giàu nghèo, vui khổ cũng điều do mình. Đó là chuyển mê thành ngộ.

2. Tâm:
Trích dẫn: Nói về tâm tánh, khi thì nói về tâm tướng, khi thì nói về tâm dụng. Thậm chí có khi đề cập vấn đề thế giới sắc trần, sự vật chuyển biến nhưng cũng cốt để chỉ rõ tâm hầu dễ thực hành chuyển mê khai ngộ...

Lạm bàn: Hòa thượng đã dẫn nhiều loại kinh nêu trên, và mục tiêu để chỉ rõ cái tâm. Khi dùng là tánh, khi là tâm tướng Tóm lại khi biết được cái tâm thì tham học, kinh nào cũng không có sự khác biệt, chỉ khác là khác từ ngữ dụng công.

3.Bàn về các Luận sư

Theo mình nghĩ một luận sư giỏi hoặc có đạo lực thông sâu về Phật Pháp... Thì không phải chỉ nghe tiếng hay theo số đông đại chúng, thì luận sư đó mới hay, mà phải tự hỏi lại mình xem có thích hòa hợp hay không với vị đó.

Nhiều khi mình thích Thầy đó, kinh kia nghe rất hay, rất cao siêu diệu nghĩa, nhưng mình học không vô thì có hay không?
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA A-TỲ-ÐẠT-MA

Ba tạng: Tu-đa-la-tạng, Tỳ-nại-da tạng, A-tỳ-đạt-ma tạng. Chữ A-tỳ-đạt-ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Ðại thừa. Abhidharma Trung Hoa dịch âm là A-tỳ-đàm, A-tỳ-đạt-ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Ðối pháp.

A. ÐỊNH NGHĨA
Nguyên trong kinh A-hàm đức Phật dùng chữ A-tỳ-đạt-ma với dụng ý tán mỹ các pháp nghĩa thâm huyền, rộng lớn không gì sánh kịp, dần dần nó biến chuyển qua nhiều nghĩa bởi các luận sư của các bộ phái. Như luận sư Bà-sa thì gọi A-tỳ-đạt-ma là phục pháp, vì nó hàng phục được tất cả tà thuyết của ngoại đạo. Hóa địa bộ thì gọi là chiếu pháp, vì nó có khả năng chiếu soi tất cả tánh tướng các pháp. Thí dụ sư thì gọi là thứ pháp, vì Niết-bàn là tối thượng, nó dưới pháp Niết-bàn một bực. Chánh lý sư thì gọi là Thông pháp, vì nó có khả năng thấu đạt tất cả khế kinh. Hiếp Tôn Giả thì gọi là Cứu kính tuệ, Quyết đoán tuệ v.v...đến ngài Thế Thân thì gọi là Ðối pháp với hai nghĩa là đối hướng và đối quán. Ðối là đối diện hướng tới. Ðối diện hướng tới Niết-bàn gọi là Ðối hướng Niết-bàn và đối diện quán sát pháp Tứ đế gọi là Ðối quán. Pháp của Phật dạy không ngoài hai thứ là pháp Vô lậu thắng nghĩa (Niết-bàn) và pháp Hữu lậu pháp tướng. Trí tuệ quán sát pháp tướng và chứng nhập Niết-bàn thì gọi là Ðối pháp trí hay A-tỳ-đạt-ma.
Ðạt-ma dịch là Pháp có nghĩa là tự giữ lấy tính cách nó (nhậm trì tự tánh) và làm mẫu mực phát sinh cho sự nhận biết (quỹ sanh vật giải).
Ðạt-ma tức Dharma từ tự căn Dhri (giữ lại, mang) tức là cái được nắm giữ, hay lý tưởng nếu giới hạn ý nghĩa nó trong tác vụ tâm lý. Trình độ tâm lý sai biệt tùy sự tiếp nhận của mỗi cá thể:

1. Ở đức Phật nó là sự toàn giác hay viên mãn giác (Bồ-đề).
2. Lý tưởng diễn tả trong ngôn từ là giáo lý giáo pháp.
3. Lý tưởng đề ra cho đệ tử theo là luật nghi, đức lý, cấm giới.
4. Lý tưởng để chứng ngộ sẽ là nguyên lý, chân lý, bản tính, luật tắc, điều kiện.
5. Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sự thật thực tại, sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo hay không bị tạo), tâm và vật, ý thể và hiện tượng. Trong trường hợp phái duy thật của các luận sư A-tỳ-đạt-ma, chữ Ðạt-Ma được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ năm.

A-tỳ tức Abhi (tiếp đầu ngữ) có nghĩa là hơn thế, nói về. Như vậy Abhidharma, có nghĩa là pháp tối thắng, hay là "Thắng", hay trần thuật về pháp. Ngài Buddhagosa (Phật Âm, Phật Minh) trong Na-tư-mạn-già-la Y-lạp-hy-ni (sách giải thích Dhiga Nikaya) dẫn bài tụng:" Có pháp tăng thịnh đặc thù, tôn trọng, nói rõ, tối thượng, thế gọi là A-tỳ-đạt-ma".

Như vậy nó rốt ráo có hai điểm. Về nội dung thì ý nghĩa thù thắng, về phương pháp luận cứu thì tường tận khúc chiết. Ngài Phật Âm còn nói:". Trong kinh, pháp ngũ uẩn chỉ được thuyết minh một cách đại khái chứ không đi sâu vào chi tiết, còn trong A-tỳ-đạt-ma thì phân biệt kinh, phân biệt luận, phân biệt vấn đáp, nên pháp ngũ uẩn được thuyết minh một cách cặn kẻ đầy đủ".

Luận Ðại Trí Ðộ nói: "A-tỳ-đạt-ma là gì? Ðáp: Là đối vấn mà đáp, hoàn toàn là hình thức luận cứu, nêu ra nhiều mặt để phân biệt, như nói về 18 giới, thì phân biệt cái nào có sắc, cái nào không sắc? Cái nào có thể thấy, cái nào không thể thấy? Cái nào hưũ lậu, cái nào vô lậu? Cái nào thiện, cái nào bất thiện? Cái nào hữu báo, cái nào vô báo? v.v....như thế gọi là A-tỳ-đạt-ma".

Lại như bảy kiết sử là dục nhiễm, sân nhuế, hữu ái, kiêu mạn, vô minh, kiến, nghi (Kinh Mật Hoàn Dụ số 115, Trung A-hàm) trong đó cái nào là dục giới hệ (trói buộc ở cõi Dục)?

Cái nào là sắc giới hệ? Cái nào vô sắc giới hệ? Cái nào kiến đế đoạn?. Cái nào tư duy đoạn? Cái nào biến sử? Cái nào bất biến sử? v.v...

Ngài Chân Ðế và ngài Huyền Trang đều dịch Abhidharina là Ðối pháp, có nhiệm vụ tập hợp các pháp nghĩa lại rồi đem ra phân loại, định nghĩa, giải thích và phân biệt. Ðối pháp có hai là Ðối quán lý Tứ đế và Ðối hướng quả Niết-bàn. Như vậy không thể hiểu Abhi,A là vô, Bhi là tỷ một cách máy móc được.

B. NGUỒN GỐC CỦA A-TỲ-DẠT-MA
Nó đã bao gồm trong sự thuyết pháp của đức Phật. Ðức Phật thuyết pháp một cách ung dung tự tại. Lời Phật nói đơn giản minh bạch không có gì bí mật. Phật đã phân biệt và phân loại một cách rõ ràng. Như vậy nguồn gốc của A-tỳ-đạt-ma xuất phát từ Phật.

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LUẬN THƯ A-TỲ-ÐẠT-MA

Thời kỳ 1: Luận thư còn giữ hình thức khế kinh. Trong thời kỳ 100 năm sau Phật Niết-bàn, chưa chia kinh luận như kinh A-hàm còn truyền đến ngày nay là do học phong của Giáo hội Tăng đoàn mà được chỉnh lý và A-tỳ-đạt-ma hóa, cho nên trong đó có những kinh mang nhiều sắc thái như luận, như kinh Tăng Nhất, Tạp A-hàm, kinh Thế Ký trong Trường A-hàm và Phân Biệt Bộ trong Trung Bộ, kinh Chúng Tập trong Trường Bộ.

