ha ha ha [smile]
Nhân Thừa, Thiên Thừa ở cõi Cực Lạc không giống với Nhân Thừa, Thiên Thừa ở cõi ta bà này như tôi đã phân tích. Nhân, thiên thừa ở cõi này vẫn ở trong luân hồi sanh tử; còn Nhân Thiên Thừa ở Cực Lạc sẽ vào Thánh vị giải thoát ngay trong một đời tại đó. - Vừa - - Nghĩ
*** tới đây ... cũng khá rõ ràng là VỪA - - NGHĨ đụng đâu bịa đó .. cả NGŨ THỪA TỀ NHẬP TỊNH ĐỘ mà cũng không hiểu .. mà cứ huyên hoang 48 đại nguyện A DI ĐÀ [smile]
A ha hahahahah ... đúng là VỪA - - NGHĨ khoái bịa chuyện ... nhưng lại không hiểu TỊNH ĐỘ cũng có "TƯƠNG ƯNG NGŨ THỪA" tâm [smile]
--> nhưng đó là 1 nguyên lý quan trọng trong Phật đạo mà VỪA - - NGHĨ vốn không hiểu [smile]
CHÂN THẬT BÁO [smile] [xmile]
bởi vì nếu không có nguyên lý nào .. sẽ thiếu đi sự xuyên suốt giữa các CÕI của TÂM ĐẠO cũng là PHẬT ĐẠO [smile]
VỪA - - NGHĨ muốn học hông ? ... chỉ cần VỪA - - NGHĨ chịu thua ... tui chỉ liền [smile]
--> chứ BỊA CHUYỆN ĐÍA ĐẠO .. .vốn là 1 TỘI ÁC {smile] ... .giải thoát không phải là 1 danh từ đơn giản .. nói ở mức độ "TÂM ĐỊA" .. chân thật báo thì thiệt nó vốn là phạm trù học hỏi bao la [smile] .. và rộng lớn ... [smile]
ờ mà đúng hông ? [smile]
Vẫn chưa hiểu rồi.
+Tịnh Độ có hàng tỷ cõi, nói ngũ thừa tề nhập Tịnh Độ chung chung như thế thì không xong rồi. Có cõi có hàng nhân thiên (chưa hết luân hồi sanh tử) nhưng có những cõi không có các hạng đó mà chỉ gồm các bậc Thánh, có cõi lại chỉ có hàng Bồ Tát Thánh, có cõi chỉ có các Đại Bồ Tát.
+ Riêng nói về Cực Lạc, Phật A Di Đà tiếp dẫn tất cả những ai có lòng hướng Phật cầu pháp giải thoát, tin tưởng 48 đại nguyện và khao khát muốn vãng sanh Cực Lạc.
+ Nguyên lý chung: tùy theo tâm niệm sẽ thâm nhập cảnh giới tương ứng. Như kẻ giữ lấy tâm niệm ác thì vào ba đường ác, ................. Cái này nói quá nhiều tôi không muốn thêm. Xin phép mượn lời Phật:
(Trích kinh niệm Phật Ba La Mật-niệm Phật tam muội)
Nầy cư sĩ Diệu-Nguyệt, hãy chăm chú lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói:
- "Diệu-Nguyệt, tất cả các loại chúng sanh chết ở nơi đây, rồi sanh sang nơi kia, sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi sắp mạng chung thì các loại nghiệp lành dữ trong một đời hiển hiện rõ ràng. Chúng sanh nào sống thuần bằng tư tưởng, thì bay lên hóa sanh nơi các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Chúng sanh nào tình ít, tưởng nhiều thì vào hàng phi tiên, bay đi nhẹ nhàng nhưng không được xa bằng hạng thuần tưởng.
Chúng sanh nào tình và tưởng bằng nhau thì sẽ phát sanh vào cõi người. Bởi vì sao như vậy ? Bởi tưởng là thông sáng, tình là mê tối. Nếu tình và tưởng ngang bằng nhau thì không bay lên và cũng không đi xuống.
Chúng sanh nào tình nhiều, tưởng ít thì sẽ lạc vào bàng-sanh, nhẹ thì làm chim bay, nặng thì làm thú chạy.
Chúng sanh nào có bảy phần tình và ba phần tưởng, sẽ bị đọa làm thân ngạ quỷ, thường chịu nóng bức, đói khát trải qua trăm ngàn kiếp dài lâu.
