Muốn nói giới nên nói như vầy:
Tỳ-kheo nào, hoặc vật báu, hoặc cầm đồ trang sức quý báu tự tay cầm nắm, hay sai người cầm nắm, ba-dật-đề.
Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy. Bấy giờ trong thành Xá-vệ, theo pháp thường của thế tục, ngày lễ hội của phụ nữ, Tỳ-xá-khư Mẫu [434] tự trang điểm anh lạc, đi ngang qua tịnh xá Kỳ-hoàn. Lòng kính tin của bà phát khởi, bà nghĩ: «Ta cần gì đến nơi lễ hội của người nữ. Nay ta nên đến chỗ đức Thế tôn để lễ bái thăm hỏi Ngài.»
Tỳ-xá-khư Mẫu liền quay trở lại, vào tịnh xá Kỳ-hoàn. Bà lại tự nghĩ: «Ta không nên mang những đồ trang sức bằng anh lạc này đến gặp đức Thế tôn. Nay ta nên cởi ra, sau đó mới đến lễ bái Ngài.»
Bấy giờ, bà đem đến nơi gốc cây cởi y báu và chuổi anh lạc, gom lại thành một đống lớn. Rồi bà đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, và đứng qua một bên. Bấy giờ, đức Thế tôn phương tiện nói pháp, khai hóa hoan hỷ. Tỳ-xá-khư Mẫu nghe đức Như Lai nói pháp rồi sanh lòng hoan hỷ kính lễ dưới chân Phật, rồi nhiễu quanh [692a1] và cáo lui.
Bấy giờ, tâm bà còn để nơi pháp, đi thẳng ra khỏi cửa Kỳ-hoàn, quên đến lấy những đồ trang sức y báu và chuỗi anh lạc. Về đến nhà, bà mới nhớ, bèn nghĩ: «Nếu ta sai người đến lấy, sợ không có thì có thể làm nhục các tỳ-kheo.» Do vậy bà không sai sứ đến lấy.
Có một tỳ-kheo thấy Tỳ-xá-khư Mẫu khi vào Kỳ-hoàn thì đến nơi gốc cây, nhưng khi bà ra về thì không đến nơi chỗ đó. Vị tỳ-kheo kia liền đến chỗ gốc cây, thấy những đồ trang sức, chuỗi anh lạc, y báu tập trung một chỗ, tâm sanh nghi, không dám lấy, bèn nghĩ: «Đức Thế tôn chế giới: tỳ-kheo nào tự cầm nắm vật báu, hoặc đồ trang sức quý báu, hay bảo người khác cầm nắm, Ba-dật-đề.» Tỳ-kheo kia đến bạch Phật, đức Phật bảo:
«Từ này về sau, cho phép trong Tăng-già-lam , thấy có vật bỏ quên, để khỏi mất, phải lấy cất.»
Từ nay nên nói giới như vầy:
Tỳ-kheo nào, tự cầm nắm kim bảo, hoặc đồ trang sức quý báu,[435] hay bảo người cầm nắm, ba-dật-đề. Trừ trong tăng-già-lam.
Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy. Khi ấy, có số đông tỳ-kheo từ nước Câu-tát-la, trên đường đi, ghé vào một thôn không có trú xứ, hỏi thăm rằng:
«Nơi đây chỗ nào có phòng xá trống, có thể tạm nghỉ lại đêm ?»
Những người ở đó nói:
«Nơi đây có nhà người thợ kim hoàn,[436] có phòng xá trống. Có thể đến đó nghỉ được.»
Các tỳ-kheo đến nơi nhà thợ kim hoàn, nói rằng:
«Chúng tôi muốn xin nghỉ nhờ một đêm, có được không ?»
Thợ kim hoàn trả lời:
«Được !»
Các tỳ-kheo vào nhà trải nệm cỏ an tọa, chánh thân, chánh ý, buộc niệm trước mặt. Hôm ấy, người thợ kim hoàn có những thứ vàng đã chế biến, có vàng chưa chế biến, có thứ đồ vàng mới chế biến một phần; có đồ bằng bạc đã chế biến, có thứ bạc chưa chế biến, có đồ bạc chế biến chưa thành, để trong nhà đó. Tối đó, các tỳ-kheo vì bảo vệ những thứ đó nên suốt đêm không ngủ, vì sợ kẻ trộm đến lấy. Sáng ngày, thợ kim hoàn đi vào nhà, hỏi thăm các tỳ-kheo:
«Thưa quý Ngài, đêm qua, ngủ có được ngon giấc không ?»
Các tỳ-kheo trả lời:
«Ngủ không được.»
Ông thợ vàng liền hỏi:
«Sao ngủ không được?»
Các tỳ-kheo trả lời:
«Ông để một số vật quý ở trong nhà. Chúng tôi suốt đêm lo giữ hộ nên không ngủ được.»
Bấy giờ, các tỳ-kheo đem nhơn duyên này bạch, đức Thế tôn bảo rằng:
«Từ nay về sau, cho phép các tỳ-kheo, khi tạm nghỉ đêm nơi nhà người khác, trong nhà đó, nếu có vật quý, để khỏi mất, nên lấy cất.»
Từ nay nên nói giới như vầy:
Tỳ-kheo nào, tự mình cầm lấy bảo vật, hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người khác cầm nắm, ba-dật-đề. Trừ trong tăng-già-lam, hay chỗ ký túc. Nếu trong tăng-già-lam, hoặc chỗ ký túc, mà tự mình cầm nắm bảo vật, hay đồ trang sức bằng bảo vật, hoặc bảo người khác cầm, nên nghĩ như vầy: ‹Nếu sở hữu chủ nhận ra, sẽ nhận lại.› Chỉ với nhân duyên như vậy chứ không gì khác.