Thời kỳ 2: Luận thư giải thích nghĩa kinh. Lấy kinh làm bối cảnh rồi định nghĩa, phân loại, phân biệt, giải thích những điều đã nói trong kinh chứ chưa phát huy vấn đề gì đặc sắc độc lập, như Vô Ngại Ðạo Luận của Phật Âm, Ma-ha-ni-luật-sa, Cưu-lạp-ni-luật-sa trong Tiểu Bộ hay như Hán dịch Pháp Uẩn Túc Luận, Tập Dị Môn Túc Luận.

Thời kỳ 3: Luận thư tiến tới độc lập. Thời kỳ này Luận thư không còn bàn giải nghĩa kinh mà lấy tất cả đề mục của các kinh tập hợp lại rồi phân loại một cách tường tận và theo mọi tiêu chuẩn để phân biệt tính chất các đề mục ấy, nội dung dần dần bao hàm các vấn đề sự thật độc lập hẳn với kinh luật. Ðó là thời kỳ xuất hiện bảy bộ luận của Phật giáo <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on"><ST1:pLACE w:st="on">Nam</ST1:pLACE></ST1:COUNTRY-REGION> phương và Ðại Tỳ-bà-sa luận của Hữu bộ, Thành Thật luận của Kinh bộ.

Thời kỳ 4: Là thời kỳ Luận thư cương yếu. Các luận thư A-tỳ-đạt-ma phát huy giáo nghĩa của các bộ phái khi đã phát triển thì mắc phải cái nạn quá nhiều, khó học hỏi nổi, nên đòi hỏi phải có các luận thư toát yếu. Bộ luận thư toát yếu ra đời đầu tiên là bộ A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Thắng (Ðạt-ma-thi-la), đến Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Cứu, học trò Pháp Thắng, rồi đến Câu-xá luận của ngài Thế Thân, Thanh Tịnh Ðạo luận của ngài Phật Âm, luận A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập của ngài A-nậu-lâu-đà. Hai bộ sau này thuộc Thượng tọa bộ Tích Lan.

Tóm lại, phương pháp xử lý vấn đề của các A-tỳ-đạt-ma là trước hết nó hoàn toàn phụ thuộc vào kinh, chỉ có kinh là có quyền chứng tuyệt đối. Rồi dần dần từ việc giải thích từng mỗi câu kinh tiến lên thuyết minh toàn thể tư tưởng được gói ghém trong các câu kinh, trong sự tiến bộ đó nó đã nảy sinh ra thái độ phê phán tư tưởng trong kinh, cho đến khi không còn bị kinh chi phối, thậm chí không tôn trọng kinh bằng luận.

Luận Ðại Tỳ-bà-sa cuốn 5 nói: "Nếu cứ khư khư chấp chặt từng câu kinh mà không đạt quan chân lý của nó thì người ấy là "Trước văn Sa-môn". Ðó là thái độ của Hữu bộ lấy A-tỳ-đạt-ma làm trung tâm. Và theo ngài Chân Ðế thì Kê dẫn bộ còn cho rằng: "Kinh luật chẳng qua chỉ là phương tiện, còn đệ nhất nghĩa đế chính thật nằm trong A-tỳ-đạt-ma".

Như vậy A-tỳ-đạt-ma đã có chỗ đặc sắc không giống khế kinh. Chẳng hạn, ở khế kinh chú trọng giá trị tu chứng thực tiễn theo chủ trương "chuyển mê khai ngộ" cho nên những điều gì không thiết thực giúp cho việc chuyển mê khai ngộ thì đức Phật bỏ qua không nói đến. Trong những Pháp môn Ngài dạy để chuyển mê khai ngộ, Ngài chỉ dạy những điều vừa đủ hiểu để tu hành, nhưng đến A-tỳ-đạt-ma thì chuyển sang chú trọng nghiên cứu vấn đề sự thật.

Thay vì xử lý các vấn đề tu dưỡng trước, thì A-tỳ-đạt-ma lại lo thuyết minh một cách tinh tế về sự thật liên quan đến nhân sanh vũ trụ trước rồi sau mới đề cập vấn đề tu dưỡng. Chủ ý các luận sư A-tỳ-đạt-ma tuy không coi thường vấn đề tu dưỡng nhưng muốn xác lập lý tưởng tu dưỡng thì trước phải xác định sự thật.
Sau hết, nhìn vào phạm vi phân chia các vấn đề cứu xét sự bất đồng giữa mới và cũ. Lúc đầu A-tỳ-đạt-ma chỉ luận cứu những đề mục đặc thù như thiền định, trí tuệ...

Nhưng trong quá trình tiến bộ liên tục nó đã lấy việc thuyết minh các đề mục đó một cách hệ thống làm nhiệm vụ và để tránh khó khăn nó lại chia các vấn đề đó ra từng bộ môn (chư môn phân biệt). Do đó mới có nhiều luận thư, và sau cùng để tiện việc học hỏi lại có các luận thư cương yếu ra đời.

C. CÁC LUẬN THƯ CỦA THƯỢNG TỌA BỘ
1. Pháp Tụ Luận (Dhamma Sanghani)
2. Phân Biệt Luận (Vibhanga)
3. Giới Thuyết Luận (Dhatu Katha)
4. Nhân Thi Thiết Luận (Pudgala Pannati)
5. Song Ðối Luận (Yamaka)
6. Pháp Trí Luận (Patthana)
7. Thuyết Sự Luận (Kathavasthu)

Ngoài bảy luận thư cơ bản này còn có các luận thư được sáng tác tiếp theo:
- Thanh Tịnh Ðạo Luận (visudhimagga) của ngài Phật Âm thế kỷ 5 TL, có giá trị như một bộ bách khoa toàn thư Phật giáo, tính chất tương đương Câu-xá Luận đối với Hữu bộ. Ðây là sách tiêu chuẩn của tân Thượng tọa bộ.
- Trường Tập Kinh Chú Sớ (Sumangala Vilasini) sách giải thích Trường Tập Kinh (Trường Bộ Kinh).
- Attha Salina, sách chú thích bộ Luận Pháp Tụ.
- Ngũ Thư Thuật Nghĩa (Panca-Pakarana Atthokattha): Năm sách Chú sớ Ðối pháp tạng.

Sau ngài Phật Âm có nhiều tác phẩm ra đời, trong đó có giá trị nhất là bộ A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập Luận (Abhidharmattha Sangaha; H.T Minh Châu dịch Thắng Pháp Tập Yếu) này do ngài A-nậu-lâu-đà (Anuruddha) viết thế kỷ 8 T.L. Ðây là bộ sách ngắn gọn toát yếu giáo nghĩa Phật giáo, làm sách chỉ nam của Phật giáo Nam phương, với những giải thích xác đáng rõ ràng giáo nghĩa của Thượng tọa bộ nên nhiều nơi đã dùng nó thay cho Thanh Tịnh Ðạo Luận.

D. CÁC LUẬN THƯ CỦA HỮU BỘ

1. Pháp Uẩn Túc Luận (Dharma Skandha): 12 cuốn, do Ðại-Mục-kiền-liên (Mahamogalyayana), có thuyết nói do Xá-lợi-phất viết lúc Phật tại thế.
2. Tập Dị Môn Túc Luận (Sangti paryaya pada) do Xá-lợi-phất viết lúc Phật tại thế. (20 cuốn)
3. Thi Thiết Túc Luận (Prajnapti): Do Ca-chiên-diên (Kaiyaya) viết lúc Phật tại thế, chưa dịch ra Hán văn.
4. Thức Thân Túc Luận (Vijnanakaya): 16 cuốn do Ðề-bà-thiết-ma (Devasarman) viết sau Phật Niết-bàn 100 năm . 5. Phẩm Loại Túc Luận (Ptrakarama): 18 cuốn do Thế Hữu viết sau Phật Niết-bàn 300 năm, cũng dịch là Chúng Sự Phần A-tỳ-đàm Luận (1).
6. Giới Thân Túc Luận (Dhatukaya): 3 cuốn do Thế Hữu viết sau Phật Niết-bàn 300 năm
[*]
7. Phát Trí Luận (Janna Prasthana, A-tỳ-đàm Bát-kiền-độ Luận): 20 cuốn do Ca-chiên-diên tử (Katyayaniputra - Ca-na-diễn-ni tử) viết sau Phật Niết-bàn 300 năm.
[*] Có trước Đại Tỳ Bà Sa . Có giá trị nhất trong các luận khác thời đó . Sau đệ tử thấy nhiều mới gom lại thành Giới Thân Túc Luận.