Chúng sanh nào có chín phần tình và một phần tưởng, thì sẽ đọa vào địa ngục. Nhẹ thì vào nơi địa ngục hữu gián, nặng thì sẽ đọa vào ngục Đại A-tỳ. Nếu ngoài cái tâm thuần tình ấy, còn kiêm thêm các trọng tội như hủy giới cấm của Phật, khinh báng Đại-thừa, thuyết pháp sai lầm, đắm tham của tín thí, lạm thọ sự cung kính, và phạm vào thập ác ngũ ngịch, thì sẽ chiêu cảm quả báo luân chuyển sanh về các ngục Vô-gián ở khắp mười phương.
Nầy Diệu-Nguyệt cư sĩ ! Trong thời kỳ Chánh pháp diệt tận, chúng sanh nơi cõi Diêm-phù-đề tình nhiều tưởng ít, tâm địa bỏn sẻn, tham lam ghét ganh, các căn lành phước báo kém cỏi. Lúc sanh tiền thọ nhận đủ loại nghiệp dữ, sau khi mạng chung sẽ chịu các quả báo đau khổ trong ba nẻo ác dữ với hạn kỳ lâu dài. Vì thế mà chư Phật khắp mười phương xót thương vô cùng, luôn luôn tìm cách cứu trừ khổ não cho các hạng chúng sanh kia.
Những ai toàn tâm toàn ý nhiếp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật thì có đủ cả "Sự thuần tưởng", "phước huệ", "tịnh nguyện". Kể cả những người mang nhiều tội lỗi nhưng nếu biêt ăn năn, cải sửa và cuối cùng đủ 3 thứ Tín-Nguyện-Hạnh đều vãng sanh không sót một ai.
(Trích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm thượng sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy dầu chẳng hủy báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa mà tạo nhiều việc ác không có tàm quí. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ kinh Đại thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh xưng Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trù năm mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc ấy Phật A Di Đà liền sai Hóa Phật, hóa Quan Thế Âm, hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật các tội tiêu diệt ta đến rước ngươi. Nghe nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mang chung ngồi bửu liên hoa theo sau Hoá Phật sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới. Qua bốn mươi chín ngày hoa sen báu mới nở. Đương lúc hoa nở, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh đứng trước người ấy, vì người ấy nói thậm thâm Thập nhị bộ kinh. Người ấy nghe rồi tin hiểu phát vô thượng đạo tâm. Qua mưo82i tiểu kiếp đủ bá pháp minh môn được nhập bực Sơ địa. Đây gọi là người hạ phẩm thượng sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm trung sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh hủy phạm ngũ giới bát giới và cụ túc giới. Người ngu nầy trộm của vật Tăng kỳ, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tâm quý, dùng các ác nghiệp để tụ trang nghiêm. Người tộu như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục, lúc lâm chung các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức vì lòng đại từ bi vì người ấy mà khen nói thập lục oai đức của đức Phật A Di Đà, rộng khen quang minh thần lực của đức Phật A Di Đà, cũng tán dương giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh từ. Lửa mạnh địa ngục biến thành gió mát thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có Hoá Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy. Trong khoảng mộ niệm liền được sanh trong hoa sen nơi ao báu Cực Lạc thế giới. Hoa sáu kiếp hoa sen mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng phạm âm thanh an úy người ấy, vì người ấy mà nói kinh điển Đại thừa thậm thâm. Nghe pháp ấy rồi, người ấy liền phát tâm vô thượng đạo. Đây gọi là người hạ phẩm trung sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.
Ở ba hạng này, phải gặp thiện tri thức, biết hồi đầu chuyển ý thì mới được. Nhưng rất tiếc là ít khi họ có thiện tri thức vì lúc sống chỉ hay kết bạn với ác tri thức, đi theo cái ác,.... nên người tốt cũng không gần họ. Chỉ trừ khi là người có duyên sâu đậm với họ mà rộng lòng đến cứu vớt.
Tuy nhiên hễ có tâm ý thì 10 câu Phật hiệu đã giúp họ vãng sanh, mặc dù trong đời sống họ làm đầy rẫy các việc ác. Từ đó mới thấy sức mạnh của 48 đại nguyện thật lớn. Trong đó, ta thấy sức từ bi của Phật khi Ngài phát nguyện. Chỉ cần xưng tán danh hiệu Ngài mà được tiếp dẫn. Như trong hạ phẩm hạ sanh có đoạn "Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật", thì pháp vi diệu ở đây chính là nói về thật tướng các pháp, Phật Tánh,... thiên về tự giác tự ngộ, người ấy tin nhận nhưng không thể quán niệm thực hành do khổ bức bách, thế nên cuối cùng đơn giản nhất là xưng tán danh hiệu Phật. Cho nên các vị đi trước đều khuyên xưng tán danh hiệu Phật, vừa dễ vừa tương ưng với đại nguyện của Phật A Di Đà.