* Tài liệu về Phi tưởng phi phi tưởng định.
Kính tiền bối bangtam và cô Diệu Đức. Trò xin cung cấp thông tin về Định phi tưởng phi phi tưởng (sưu tầm trong ĐẠI-TRÍ ĐỘ-LUẬN) :
LUẬN:
....... Hỏi: Trong A Tỳ Đàm có nói "Ở cõi Dục, khi nhất tâm vào Sơ Thiền có cả Giác và Quán. Sao nay lại phân biệt có thô có tế ?
....... Đáp: Tuy ở nơi nhất tâm, mà vẫn có 2 hiện tướng khác nhau. Khi Giác thì không có Quán; mà Quán thì không có Giác. Khi thị hiện tướng Giác, Khi thị hiện tướng Quán. Như vậy gọi là Nhất tâm mà có 2 tướng. Tùy theo chỗ chiếu dụng mà đặt tên khác nhau. Phật dạy:"Đoạn một pháp (trong 2 pháp) là chứng quả A- la- hán". Ở đây Phật muốn nói đoạn 5 phần Hạ kiết sử (tham, sân, si, mạn, nghi) là chứng quả A- la- hán. Vì sao ? Vì người đời phần nhiều bị xan tham trói buộc; khi đoạn được "tham tâm", thì tất cả "nhiễm tâm" khác cũng dần dần được đoạn hết.
....... Do Giác Quán mà sanh hỷ lạc; thế nhưng Hỷ Lạc cũng làm động tâm, trở ngại cho Định, cho nên hành giả lại phải xả Giác Quán để nhiếp nội tâm. Khi Giác Quán đã trừ, nội tâm đã được thanh tịnh, thì được tâm Định, nhiếp vào một chỗ. Định ấy sanh hỷ lạc, vào được Đệ Nhị Thiền.
....... Vào được Đệ Nhị Thiền là thiền giả đã trừ được Giác Quán, đã được nội tâm thanh tịnh, vào được tâm Thiền Định, buộc tâm vào một chỗ. Nhưng rồi Thiền giả lại quán biết Hỷ Lạc cũng chỉ là đối đãi, còn làm cho tâm động. Do Thọ mới có Hỷ, hết Hỷ sẽ sanh Ưu. Thiền giả xả ly tâm hỷ, được nhất tâm Lạc, vào Đệ Tam Thiền. Vì Thiền giả đã xả tâm Hỷ nên thiền giả vào Đệ Tam thiền, thọ toàn thân Lạc.
....... Các bậc thánh ở nơi Đệ tam Thiền được tự tại, hoặc trú lạc, hoặc xả lạc. Vì sao ? Vì các ngài chẳng có ái trước Lạc vậy.
....... Thiền giả ở Đệ Tam Thiền, lại quán Lạc cũng là lầm lỗi nên tu hạnh thanh tịnh, không khổ, không lạc vào Đệ Tứ Thiền.
....... Vào Đệ Tứ Thiền, thiền giả được Bất Động Huệ.
....... Đến đây, thiền giả quán hết thảy các tướng, không khởi niệm phân biệt tướng, diệt hết thảy các tướng Hữu thì vào được Vô Biên Hư Không Xứ Định.
....... Vào định này, thiền giả lại quán "sắc thân thô trọng do duyên hòa hợp tạo thành". Đã có thân thì có Khổ, nên lại quán thân như hư Không. Khi đã được thân nhẹ nhàng rồi, thiền giả thấy 4 Đại ở bên trong thân và ở bên ngoài đều như nhau cả. Do vậy mà thấy vô lượng vô biên hư không, cả trong lẫn ngoài, khiến tâm nhẹ nhàng thanh thoát, nên được gọi là Vô Biên Hư Không Xứ Định. Ví như chim bị nhốt trong lồng, khi được thả tự do, thư thái, bay vút lên không trung.
....... Thiền giả lại duyên Thọ, tưởng, Hành, Thức xem như bệnh hoạn, quán Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, rồi xả Hư Không Vô Biên Xứ Định để duyên hiện tại, quá khứ, vị lai, duyên thức xứ ở nhiều đời. Rồi thiền giả lại thấy "Thức Xứ" cũng chẳng có biên giới, vào được Vô biên Thức Xứ Định.
....... Dùng Vô biên Thức Xứ làm duyên khởi, thiền giả lại quán Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều như bệnh, như mục nhọt, quán Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã là hư dối, quán Thức cũng là như vậy. Rồi thiền giả phá được "Thức tướng", tán thán "Vô sở hữu Xứ", vào được Vô Sở Hữu Xứ Định.
....... Ở nơi Vô Sở Hữu Xứ, thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thấy rõ thân là Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, do duyên hòa hợp mà thành, nên xả Vô Sở Hữu Xứ Định, vào được Vô Tưởng Định.
....... Vào được Vô tưởng Định rồi, là Thiền giả được "Đệ nhất Diệu Xứ" là Phi Hữu Tưởng Phi Vô tưởng Xứ Định.
....... Cũng theo Luận dạy. Hành giả phải xả bỏ Phi Hữu Tưởng Phi Vô tưởng Xứ Định,tiến nhập vào Diệt tận định, diệt thọ tưởng định, thì vào Chánh vị A la hán, từ đây mới không còn bị lạc vào các cảnh giới khác. Đây là Niết Bàn Hữu dư y.