Bảy bộ luận này, bộ Phát Trí gọi là Thân Luận, còn sáu bộ kia gọi là Túc Luận, vì nó là chỗ dựa cho luận Phát Trí được thành, và vì nghĩa lý chứa đựng trong nó ít ỏi không bằng nghĩa lý trong Phát Trí Luận rộng hơn. Trong đó ba bộ viết ra lúc đức Phật còn tại thế, bốn bộ viết ra sau khi Phật Niết-bàn. Ngoài bảy bộ luận cơ bản này, Hữu bộ còn có các luận thư để quảng diễn nghĩa lý các bộ trên như:
- Luận Ðại Tỳ-bà-sa (Mahavibhasa) 200 cuốn, là kết quả của Ðại hội Kiết tập lần thứ tư vào giữa thế kỷ 2 T.L tại Ca-thấp-di-la (Kasmir, Kế Tân) do các ngài Thế Hữu, Diệu Âm, Giác Thiên, Pháp Cứu, Hiếp Tôn Giả chủ trì với sự ủng hộ tận lực của vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniska). Bộ này quảng diễn giáo nghĩa của luận Phát Trí.
- A-tỳ-đàm Tâm Luận (Abhidharmahridaya) do Pháp Thắng (Ðạt-ma-thi-la) tạo vào thế kỷ 6 sau Phật Niết-bàn (đầu thế kỷ 3 T.L), toát yếu Ðại Tỳ-bà-sa Luận.
- Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận (Samyutara Abhidhar-mahridaya) do đệ tử của ngài Pháp Thắng là Pháp Cứu (Tăng-già-bạt-ma) tạo vào thế kỷ 7 sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 4 T.L) nhằm làm rõ nghĩa trong A-tỳ-đàm Tâm Luận, vì cho A-tỳ-đàm Tâm Luận quá giản lược.
- Câu xá Luận (Abhidharma Kosa) do Thế Thân (Vasubhandhu) tạo vào 900 năm sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 5 T.L), 30 cuốn.
- Thuận Chánh Lý Luận: 80 cuốn, do Chúng Hiền đồng thời Thế Thân tạo, nhằm bác lại Câu-xá.
- Hiển Tông Luận: 40 cuốn do Chúng Hiền tạo, nhằm nêu bật tông nghĩa của Hữu bô.
- Kinh Lượng Bộ - Có Thành Thật Luận 20 cuốn.

Đ. CÁC LUẬN THƯ DO AI NÓI?

Theo ngài Phật Âm trong Nam phương Phật giáo thì cho rằng, sau khi thành đạo, đức Phật ngồi tư duy dưới cội Bồ-đề, và về sau trong các buổi thuyết pháp cho thân mẫu trên cung trời Ðao-lợi, chính đức Phật đã nói sáu bộ luận đầu trong bảy luận thư thuộc Thượng tọa bộ. Sáu luận thư này đã được hình thành tại Ðại hội Kiết tập lần thứ ba, còn bộ Luận Sự thứ bảy do Mục-kiền-liên tử Ðế-tu làm ra khoảng 200 năm sau Phật Niết-bàn, nhưng cũng do lời Phật chú ký mà làm, nên về quan hệ vẫn được xem như do chính Phật nói.

Trái lại, về phía Bắc phương Phật giáo thì cho rằng các luận thư A-tì-đàm không phải do Phật nói mà là do các đệ tử Phật nói trong các thời gian khác nhau, hoặc trong lúc Phật tại thế, hoặc sau khi Phật Niết-bàn. Quan điểm của Bắc phương sát với sự thật hơn.
==================
Nguồn trích dẫn tài liệu:


daicuongveluancauxa1294132769.jpg
Từ Ðàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Học viện Phật giáo Việt <ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3407_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Tiểu sử: Cố HT. Thích Thiện Siêu

TÁC GIẢ VÀ THỜI GIAN TẠO LUẬN Câu Xá

Tác giả luận này là Luận sư Bà-tấu-bàn-đậu (Vasubandhu - cựu dịch là Thiên Thân, tân dịch là Thế Thân), người Bắc Ấn Ðộ, sanh trong khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, tại đô thành Bố-lâu-sa-bố-sa (Purusapura), nước Kiền-đà-la (Gandhara), họ Kiều-thi-la, chủng tộc Bà-la-môn, Ngài có ba anh em đều xuất gia theo bộ phái Tát-bà-đa

(Sarvàstivada: Nhất thế hữu bộ, gọi tắc là Hữu bộ, một trong hai mươi bộ phái PG. Nguyên Thủy), nhưng anh ngài là Vô Trước (Asanga) sớm tỏ ngộ không lý (Sunyata) của Nam Tông, không còn bị bế tắc ở nơi đó, nên thông suốt thật tướng, quay về nghiên cứu và hoằng dương giáo lý Ðại Thừa.

Em ngài là Tỷ-lân-trì-đạt-đa thì chỉ theo giáo nghĩa PG. Nguyên thủy mà thôi. Riêng ngài là bậc thông tuệ tuyệt vời, khi còn theo Nam Tông đã viết 500 bộ luận để xiễn dương giáo nghĩa này. Về sau, được sự khuyến dẫn của anh là Vô Trước, ngài trở về Ðại thừa và cũng viết 500 bộ luận để hoằng dương giáo nghĩa này.

Vì thế, đương thời tôn ngài là Thiên Bộ Luận Sư. Câu-xá Luận là một trong 500 bộ luận PG. Nguyên Thủy do ngài trước tác. Ðến năm 80 tuổi ngài viết bộ luận cuối cùng là "Duy Thức Tam Thập Tụng". Như vậy, có thể ước định, ngài viết luận Câu-xá vào khoảng từ 40-50 tuổi, tức khi ngài đang theo PG. Nguyên Thủy.

Theo Tây Vức Ký 2, cách thành Bố-lâu-sa-bố-la, khoảng tám, chín dặm về phía đông, có một cây tất-bát-la, phía nam cây này có một ngôi tháp cao do vua A-nị-sắc-ca (Kaniska, 120TL) dựng lên khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, phía tây ngôi tháp có một ngôi chùa cao rộng, với nhiều tầng, tên là Quỳnh Lâm, cũng do vua Ca-nị-sắc-ca lập. Tầng thứ ba là một Tăng phòng, nơi mà trước kia ngài Hiếp Tôn Giả ở, phía đông Tăng phòng có một gian nhà, chính nơi đây ngài Thế Thân viết bộ luận Câu-xá này.
==================
Nguồn trích dẫn tài liệu:
daicuongveluancauxa1294132769.jpg
Từ Ðàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Học viện Phật giáo Việt <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3407_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

Tiểu sử: Cố HT. Thích Thiện Siêu Hoà thượng Thích Thiện Siêu họ , húy Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tự Trí Đức, hiệu Thích Thiện Siêu. Hoà thượng sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu (1921) trong một gia đình thâm tín Phật giáo nhiều đời, ở làng Thần Phù, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Thân phụ là Cụ ông Võ Trọng Giáng, thân mẫu là Cụ bà Dương Thị Viết. Hoà thượng là con trưởng trong một gia đình gồm có 5 anh em: 3 trai và 2 gái. Người em kế của Ngài cũng noi theo chí nguyện của anh mình và xuất gia, đó là Cố Thượng tọa Thích Thiện Giải, nguyên là Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Lâm Đồng, trú trì chùa Phước Huệ – Bảo Lộc. (Xem tiếp...)​

III. Công trình dịch thuật và biên soạn:
Mặc dù bận rộn với nhiều công việc của Giáo hội, giãng dạy Tăng ni và hướng dẫn tín đồ tu học, Ngài cũng đã dành nhiều thì giờ cho việc phiên dịch, biên soạn và in ấn Kinh, Luật, Luận cho Tăng Ni Phật tử có tài liệu để tu học. Những công trình dịch thuật và biên soạn gồm:


1. Dịch thuật:

  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm (1940).
  • Phát Bồ-đề tâm văn (1952).
  • Kinh Kiến Chánh (1953).
  • Kinh 42 chương (1958).
  • Kinh Trường A-hàm (lược dịch - 1959).
  • Kinh Pháp Cú (1962).
  • Tân Duy thức luận (1962)
  • Luận Thành duy thức (1995).
  • Luận Đại trí độ (5 tập, 1997-2001).
  • Trung luận (2001)


2. Biên soạn:
  • Nghi thức tụng niệm (đồng soạn, 1958).
  • Nghi thức thọ Bồ-tát giới tại gia (1958)
  • Đại cương luận Câu-xá (1987).
  • Vô ngã là Niết-bàn (1990).
  • Toả ánh Từ quang (1992).
  • Lối vào Nhân minh học (1995).
  • Cương yếu Giới luật (1996).
  • Ngũ uẩn vô ngã (1997)
  • Kinh Pháp hoa giữa các Kinh điển Đại thừa (1997).
  • Trí đức văn lục (9 tập, 1994-2001)
* Nhiều bài biên khảo khác đăng tải ở các Tạp chí từ 1940-2001, như:
  • Tạp chí Viên âm (1940).
  • Phật giáo Việt Nam (1960).
  • Liên Hoa (1961).
  • Giác ngộ, 1982.
  • Tập văn - Ban Văn hoá Trung ương (1985).
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Forum: Vấn đề Văn Phong

Kinh sách ngày nay trên mạng Internet, trong tu viện Phật học, có dư cho học giả và đọc hết một đời người cũng dẫn còn. Nhưng tìm một quyển kinh để áp dụng trong đời sống thì không đơn giản như chúng ta tưởng.

Việc thứ hai, tuy cùng một quyển kinh nhưng có sự khác nhau về Tác giả và đạo hạnh.

Kế đến là văn phong của Dịch giả rất ảnh hưởng cho người đọc.

Nhưng đại đa số học giả chỉ ưa chuộng thực tế hơn là những lời ủy mị. Đạo hạnh cao thấp và kinh điển có tồn tại lâu dài hay không thì có lẽ phải tùy thuộc văn phong của Dịch giả nhiều hơn Tác giả...!

Sau cùng là những văn phong lỗi thời, có tính cách tiêu cực thì cần tu chỉnh, nếu có thể tu chỉnh.

(Chú thích: Trong chủ đề trích dẫn bài Đại Cương Về Luận Câu Xá, có sự phân biệt so sánh về Tiểu / Đại tông giáo.v.v. Có lẽ cp xét lại mình, ý không muốn ai chê bai mình, thì mình cũng không muốn chê bai người khác theo luật công bằng. Giả lại Kể từ năm 1950 Thành lập quốc hội Phật giáo thế giới, những văn phong Tiểu / Đại đã hoàn toàn thay đổi. Vì lẽ này cp tự ý chỉnh sửa cho hợp với khế cơ và lý. Hy vọng cp sẽ không mang tội bất kính với người trên.)

Nam Mô Hoan hỉ địa Bồ Tát;
Nam Mô Hoan hỉ địa Bồ Tát;
Nam Mô Hoan hỉ địa Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chứng minh cho lòng thành kính tri ân của con.
Xin đạt nguyện vọng học và hiểu kinh này.

kính lễ.
Ngày: 15-01-2013
==================
Nguồn trích dẫn tài liệu:
daicuongveluancauxa1294132769.jpg
Từ Ðàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Học viện Phật giáo Việt <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3407_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark


 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
B. Ý HƯỚNG TẠO LUẬN

Khi tách khỏi Thượng tọa bộ, Hữu bộ có kiến giải riêng về Phật pháp.

1. Theo Hữu bộ mục đích của toàn bộ Phật pháp ở chỗ chỉ ra sự khổ của thế giới hiện hữu và phương cách thoát ly sự khổ đó để đạt Niết-bàn an ổn vĩnh cửu. Nói đầy đủ hơn là chỉ rõ sự khổ mà người cầu giải thoát cần phải biết, nguyên nhân sự khổ mà người cầu giải thoát cần phải diệt trừ, phương cách diệt khổ cần phải tu và cảnh giới Niết-bàn an vui cần phải chứng. Ðó là bốn Thánh đế bao gồm tất cả mọi sự vật thế gian và xuất thế gian.

2.Mọi sự vật này lại có thể chia ra năm vị là sắc, tâm, tâm sở, tâm bất tương ưngvô vi.

2.1.Sắc tức năm căn, năm trần và vô biểu sắc.
2.2.Tâm tức tinh thần, khả năng nhận thức, tức tâm vương.
2.3.Tâm sở là công dụng tinh thần đặc thù như cảm giác, tri giác, tưởng tượng v.v... Công dụng đặc thù này không phải là công dụng của tâm vương nhưng nó có tự thể riêng hợp cùng với tâm vương thành có cảm giác tri giác, như thọ tâm sở hợp với tâm vương thành có sự cảm thọ vui khổ.
2.4.Tâm bất tương ưng hành, hành là tạo tác, những pháp có công dụng tạo tác gọi là hành như sanh, trụ, dị, diệt v.v... nó từ tâm và sắc mà có được, chứ không phải như tâm sở tương ưng với tâm vương, nên gọi tâm bất tương ưng hành.
2.5.Vô vi pháp tức ba thứ trạch diệt, phi trạch diệt và hư không vô vi.

Năm vị pháp này theo chỗ tiện nghi chia làm năm uẩn và vô vi, hoặc chia làm mười hai xứ, hoặc chia làm mười tám giới.

Năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới hợp lại gọi là ba khoa, thể nó thường hằng bất diệt, chỉ khi tác dụng nó chưa khởi gọi là pháp vị lai, khi đã khởi rồi gọi là quá khứ, khi đang khởi gọi hiện tại. Ðây là chủ trương "ba đời thật có", "pháp thể hằng có" của tông phái Hữu bộ.
Pháp thể tuy hằng có, nhưng tác dụng của nó sanh khởi được phải nhờ đến sự hòa hợp của các cái khác và sự quan hệ trước sau, tức là nhờ nhân duyên, chứ không thể đơn độc khởi lên tác dụng. Tự thể mỗi pháp riêng còn không thể khởi lên tác dụng huống là có một chủ tể thường nhất để gọi đó là ngã được sao? Do đó tông này còn được gọi là "Pháp hữu ngã vô tông".


Hỏi: Nếu không có ngã thể chủ tể thường nhất thì cái gì dẫn đến sự khổ của thế giới hiện thực này?

Ðáp: Dẫn đến sự khổ của thế giới hiện thực không ngoài nghiệp nhân và phiền não duyên, nếu dứt hết nghiệp nhân và phiền não duyên thì quả báo sự khổ tự dứt, đồng thời chứng đắc diệu thể Niết-bàn.

Phương pháp dứt nghiệp phiền não này nói lược là Thánh đạo tám chi, nói rộng là bảy khoa ba mươi bảy giác phần.

Tóm lại, tông phái Hữu bộ rất chú trọng lý tánh, chú trọng dùng tuệ giản trạch các pháp để dứt mê hoặc chứng chân lý. Cho nên trên bước đường tu đạo không ngoài vận dụng tuệ thế tục (hưũ lậu tuệ) và tuệ thắng nghĩa (vô lậu tuệ) tuần tự tiến theo ba đạo là kiến đạo, tu đạo, vô học đạo.

Kiến đạo là dựa vào tuệ trạch pháp thấy biết một cách xác thật về lý Tứ đế, dứt được kiến hoặc cũng gọi mê lý hoặc.

Tu đạo là tiến lên dùng sức tuệ trạch pháp tiếp tục quán sát lý Tứ đế, để dứt trừ tư hoặc cũng gọi là mê sự hoặc (sự là sự trạng). Nhưng hai đạo này còn trên đường tu tập dứt hoặc chứ chưa hòan toàn thanh tịnh, nên còn gọi chúng là hữu học, cho đến khi hòan toàn sạch hết mê hoặc chứng đạt Niết-bàn mới gọi là vô học đạo, còn gọi là vô học vị.

Lại do căn cơ người tu có hạ, trung, thượng nên kết quả khác nhau.

Hạ căn phải nhờ nghe giáo pháp Phật để tu mới được giải thoát, đây là chủng tánh thanh văn, kết quả chứng A-la-hán.

Trung căn không nhờ sự nghe giáo, chỉ do tự lực quán sát lý Mười hai Nhân duyên mà dứt hoặc ngộ đạo. Ðây là chủng tánh duyên giác, kết quả chứng độc giác Phật.

Thượng căn trải nhiều kiếp tu hành đầy đủ nhất thế chủng trí, dứt sạch mê hoặc, viên mãn công hạnh tự lợi lợi tha, chứng vô thượng giác. Ðây là chủng tánh đại giác.


Giáo nghĩa của Hữu bộ từ khi tách khỏi Thượng tọa bộ cho đến khi luận sư Ca-đa-diễn-ni tử ra đời mới tổ chức hoàn chỉnh có hệ thốngvới bộ luận Phát Trí của ông, được truyền bá mạnh nhất tại nước Ca-thấp-di-la (Kasmir, Kế Tân) ở Bắc Ấn.

Ðến giữa thế kỷ thứ hai TL, vua Ca-nị-sắc-ca của Ca-thấp-di-la triệu tập Ðại hội Kết tập Kinh điển lần thứ tư dưới sự chủ trì của các ngài Hiếp Tôn Giả, Pháp Cứu, Thế Hữu, Diệu Âm, Giác Thiên thuộc Hữu bộ (trong đó, Thế Hữu làm Thượng thủ), kết quả đặc biệt của cuộc kết tập là cho ra đời bộ luận A-tỳ-đạt-ma Ðại Tỳ-bà-sa 200 cuốn, nhằm giải thích luận Phát Trí.

Từ trước các học giả A-tỳ-đạt-ma được gọi là Ðối pháp sư, từ khi luận Ðại tỳ-bà-sa ra đời thì các học giả này được gọi là Tỳ-bà-sa sư, nghĩa là vị thầy giải thích tỉ mỉ.

Họ truyền bá rất mạnh Hữu bộ, tôn trọng luận Lục Túc, Phát Trí hơn kinh, mạt sát các kinh luận của các bộ phái khác hành trì và cứ mê chấp chủ trương "Ba đời thật có, ba khoa đều thật", cho đó là chân lý, rồi chê bai kẻ khác.


Ðến đây các luận thư của Hữu bộ đã phong phú, lý nghĩa dồi dào đến chi li phiền toái, người học khó theo nổi, đòi hỏi đến sách tóm lược. Ðáp ứng nhu cầu đó.

Pháp Thắng đã viết A-tỳ-đàm Tâm luận, rồi
Như Ý Luận sư viết Vô Y Hư Không Luận giải thích Tâm Luận.
Pháp Cứu, đệ tử của Pháp Thắng (cũng gọi Pháp Thượng, Ðạt-ma-thi-la), không đồng ý Hư Không Luận nên viết Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận để giải thích Tâm Luận của thầy mình.

Các luận này tuy nói là tóm lược Ðại Tỳ-bà-sa nhưng đã có nhiều điều không trung thực với Ðại Tỳ-bà-sa, nghĩa là không trung thực với lý thuyết Hữu bộ, nên khi Tâm Luận ra đời được truyền bá tại nước Càn-đà-la trở thành đối lập với sự truyền bá của Ðại Tỳ-bà-sa ở Ca-thấp-di-la.

Ngài Thế Thân sinh tại Càn-đà-la đọc đến Tâm Luận, Tạp Tâm Luận, cùng giáo nghĩa của Kinh bộ có chỗ đồng tình, ngược lại không đồng tình một số giáo nghĩa chính của Hữu bộ nhưng Hữu bộ đã tôn trọng nó hơn cả kinh Phật nói, nên ngài muốn thẩm định lại thị phi, bèn cải trang đến tại Ca-thấp-di-la nghiên cứu giáo nghĩa Hữu bộ, nhất là nghiên cứu bộ luận Ðại tỳ-bà-sa, được giữ nghiêm ngặt tại nước đó.

Khi đến nơi ngài được vị A-la-hán Ngộ Nhập (Tác-kiện-đà) (Tây Tạng truyền rằng ngài học với Chúng Hiền là học trò của Ngộ Nhập) truyền dạy giáo nghĩa Hữu bộ cho.

Sau 4 năm học hiểu thấu trọn giáo nghĩa Hữu bộ ngài được ngài Ngộ Nhập ngầm khuyên trở về. Khi ngài trở về nước bắt đầu giảng Ðại Tỳ-bà-sa, tập hết yếu nghĩa tạo thành 600 bài tụng, trong đó thường thêm chữ "truyền thuyết" biểu thị sự không tin hẳn chủ trương "Ba đời thật có, pháp thể hằng có" của Hữu bộ.

Sáu trăm bài tụng này được đưa đến Ca-thấp-di-la, các học giả Ca-thấp-di-la rất hoan nghênh và yêu cầu giải thích, ngài đã giải thích và đúc kết thành bộ luận Câu-xá với nội dung trình bày theo sự hiểu biết độc lập của mình chứ không thiên vị tông phái nào.


Tuy ngài theo Hữu bộ, nhưng nếu giáo nghĩa nào của Hữu bộ không đúng thì ngài đều bỏ qua, còn nếu giáo nghĩa nào của Kinh bộ mà đúng thì thì ngài thu lấy, mục đích là trừ bỏ bịnh tình chấp ngoan cố hẹp hòi từ trước của nhà Hữu bộ, để phát huy chân lý Phật, và phát huy chân lý Phật tức là để giúp cho chúng sanh khai sinh trí tuệ, đoạn trừ phiền não, lấy đó làm cách duy trì Chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian.

Xem bài tụng cuốn luận này đủ thấy ngài không theo hẳn giáo nghĩa chính thống của Hữu bộ: "Nghĩa lý của Ca-thấp-di-la đã hoàn bị. Có một ít điều chê bai đó là lỗi ở tôi, nhưng phê phán đâu là chính, điều đó chỉ do ở đức Mâu-ni". Ðối với luận Câu-xá này, Tây Vức Ký cuốn 4 đã viết: "Bấy giờ có Bồ-tát Thế Thân chuyên tâm đạo mầu, tìm hiểu nghĩa lý bên ngoài ngôn ngữ, phá chỗ mê chấp của Tỳ-bà-sa, tạo luận Câu-xá, lời lẽ nghĩa lý tinh vi, lý trí cao siêu trong sáng".

Do lẽ trên nên khi luận Câu-xá ra đời được mọi người hoan nghênh nghiên cứu và được tôn là Thông minh luận, khiến Luận sư Chúng Hiền viết Thuận Chánh Lý luận 80 cuốn để kích bác lại. (Thích Thiện Siêu).
==================
Nguồn trích dẫn tài liệu:
daicuongveluancauxa1294132769.jpg
Từ Ðàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Học viện Phật giáo Việt <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3407_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark


 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
A. PHẦN CHÁNH TÔNG (2 phần)


I. PHẦN TỔNG NÊU ÐẠI CƯƠNG
Như giải thích trong phần tựa, trí tuệ giản trạch là phương tiện thù thắng để đoạn trừ mê hoặc, nên rải rác khắp nơi, Phật đã thuyết minh về Ðối Pháp, tức thuyết minh trí tuệ vô lậu. Vậy những pháp nào là đối tượng của trí tuệ giản trạch đó? Tụng đáp:

* Nguyên văn:

Hữu lậu vô lậu pháp.
Trừ đạo, dư hữu vi,
Ư bỉ lậu tùy tăng,
Cố thuyết danh hữu lậu.

Vô lậu vị Ðạo đế,
Cập tam chủng vô vi,
Vị hư không nhị diệt.
Thử trung không vô ngại,

Trạch diệt vị ly hệ,
Tùy hệ sự các biệt,
Tất cảnh ngại đương sanh
Biệt đắc phi trạch diệt.<SUP> (V)</SUP>
<SUP></SUP>
* Dịch nghĩa:

Các pháp gồm hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là các pháp hữu vi, trừ Ðạo đế, vì nơi các pháp này, lậu hoặc tùy thuận tăng trưởng, nên gọi là hữu lậu.

Vô lậu là Ðạo đế và ba pháp vô vi, tức hư không và hai thứ diệt.
Trong ba pháp vô vi, hư không vô vi có nghĩa là vô ngại (tụng 2); trạch diệt vô vi có nghĩa là ly hệ, tùy theo hệ sự mà có sai khác; do các pháp hoàn toàn bị chướng ngại, nên không thể sanh khởi mà đặc biệt đắc phi trạch diệt (tụng3).

Từ bài tụng này về sau là phần chánh tông, có 600 tụng căn bản. Theo phân định của chương trên, chia làm hai phần tổng tiêu (giới thiệu tổng quát) và biệt thích (giải thích chi tiết), thì ba tụng này là phần tổng tiêu. Tám phẩm tiếp theo phần này, như phẩm Giới, phẩm Căn v.v...là phần biệt thích.

Vậy nên, luận Câu-xá Quang ký 1 gọi phần này là tổng tiêu cương yếu. Những pháp làm đối tượng giản trạch cho trí tuệ có phạm vi vô cùng rộng rãi, bao gồm tất cả các pháp mê, ngộ, nhân, quả; nhưng kết lại chúng không ngoài các pháp hữu lậu và vô lậu. Vì thế câu đầu của bài tụng nói: "Các pháp hữu lậu và vô lậu".

Trong Tứ đế, trừ Diệt đế còn lại là pháp hữu vi.
Trong các pháp hữu vi đó, trừ Ðạo đế còn lại là Khổ đế và Tập đế là thuộc pháp hữu lậu, vì rằng Khổ, Tập và Ðạo đế là những pháp có biến dịch, có sanh diệt nên đều thuộc hữu vi (Samskrità); chỉ có Diệt đế tức Niết-bàn là pháp thường trụ, bất biến nên thuộc vô vi (Asamskrità).

Vì sao nói Khổ đế và Tập đế là hưũ lậu? - Lậu (Asravà), nghĩa là rỉ chảy, chỉ cho phiền não, như sự rỉ chảy của nước, nó xoi mòn đê điều, ngập tràn ruộng lúa, làm tổn hại giống mạ. Phiền não cũng vậy, nó phá hoại đê điều thân tâm, làm tổn hại giống mạ thiện căn.

Những phiền não này theo thuận duyên mà tăng trưởng. Nơi các tâm, tâm sở, cảnh sở duyên đều thuận theo nó tăng trưởng đều được gọi là hữu lậu (Sàsravà). Trường hợp này, khi phiền não cùng tương ứng với tâm và tâm sở tùy thuận tăng trưởng thì gọi là "tương ưng tùy tăng", khi phiền não cùng với cảnh sở duyên tùy thuận tăng trưởng thì gọi là "sở duyên tùy tăng".


Luận Chánh Lý 4 nói về tướng trạng của hai thứ tùy tăng như sau. Như ở ngoài thành ấp có một đống uế tạp do phẩn, đất và nước tạo thành. Trong đống uế tạp ấy, vì có phẩn nên đất nước trở thành dơ bẩn. Ðồng thời,cũng vì pha trộn với đất và nước nên phẩn càng dơ bẩn thêm.

Ví dụ muốn nói, phẩn phiền não thường làm cho đất, nước tâm, tâm sở trở thành dơ bẩn và đất, nước tâm, tâm sở cũng tùy thuận phiền não càng làm cho nó trở thành dơ bẩn thêm. Ðây là tướng trạng của "tương ưng tùy tăng".

Lại nữa, như con heo ở trong đống uế tạp. Những con heo ăn, ngủ, đùa giỡn trên đó, thì không những toàn thân của chúng trở thành dơ bẩn,vì toàn thân bám đầy phẩn uế mà đống uế tạp kia cũng vì chúng mà trở nên càng dơ nhớp hơn.

Ví dụ muốn nói, uế phiền não làm cho heo sở duyên trở thành dơ bẩn, đồng thời heo sở duyên cũng làm cho uế phiền não trở thành càng dơ bẩn hơn. Ðây là tướng trạng của "Sở duyên tùy tăng".

VÌ rằng, nếu chấp nhận nghĩa "tùy sanh" là pháp hữu lậu thì khi duyên các pháp vô lậu như Ðạo đế hay Diệt đế mà sanh phiền não thì Ðạo đế và Diệt đế đó cũng phải được gọi là pháp hữu lậu hay sao? Thế nhưng, khi duyên Ðạo đế, Diệt đế dù có sanh phiền não, cũng vẫn không thể gọi Ðạo đế và Diệt đế là hữu lậu pháp, vậy nên nghĩa "tùy sanh" là không đúng.

Ngược lại, theo nghĩa tùy tăng, khi duyên dù có sanh phiền não, nhưng đối tượng sở duyên đó không làm tăng thêm, thì gọi là pháp hữu lậu. Ví như ruộng phì nhiêu thường sanh lúa mạ, và cũng làm cho lúa mạ tăng trưởng, nên gọi là ruộng lúa. Còn ruộng muối dù có sanh lúa mạ, cũng không thể làm cho lúa mạ tăng trưởng, nên không được gọi là ruộng lúa.
Tóm lại, vì tùy thuận tăng trưởng theo các sở duyên tương ưng của Khổ đế và Tập đế, nên Khổ đế và Tập đế được gọi là pháp hữu lậu (Sàsravà).


Pháp vô lậu (aàsravà) là Ðạo đế trong Tứ đế và ba pháp vô vi. Ba pháp vô vi (Asamskrità) là hư không vô vi, trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi, nên tụng văn nói: "Vô lậu là Ðạo đế và ba pháp vô vi: hư không và hai thứ diệt (vô lậu vị Ðạo đế cập tam chủng vô vi, vị hư không nhị diệt"). Ðạo đế và ba pháp vô vi vì sao được gọi là vô lậu? Vì đối với các pháp này phiền não không tùy thuận tăng trưởng.

Bây giờ hãy nêu rõ về hư không vô vi và hai thứ diệt:

-Hư không vô vi: (àkàsa- asamskrità) tụng văn dịch là vô ngại (anàvrti), vì lấy sự không chướng ngại làm tánh. Thế nào là không chướng ngại? Ðối với bất kỳ vật nào trong không gian, dù tồn tại hay không tồn tại, pháp vô vi này vẫn trải khắp trong mọi sự mọi vật mười phương thế giới, mà không làm chướng ngại vật khác, cũng không bị vật khác làm chướng ngại, nên vạn vật trong hư không khi sanh thì hiện đến, khi diệt thì bỏ đi, tuy hiện tượng tùy thời gian mà biến hóa, vị trí tùy không gian mà thay đổi, nhưng hư không ấy không hề bị biến đổi chuyển dời, nó thường trú bất động.

Do đó, nói hư không là vô vi. Hư không trong quan niệm thông thường, tuy tương tự với hư không này, nhưng thật ra đó chỉ là sắc pháp hiện hữu trong không gian mà thôi, không những nó làm ngăn ngại vật khác, mà trên mặt hiện tượng nó vẫn chịu sự thay đổi. Ví như ném viên đá vào nước, nước chướng đá, nhường chỗ cho đá chiếm cứ rồi bao quanh phía ngoài viên đá, nên thuộc hưũ vi, khác với hư không vô vi này.

Làm thế nào để biết được trong pháp vô vi có hư không vô vi? Vạn vật trong vũ trụ mỗi cái đều có thể phô bày tướng dạng của nó theo một trình tự nhất định, không hề rối loạn. Cố nhiên, ấy là nhờ năng lực nhân duyên của chúng, nhưng cũng nhờ vào cái "không" (không chướng ngại) để hoàn thành tự thể. Nhân duyên hòa hợp thì hốt nhiên mà sanh, nhân duyên tan rã thì hốt nhiên mà diệt. Khi sanh thì đến mà không bị chướng ngại, khi diệt thì đi cũng không bị ngăn cản.
Như thế ắt phải có pháp hư không vô vi không chướng ngại này mới có thể dung chứa vạn vật để cho tự tánh của chúng được hiển nhiên. Vì vậy, văn trường hàng giải thích: "Nhờ vô ngại nên sắc pháp luân lưu trong đó".


- Trạch diệt vô vi: (Pratisamkhyànirodha), được tụng văn định nghĩa là ly hệ (Visamyoga), do xa lìa các hệ phược, trói buộc của phiền não vô minh mà hiển bày chân lý các tướng. Chân lý này là diệu lý không tịch của các tướng được chứng đắc bởi trí lực có khả năng giản trạch để diệt trừ hệ lụy. Vậy nếu nói đủ thì phải nói: "trạch lực sở sắc diệt" (sự diệt trừ phiền não hệ lụy được thành tựu bởi năng lực giản trạch), và nói tắt là "trạch diệt".


Trạch (Pratisamkhyarodha) là trí tuệ, nhân của khả năng chứng đắc diệt lý. Diệt (nirodha) là diệt lý, là quả của trí tuệ có khả năng chứng đắc diệt lý đó. Diệt lý này phải do xa lìa các hệ phược của phiền não vô minh mới được hiển bày. Thoạt nhìn, tưởng chừng như xưa không mà nay có.
Nhưng khảo sát một cách kỹ càng hơn thì không phải như vậy. Ví như mây tan trăng hiện. Trăng vẫn sẵn ở trên hư không chứ không phải bây giờ nhờ mây tan mới có. Mặt trăng diệt lý cũng vậy, chỉ vì từ vô thỉ đến nay bị mây mù phiền não vô minh che khuất, nên không thể thấy được. Một khi gió lớn chân trí thổi tan mây mù phiền não thì mặt trăng diệt lý sáng tỏ.

Diệt lý sẵn có tự nhiên chiếu hiện nên chúng ta thấy được. Cái diệt lý do chúng ta chứng đắc diệt lý mà thấy đó, thật ra không phải xưa không mà nay có, mà là xưa nay vẫn thường hằng bất biến, bất sanh, bất diệt, là pháp vô vi.

Nếu vậy, diệt lý được nói trong PG Nguyên thủy có khác với chân như được nói trong Ðại thừa chăng?
- Chân như được nói trong Ðại thừa thể tánh của nó bình đẳng, không hề sai khác, không hai cũng không ba.
Còn diệt lý được nói trong PG Ng. Th. đây thì không phải như vậy. Diệt lý này do xa lìa sự trói buộc của các pháp hữu lậu mà chứng đắc, tùy theo số lượng bất đồng của các pháp hữu lậu trói buộc (hệ sự) được xa lìa mà sự chứng đắc diệt lý cũng có khác nhau.

Vì thế, tụng văn nói:"tùy hệ sự các biệt", tức tùy theo số lượng sai biệt của các hệ sự mà số lượng của sự ly hệ cũng khác nhau. Ðó chính là hiển bày cái thể sai khác của nó.

- Phi trạch diệt vô vi (Apratisamkhyà): Nếu chuẩn theo lý trạch diệt được nói ở trên, lẽ đáng phải nói đủ là "phi trạch lực sở đắc diệt "(diệt lý được chứng đắc không do sức giản trạch). Tức không như trạch diệt vô vi phải nhờ trí lực giản trạch mới chứng đắc.

Phàm vật được sanh ra đều bắt đầu từ vị lai để đến hiện tại, rồi từ hiện tại đi về quá khứ. Ðó là thứ lớp tất yếu. Không vật nào là không từ vị lai mà đến. Nhưng cũng có vật vì bị thiếu duyên, nó phải dừng lại ở vị lai, không thể sanh đến hiện tại. Nếu vĩnh viễn thiếu duyên thì nó vĩnh viễn ở vị lai, hoàn toàn không sanh khởi. Không sanh khởi tức không có, đồng nghĩa với cái đã sanh khởi mà bị diệt đi.

Pháp không sanh như bị diệt này đạt được không phải bằng trí tuệ giản trạch, nên được gọi "phi trạch diệt". Nó đã vĩnh viễn không sanh thì cũng vĩnh viễn không diệt. Pháp không sanh không diệt chính là tương phản với pháp hữu vi có sanh có diệt nên gọi là vô vi. Vì thế, tụng nói: "Rốt ráo làm ngăn ngại các pháp sẽ sanh, nên gọi là phi trạch diệt".
(Thích Thiện Siêu).
==================
Nguồn trích dẫn tài liệu:
daicuongveluancauxa1294132769.jpg
Từ Ðàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Học viện Phật giáo Việt <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3407_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark


 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
II. PHẦN BIỆT THÍCH
Sau phần tổng tiêu đại cương ở trên, cần có phần biệt thích. Phần biệt thích này lấy phẩm Giới làm đầu, và các phẩm kể tiếp.

* TIẾT I: DANH VÀ THỂ CỦA PHÁP HỮU VI

Pháp hữu vi lấy gì làm thể? Và những dị danh của nó là gì? Tụng đá
<CENTER><TABLE border=0 cellSpacing=0 borderColor=#034400 cellPadding=0 width=500>
<TBODY><TR><TD height="50%" vAlign=center width="50%">
*Nguyên văn:
Hựu chư hữu vi pháp
Vị sắc đẳng ngũ uẩn
Diệc thế lộ, ngôn y
Hữu ly, hữu sự đẳng. (VI)


</TD>
<TD height="50%" vAlign=center width="50%">
*Dịch nghĩa:
Lại nữa các pháp hữu vi,
Là năm uẩn, gồm sắc uẩn ...
Cũng còn gọi là thế lộ,
Ngôn y, hữu ly, hữu sự...


</TD>

</TR>



</TABLE></CENTER>Trong tụng văn này hai câu đầu nêu thể của pháp hữu vi, hai câu sau đề cập các dị danh của nó.
Thể của pháp hữu vi chính là năm uẩn (Skandhapancakam) sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong 75 pháp, năm uẩn bao hàm hết 72 pháp, trừ ba vô vi, đó là:
1. Sắc uẩn, 11 pháp (5 căn, 5 cảnh và vô biểu sắc)
2. Thọ uẩn, 1 pháp là hai tâm sở thọ và tưởng
3. Tưởng uẩn, 1 pháp trong 46 tâm sở.
4. Hành uẩn, 58 pháp (44 tâm sở và 14 pháp bất tương ưng hành).
5.Thức uẩn, 1 pháp, tức tâm vương.

Chữ vi (Krtà) trong hữu vi (Samskrtà) có nghĩa là tạo tác. Pháp do các duyên tạo tác mà có gọi là hữu vi. Nhưng trong ba đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai, các pháp quá khứ và hiện tại, do các duyên tạo tác mà có, nên gọi là hữu vi đã đành. Còn các pháp ở vị lai chưa có sự tạo tác, sao cũng gọi là hữu vi? VÌ những pháp ở vị lai đồng loại với các pháp trong quá khứ và hiện tại, nên cũng được gọi là hữu vi. Như gỗ bị lửa đốt thì gọi là củi, còn những cỏ cây chưa bị lửa đốt nhưng vì đồng một loại với thứ đã bị đốt nên cũng được gọi là củi.

Pháp hữu vi còn có các dị danh dưới đây:

1.Thế lộ (Adhvà): Theo văn trường hàng, có hai cách giải thích:
-Thế là tam thế, lộ là chỗ dựa, đường đi. Các pháp hữu vi là cứ điểm chỗ dựa cho ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đi qua. Ðây là giải thích tập hợp danh từ theo luật Y chủ thích(Tat-purusa).
Trong Câu xá luận ký của ngài Phổ Quang có hai lối giải thích tập hợp danh từ này, theo luật Hữu tài thích và luật Y chủ thích. Câu-xá Luận Sớ của Pháp Bảo thì theo luật y chủ thích.Ở đây dùng luật Y chủ thích của ngài Phổ Quang.
-Thế, chỉ cho các pháp hữu vi đều bị hoại diệt, lộ, là nó làm cứ điểm cho luật vô thường. Vậy, thế tức lộ. Ðây là giải thích tập hợp danh theo luật Trì nghiệp thích (Karma-dhàraya). Câu xá luận sớ của Pháp Bảo theo Y chủ thích. Ở đây theo cách giải thích của Câu xá luận ký.

2. Ngôn y (Kàthàvastu) theo giải thích trong văn trường hàng:

Ngôn là ngôn ngữ. Thể của nó là âm thanh, chỗ dựa của nó là danh và nghĩa. Theo đó, danh là khả năng diễn tả, nghĩa là cái được diễn tả. Cả hai đều là cứ điểm cho âm thanh và ngôn ngữ dựa vào. Bởi vì các pháp hữu vi cùng với danh và nghĩa trên đây cũng hiện hành trong ba thời gian, nên được gọi là ngôn y. Như nói: Tùng, trúc, thì danh với khả năng diễn tả và thể nghĩa được diễn tả của chúng đều có sanh diệt, biến ho?i và cũng hiện hành trong ba thời gian, nên gọi là hữu vi.

Pháp vô vi mặc dù cũng có danh để diễn tả, nhưng thể của nó không có sanh diệt như danh. Như nói: Trạch diệt vô vi, thì cái danh xưng để diễn tả là pháp hữu vi có sanh diệt, nhưng diệt lý được diễn tả trong đó thì thường trú bất biến, nên không thuộc về pháp hữu vi như danh xưng của nó. Vì thế, ba chữ danh câu nghĩa trong văn trường hàng cũng có để giải thích theo hai cách: -Danh và nghĩa kia nói lên bản thể mà ngôn ngữ y cứ.
- Nghĩa và danh kia là để tách biệt với nghĩa trong pháp vô vi, không đồng tính chất với danh.


3. Hữu ly (Sanihsàra): Ly là vĩnh ly tức Niết-bàn.Tất cả các pháp hữu vi đều có tính chất vĩnh ly đó, nên gọi là hưũ ly. Như có của cải thì gọi là hữu tài.


4. Hữu sự (Savastu): Sự là nguyên nhân. Tất cả các pháp hữu vi đều có nguyên nhân để sinh ra, do đó chúng được gọi là hữu sự.
Nói đẳng, tức vân vân, vì pháp hữu vi còn có nhiều biệt danh khác nữa, như hữu quả, v.v...

* TIẾT 2: DỊ DANH CỦA HỮU LẬU
Từ hữu lậu đã giải thích trước kia, còn dị danh của là nó là gì? Tụng đáp:


* Nguyên văn:
Hữu lậu danh thủ uẩn
Diệc thuyết vi hữu tránh.
Cập khổ tập thế gian,
Kiến xứ, tam hữu đẳng<SUP>. (VII)</SUP>
* Dịch nghĩa:
Hữu lậu còn có tên khác là thủ uẩn, cũng gọi là hữu tránh, và khổ tập thế gian, kiến xứ, tam hữu,v.v...


* Giải thích:
Thủ uẩn (Upàdàna-skandha): Thủ (Upàdàna), tức phiền não, vì phiền não là công năng mê vọng chấp thủ trong ba cõi sanh tử. Thủ uẩn, theo văn trường hàng có ba cách giải thích: Vì uẩn do chấp thủ mà sanh, vì hệ thuộc nơi thủ, và vì có công năng sanh ra thủ, nên được gọi là thủ uẩn.


Hữu tránh (Saragà): Tránh tức phiền não. Phiền não quấy động thiện căn, gây tổn hại cho mình và người. Phiền não cùng các pháp hữu lậu khác tác động hổ tương để tăng trưởng nên gọi là hữu tránh.


Khổ tập thế gian (Dhukkam-samudaya-loka): Khổ là quả của mê vọng. Tập là nhân của mê vọng. Cả hai đều là pháp hữu lậu. Ðã là pháp hữu lậu thì không thoát khỏi lậu thiên lưu dời đổi qua bốn tướng trạng: Sinh, trụ, dị, diệt. Các pháp này là đối tượng đối trị của Thánh đạo vô lậu nên gọi là thế gian.


Kiến xứ (Drstisthana): là môi trường cho sự thủ trước của tri kiến. Kiến có nghĩa là suy cầu theo sự thúc đẩy của ác tuệ tà kiến, gồm có thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.

Thân thể của chúng sanh vốn do hai yếu tố tâm và vật tụ hợp mà thành, và gọi đó là "năm uẩn hòa hợp". Ðối với thân do ngũ uẩn cấu thành ấy, mê chấp cho rằng có cái ngã thường hằng, chủ tể. Ðó gọi là thân kiến. Từ thân kiến sinh ra thiên chấp cho rằng con người sau khi chết hoặc mất hẳn, hoặc còn mãi, như vậy gọi là biên kiến. Do nhận thức sai lầm mà phủ định luật nhân quả, đó gọi là tà kiến. Cũng do nhận thức sai lầm mà chấp rằng ba loại kiến trên là đúng, là thật, là hơn hết, như vậy gọi là kiến thủ kiến. Do nhận thức sai lầm mà đối với cái không phải nhân cho là nhân, không phải đạo cho là đạo, tà giới của ngoại đạo mà cho là chánh giới, đó là giới thủ kiến.

Tam hữu (Bhava): dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu. Pháp hữu lậu là nhân của ba cõi, là điểm tựa của chúng, và không vượt được ra ngoài chúng.


Ðẳng: Vân vân, chỉ cho các dị danh khác nữa của hữu lậu, như hữu nhiễm,v.v...


* TIẾT 3: ÐOẠN 1: GIẢI THÍCH SẮC UẨN
Năm uẩn (sắc, thọ...) đã là pháp hữu vi. Như vậy, sắc uẩn gồm những gì? Tụng đáp:

* Nguyên văn:
Sắc giả duy ngũ căn
Ngũ cảnh cập vô biểu<SUP>. </SUP>(VIII)

* Dịch nghĩa:
Sắc gồm năm căn, năm cảnh, và vô biểu. Về vô biểu sắc tướng trạng của nó như thế nào?


Tụng đáp:
* Nguyên văn:
Loạn tâm vô tâm đẳng
Tùy lưu, tịnh bất tịnh.
Ðại chúng sở tạo tánh
Do thử thuyết vô biểu<SUP>. </SUP>(IX)
* Dịch nghĩa:
Loạn tâm, vô tâm,v.v...tùy lưu, tịnh và bất tịnh, có tánh chất là do đại chủng tạo thành nên gọi là vô biểu.
Trong bài tụng này, câu đầu chỉ vị trí của vô biểu. Tùy lưu (anubandha) chỉ tướng trạng của vô biểu. Tịnh và bất tịnh chỉ tánh chất của vô biểu. Câu thứ ba nói cái nguyên nhân của vô biểu để tránh sự lầm lẫn. Câu thứ tư là câu kết, gọi vô biểu sắc là một loại trong sắc pháp, nhưng không phải là vật cụ thể như năm căn hay năm cảnh.

Vô biểu sắc: (Avijnatirupa) là sắc pháp không biểu thị cho người khác thấy, trái với loại sắc pháp có biểu thị thấy được. Lúc chúng ta cử động thân thể, nói năng, làm việc thiện hay ác, thì đối với kẽ khác, có sự biểu thị cụ thể, khiến họ biết đó là làm thiện hay ác.

Sự biểu thị cụ thể đó gọi là biểu sắc hay biểu nghiệp. Nhưng sự phát hiện của biểu nghiệp thiện hay ác ấy hoàn toàn nằm trong định luật nhân quả. Bởi lẽ thấy rõ nguyên nhân thế nào, tương lai chiêu cảm kết quả sẽ như thế ấy. Do lẽ đó, có sự kích động trong tâm của mình. Nguyên nhân kích động này không hình tướng, không biểu thị cho người khác thấy được, gọi là vô biểu sắc. Thể của vô biểu sắc không phải do tổng hợp các cực vi, mà chỉ do động tác của thân thể và sự phát động của ngôn ngữ để kích thích phát khởi. Vì tùy theo thân thể và ngôn ngữ, khả năng phát động tạo thành ra nó là vật chất, nên nó được gọi là sắc. Vả lại nếu căn cứ vào lẽ vô biểu sắc là sắc không chuyển động lệ thuộc theo tâm, thì quả thật vô biểu sắc ấy nương vào bốn đại chủng mà có. Vì nương vào bốn đại chủng nên gọi là sắc.

Lại nữa, vô biểu sắc có nhiều loại, như luật nghi vô biểu, bất luật nghi vô biểu, phi luật nghi phi bất luật nghi vô biểu.
(Thích Thiện Siêu).
==================
Nguồn trích dẫn tài liệu:
daicuongveluancauxa1294132769.jpg
Từ Ðàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
ĐẠI CƯƠNG VỀ LUẬN CÂU XÁ
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Học viện Phật giáo Việt <?XML:NAMESPACE PREFIX = ST1 /><ST1:pLACE w:st="on"><ST1:COUNTRY-REGION w:st="on">Nam</ST1:COUNTRY-REGION></ST1:pLACE> tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3407_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark


[MOVLLEFT]Xem tiếp:luật nghi vô biểu, bất luật nghi vô biểu, phi luật nghi phi bất luật nghi vô biểu. [/MOVLLEFT]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên