Thắc mắc Trường sinh- Bất tử.

Hoàng

Registered
Phật tử
Tham gia
23 Thg 12 2023
Bài viết
133
Điểm tương tác
109
Điểm
43
Trường sinh- Bất tử. Bài 8 .- Vô Sanh- Bất Tử.

Kính các Bạn.

Ở Kinh Đại Niết Bàn, phẩm Trường Thọ. Có vị Bồ tát họ Đại Ca Diếp nêu lên vấn đề Sống lâu (trường thọ) qua bài kệ:

Vân hà đắc trường thọ,
Kim cang bất hoại thân.
Phục dĩ hà nhân duyên
Đắc đại kiên cố lực.

Nghĩa:

Làm sao được trường thọ ?
Thân Kim Cang không hoại ?
Nên tạo nhân duyên gì
Để được sức kiên cố ? (hết trích)

Kính các Bạn.
  • Các Pháp Hữu Vi. có Sanh thì có Tử.
  • Chỉ có Pháp Vô Vi: Vô Sanh nên Bất Tử.- Đây là Chân Lý.

* Bởi thế.- Vô Sanh- Bất Tử. Chỉ có ở Pháp Vô Vi.

Thế nào là Vô Vi ?

Thế nào là Vô Sanh ?

Thế nào là Trường Thọ Bất Tử ?

Mời các Bạn.- Chúng ta hãy cùng với các Bạn vừa qua (như ở trên) thử tìm hiểu những vấn đề trên hầu tìm Chân thật nghĩa .- Ở phẩm Trường Thọ- Kinh. Đại Bát Niết Bàn.
5.jpg


  • Vô Vi: Trạng thái không sinh, không diệt, không biến đổi, không chịu ảnh hưởng của các quy luật thế giới hiện tượng. Có hai cấp độ: Vô Vi tuyệt đối là Niết Bàn, Vô Vi tương đối là giác ngộ.
  • Vô Vi tuyệt đối: là trạng thái bất sinh bất diệt, không có khởi đầu và không có kết thúc.
  • Vô Vi tuyệt đối: là trạng thái vượt thoát khỏi mọi quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử.
  • Vô Vi tuyệt đối: là trạng thái giác ngộ hoàn toàn, giải thoát khỏi mọi khổ đau.
  • Vô Vi tương đối: Đây là trạng thái mà chúng sinh có thể đạt được trong quá trình tu tập, giác ngộ. Ở trạng thái này, chúng sinh đã đạt được sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của vạn vật, không còn bị ràng buộc bởi những suy nghĩ, cảm xúc tiêu cực, và có khả năng kiểm soát được tâm thức của mình.
  • Vô Sanh: Trạng thái không sinh, không có khởi đầu, không chịu ảnh hưởng của quy luật sinh tử.
  • Vô Sanh là trạng thái ngược lại với sinh.
  • Vô Sanh là trạng thái bất biến, không thay đổi.
  • Vô Sanh là trạng thái vĩnh hằng, không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc.
  • Trường Thọ Bất Tử là một trạng thái tâm linh, không phải là một trạng thái thể chất. Khi đạt được Trường Thọ Bất Tử, chúng sinh sẽ không còn bị ràng buộc bởi thân xác vật lý, nhưng vẫn có thể tồn tại và hoạt động trong thế giới tâm thức.
  • Trường Thọ Bất Tử là trạng thái vượt thoát khỏi quy luật sinh tử.
  • Trường Thọ Bất Tử là trạng thái đạt được Niết Bàn, giác ngộ hoàn toàn.
  • Trường Thọ Bất Tử là trạng thái được chư Phật và Bồ Tát chứng ngộ.
  • Để đạt được Trường Thọ Bất Tử, chúng sinh cần phải tu tập theo giáo pháp của Đức Phật một cách nghiêm túc và kiên trì. Đức Phật đã dạy rằng, muốn đạt được Trường Thọ Bất Tử, chúng sinh cần phải tích lũy công đức và trí tuệ. Những nghiệp nhân từ bi, trí tuệ, cứu khổ cứu nạn sẽ giúp chúng sinh tích lũy công đức, tạo ra năng lực để đạt được Trường Thọ Bất Tử.

Tóm lại, mục tiêu cuối cùng của người tu tập trong Phật giáo vẫn là đạt được Niết Bàn, trạng thái giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử, luân hồi. Khi đạt được Niết Bàn, chúng sinh sẽ có được trạng thái Trường Thọ Bất Tử, không còn bị ràng buộc bởi sinh tử, khổ đau.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
669
Điểm tương tác
610
Điểm
93
Tóm lại, mục tiêu cuối cùng của người tu tập trong Phật giáo vẫn là đạt được Niết Bàn, trạng thái giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử, luân hồi. Khi đạt được Niết Bàn, chúng sinh sẽ có được trạng thái Trường Thọ Bất Tử, không còn bị ràng buộc bởi sinh tử, khổ đau.
IMG_1703632061244_1703635235111.jpg
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,664
Điểm tương tác
715
Điểm
113
View attachment 8445

  • Vô Vi: Trạng thái không sinh, không diệt, không biến đổi, không chịu ảnh hưởng của các quy luật thế giới hiện tượng. Có hai cấp độ: Vô Vi tuyệt đối là Niết Bàn, Vô Vi tương đối là giác ngộ.
  • Vô Vi tuyệt đối: là trạng thái bất sinh bất diệt, không có khởi đầu và không có kết thúc.
  • Vô Vi tuyệt đối: là trạng thái vượt thoát khỏi mọi quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử.
  • Vô Vi tuyệt đối: là trạng thái giác ngộ hoàn toàn, giải thoát khỏi mọi khổ đau.
  • Vô Vi tương đối: Đây là trạng thái mà chúng sinh có thể đạt được trong quá trình tu tập, giác ngộ. Ở trạng thái này, chúng sinh đã đạt được sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của vạn vật, không còn bị ràng buộc bởi những suy nghĩ, cảm xúc tiêu cực, và có khả năng kiểm soát được tâm thức của mình.
  • Vô Sanh: Trạng thái không sinh, không có khởi đầu, không chịu ảnh hưởng của quy luật sinh tử.
  • Vô Sanh là trạng thái ngược lại với sinh.
  • Vô Sanh là trạng thái bất biến, không thay đổi.
  • Vô Sanh là trạng thái vĩnh hằng, không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc.
  • Trường Thọ Bất Tử là một trạng thái tâm linh, không phải là một trạng thái thể chất. Khi đạt được Trường Thọ Bất Tử, chúng sinh sẽ không còn bị ràng buộc bởi thân xác vật lý, nhưng vẫn có thể tồn tại và hoạt động trong thế giới tâm thức.
  • Trường Thọ Bất Tử là trạng thái vượt thoát khỏi quy luật sinh tử.
  • Trường Thọ Bất Tử là trạng thái đạt được Niết Bàn, giác ngộ hoàn toàn.
  • Trường Thọ Bất Tử là trạng thái được chư Phật và Bồ Tát chứng ngộ.
  • Để đạt được Trường Thọ Bất Tử, chúng sinh cần phải tu tập theo giáo pháp của Đức Phật một cách nghiêm túc và kiên trì. Đức Phật đã dạy rằng, muốn đạt được Trường Thọ Bất Tử, chúng sinh cần phải tích lũy công đức và trí tuệ. Những nghiệp nhân từ bi, trí tuệ, cứu khổ cứu nạn sẽ giúp chúng sinh tích lũy công đức, tạo ra năng lực để đạt được Trường Thọ Bất Tử.

Tóm lại, mục tiêu cuối cùng của người tu tập trong Phật giáo vẫn là đạt được Niết Bàn, trạng thái giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử, luân hồi. Khi đạt được Niết Bàn, chúng sinh sẽ có được trạng thái Trường Thọ Bất Tử, không còn bị ràng buộc bởi sinh tử, khổ đau.
Nhờ bạn liệt kê tất cả cụ thể:
- Liệt kê các thế giới hiện tượng?
- Liệt kê các trường hợp về vô vi?
Chẳng hạn, A LA HÁN quả của bậc Thanh Văn là vô vi hay không không? Thế giới Tịnh độ của chư Phật có phải vô vi hay không? Thế giới hiện tượng thì cụ thể là hiện tượng gì?
 

Hoàng

Registered
Phật tử
Tham gia
23 Thg 12 2023
Bài viết
133
Điểm tương tác
109
Điểm
43
- Liệt kê các thế giới hiện tượng?
Trong Phật giáo, thế giới hiện tượng là thế giới của vạn vật, sự vật, hiện tượng, được hình thành bởi nhân duyên. Thế giới hiện tượng luôn luôn biến đổi, vận động, sinh diệt, không có gì là cố định, vĩnh hằng.

Các thế giới hiện tượng trong Phật giáo được chia thành 6 cõi, bao gồm:

  • Cõi dục giới: Cõi của những chúng sinh có dục vọng, gồm 6 tầng trời dục giới và 3 đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
  • Cõi sắc giới: Cõi của những chúng sinh có sắc thân, gồm 16 tầng trời sắc giới.
  • Cõi vô sắc giới: Cõi của những chúng sinh không có sắc thân, gồm 4 tầng trời vô sắc giới.
Ngoài ra, trong Phật giáo cũng có khái niệm về thế giới tâm thức, là thế giới của những ý niệm, suy nghĩ, cảm xúc,... của chúng sinh. Thế giới tâm thức cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.

- Liệt kê các trường hợp về vô vi?
Trong Phật giáo, vô vi là trạng thái không sinh, không diệt, không biến đổi, không chịu ảnh hưởng của các quy luật thế giới hiện tượng. Có hai cấp độ vô vi: vô vi tuyệt đối và vô vi tương đối.
  • Vô vi tuyệt đối: Là trạng thái giác ngộ hoàn toàn, giải thoát khỏi mọi khổ đau. Vô vi tuyệt đối là trạng thái bất sinh bất diệt, không có khởi đầu và không có kết thúc. Vô vi tuyệt đối là trạng thái vượt thoát khỏi mọi quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử.
  • Vô vi tương đối: Là trạng thái mà chúng sinh có thể đạt được trong quá trình tu tập, giác ngộ. Ở trạng thái này, chúng sinh đã đạt được sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của vạn vật, không còn bị ràng buộc bởi những suy nghĩ, cảm xúc tiêu cực, và có khả năng kiểm soát được tâm thức của mình.
Các trường hợp về vô vi trong Phật giáo bao gồm:
  • Niết bàn: Là trạng thái giác ngộ hoàn toàn, giải thoát khỏi mọi khổ đau, sinh tử. Niết bàn là trạng thái vô vi tuyệt đối.
  • A la hán: Là quả vị cuối cùng của bậc Thanh Văn, là trạng thái chứng ngộ vô ngã, không còn bị ràng buộc bởi phiền não, khổ đau. A la hán là trạng thái vô vi tương đối.
  • Bồ tát: Là những chúng sinh đã phát tâm Bồ đề, nguyện cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau. Bồ tát có thể đạt đến trạng thái vô vi tuyệt đối, nhưng vẫn còn hiện hữu trong thế giới hiện tượng để tiếp tục cứu độ chúng sinh.
  • Chư Phật: Là những bậc giác ngộ hoàn toàn, đã đạt đến trạng thái Niết bàn tuyệt đối.

Chẳng hạn, A LA HÁN quả của bậc Thanh Văn là vô vi hay không ?
A la hán quả là trạng thái vô vi tương đối, là trạng thái giải thoát khỏi phiền não, khổ đau. Tuy nhiên, a la hán vẫn còn hiện hữu trong thế giới hiện tượng, vẫn còn bị ràng buộc bởi thân xác vật lý. Do đó, a la hán quả không phải là vô vi tuyệt đối.

Thế giới Tịnh độ của chư Phật có phải vô vi hay không?
Thế giới Tịnh độ của chư Phật là thế giới của giác ngộ, giải thoát. Thế giới Tịnh độ không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử. Do đó, thế giới Tịnh độ có thể nằm ngoài thế giới hiện tượng. Vì vậy, thế giới Tịnh độ là vô vi tuyệt đối.

Có bạn sẽ thắc mắc:
"Thế giới Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được mô tả là một thế giới thanh bình, an lạc, không có đau khổ. Thế giới này có ao sen, đất tạo bằng bảy báu, có nhiều loại cây cũng tạo bằng thất bảo. Chúng sinh ở cõi Tịnh độ có tuổi thọ vô lượng. Vậy thế giới Tịnh độ có phải là thế giới hiện tượng?"

Trả lời:
Theo cách hiểu thông thường, thế giới Tịnh độ là một thế giới vật chất, được tạo ra bởi các chất liệu quý giá như bảy báu. Thế giới này có cảnh vật tươi đẹp, thanh bình, không có đau khổ. Chúng sinh ở cõi Tịnh độ có thân thể vật lý, nhưng thân thể này không bị ràng buộc bởi các quy luật sinh tử. Tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Tịnh độ là vô lượng, nhưng không phải là trường thọ bất tử.

Theo cách hiểu này, thì thế giới Tịnh độ là một thế giới hiện tượng, nhưng là một thế giới hiện tượng mang tính siêu việt. Thế giới này không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng thông thường, bao gồm quy luật sinh tử.

Tuy nhiên, cũng có những cách hiểu khác về thế giới Tịnh độ. Theo một số cách hiểu, thế giới Tịnh độ không phải là một thế giới vật chất, mà là một thế giới tâm linh. Thế giới này tồn tại trong tâm thức của chúng sinh, không phải là một thế giới vật lý có thể nhìn thấy, chạm vào được.

Theo cách hiểu này, thì thế giới Tịnh độ không phải là một thế giới hiện tượng, mà là một thế giới vô vi.


Thế giới hiện tượng thì cụ thể là hiện tượng gì?
Thế giới hiện tượng là thế giới của vạn vật, sự vật, hiện tượng, được hình thành bởi nhân duyên. Thế giới hiện tượng luôn luôn biến đổi, vận động, sinh diệt, không có gì là cố định, vĩnh hằng.

Một số hiện tượng cụ thể trong thế giới hiện tượng bao gồm:
  • Các vật thể vật chất: Như núi sông, cây cối, nhà cửa,...
  • Các sinh vật: Như con người, động vật, thực vật,...
  • Các hiện tượng tự nhiên: Như mưa, nắng, gió, bão,...
  • Các hiện tượng tâm lý: Như suy nghĩ, cảm xúc, ý thức,...
  • Các hiện tượng xã hội: Như quan hệ giữa con người, văn hóa,...
  • Các hiện tượng tôn giáo: Như đức tin, tín ngưỡng, lễ nghi,...

Lý giải:
  • Các hiện tượng tâm lý: Là những hiện tượng xảy ra trong tâm thức của chúng sinh, bao gồm suy nghĩ, cảm xúc, ý thức,... Các hiện tượng tâm lý cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.
  • Các hiện tượng xã hội: Là những hiện tượng xảy ra trong xã hội loài người, bao gồm quan hệ giữa con người, văn hóa,... Các hiện tượng xã hội cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.
  • Các hiện tượng tôn giáo: Là những hiện tượng xảy ra trong đời sống tôn giáo, bao gồm đức tin, tín ngưỡng, lễ nghi,... Các hiện tượng tôn giáo cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.Thế giới hiện tượng thì cụ thể là hiện tượng gì?
  • "Tất cả các hiện tượng này đều được hình thành bởi nhân duyên, luôn luôn biến đổi, vận động, sinh diệt, không có gì là cố định, vĩnh hằng."
  • .........
(VQ sửa giúp Bạn Hoàng theo yêu cầu)
 
Last edited by a moderator:

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
669
Điểm tương tác
610
Điểm
93
Trong Phật giáo, thế giới hiện tượng là thế giới của vạn vật, sự vật, hiện tượng, được hình thành bởi nhân duyên. Thế giới hiện tượng luôn luôn biến đổi, vận động, sinh diệt, không có gì là cố định, vĩnh hằng.

Các thế giới hiện tượng trong Phật giáo được chia thành 6 cõi, bao gồm:

  • Cõi dục giới: Cõi của những chúng sinh có dục vọng, gồm 6 tầng trời dục giới và 3 đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
  • Cõi sắc giới: Cõi của những chúng sinh có sắc thân, gồm 16 tầng trời sắc giới.
  • Cõi vô sắc giới: Cõi của những chúng sinh không có sắc thân, gồm 4 tầng trời vô sắc giới.
Ngoài ra, trong Phật giáo cũng có khái niệm về thế giới tâm thức, là thế giới của những ý niệm, suy nghĩ, cảm xúc,... của chúng sinh. Thế giới tâm thức cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.


Trong Phật giáo, vô vi là trạng thái không sinh, không diệt, không biến đổi, không chịu ảnh hưởng của các quy luật thế giới hiện tượng. Có hai cấp độ vô vi: vô vi tuyệt đối và vô vi tương đối.
  • Vô vi tuyệt đối: Là trạng thái giác ngộ hoàn toàn, giải thoát khỏi mọi khổ đau. Vô vi tuyệt đối là trạng thái bất sinh bất diệt, không có khởi đầu và không có kết thúc. Vô vi tuyệt đối là trạng thái vượt thoát khỏi mọi quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử.
  • Vô vi tương đối: Là trạng thái mà chúng sinh có thể đạt được trong quá trình tu tập, giác ngộ. Ở trạng thái này, chúng sinh đã đạt được sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của vạn vật, không còn bị ràng buộc bởi những suy nghĩ, cảm xúc tiêu cực, và có khả năng kiểm soát được tâm thức của mình.
Các trường hợp về vô vi trong Phật giáo bao gồm:
  • Niết bàn: Là trạng thái giác ngộ hoàn toàn, giải thoát khỏi mọi khổ đau, sinh tử. Niết bàn là trạng thái vô vi tuyệt đối.
  • A la hán: Là quả vị cuối cùng của bậc Thanh Văn, là trạng thái chứng ngộ vô ngã, không còn bị ràng buộc bởi phiền não, khổ đau. A la hán là trạng thái vô vi tương đối.
  • Bồ tát: Là những chúng sinh đã phát tâm Bồ đề, nguyện cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau. Bồ tát có thể đạt đến trạng thái vô vi tuyệt đối, nhưng vẫn còn hiện hữu trong thế giới hiện tượng để tiếp tục cứu độ chúng sinh.
  • Chư Phật: Là những bậc giác ngộ hoàn toàn, đã đạt đến trạng thái Niết bàn tuyệt đối.


A la hán quả là trạng thái vô vi tương đối, là trạng thái giải thoát khỏi phiền não, khổ đau. Tuy nhiên, a la hán vẫn còn hiện hữu trong thế giới hiện tượng, vẫn còn bị ràng buộc bởi thân xác vật lý. Do đó, a la hán quả không phải là vô vi tuyệt đối.


Thế giới Tịnh độ của chư Phật là thế giới của giác ngộ, giải thoát. Thế giới Tịnh độ không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử. Do đó, thế giới Tịnh độ có thể nằm ngoài thế giới hiện tượng. Vì vậy, thế giới Tịnh độ là vô vi tuyệt đối.

Có bạn sẽ thắc mắc:
"Thế giới Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được mô tả là một thế giới thanh bình, an lạc, không có đau khổ. Thế giới này có ao sen, đất tạo bằng bảy báu, có nhiều loại cây cũng tạo bằng thất bảo. Chúng sinh ở cõi Tịnh độ có tuổi thọ vô lượng. Vậy thế giới Tịnh độ có phải là thế giới hiện tượng?"

Trả lời:
Theo cách hiểu thông thường, thế giới Tịnh độ là một thế giới vật chất, được tạo ra bởi các chất liệu quý giá như bảy báu. Thế giới này có cảnh vật tươi đẹp, thanh bình, không có đau khổ. Chúng sinh ở cõi Tịnh độ có thân thể vật lý, nhưng thân thể này không bị ràng buộc bởi các quy luật sinh tử. Tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Tịnh độ là vô lượng, nhưng không phải là trường thọ bất tử.

Theo cách hiểu này, thì thế giới Tịnh độ là một thế giới hiện tượng, nhưng là một thế giới hiện tượng mang tính siêu việt. Thế giới này không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng thông thường, bao gồm quy luật sinh tử.

Tuy nhiên, cũng có những cách hiểu khác về thế giới Tịnh độ. Theo một số cách hiểu, thế giới Tịnh độ không phải là một thế giới vật chất, mà là một thế giới tâm linh. Thế giới này tồn tại trong tâm thức của chúng sinh, không phải là một thế giới vật lý có thể nhìn thấy, chạm vào được.

Theo cách hiểu này, thì thế giới Tịnh độ không phải là một thế giới hiện tượng, mà là một thế giới vô vi.



Thế giới hiện tượng là thế giới của vạn vật, sự vật, hiện tượng, được hình thành bởi nhân duyên. Thế giới hiện tượng luôn luôn biến đổi, vận động, sinh diệt, không có gì là cố định, vĩnh hằng.

Một số hiện tượng cụ thể trong thế giới hiện tượng bao gồm:
  • Các vật thể vật chất: Như núi sông, cây cối, nhà cửa,...
  • Các sinh vật: Như con người, động vật, thực vật,...
  • Các hiện tượng tự nhiên: Như mưa, nắng, gió, bão,...
  • Các hiện tượng tâm lý: Như suy nghĩ, cảm xúc, ý thức,...
  • Các hiện tượng xã hội: Như quan hệ giữa con người, văn hóa,...
  • Các hiện tượng tôn giáo: Như đức tin, tín ngưỡng, lễ nghi,...

Lý giải:
  • Các hiện tượng tâm lý: Là những hiện tượng xảy ra trong tâm thức của chúng sinh, bao gồm suy nghĩ, cảm xúc, ý thức,... Các hiện tượng tâm lý cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.
  • Các hiện tượng xã hội: Là những hiện tượng xảy ra trong xã hội loài người, bao gồm quan hệ giữa con người, văn hóa,... Các hiện tượng xã hội cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.
  • Các hiện tượng tôn giáo: Là những hiện tượng xảy ra trong đời sống tôn giáo, bao gồm đức tin, tín ngưỡng, lễ nghi,... Các hiện tượng tôn giáo cũng luôn luôn biến đổi, vận động, không có gì là cố định, vĩnh hằng.Thế giới hiện tượng thì cụ thể là hiện tượng gì?
Một số hiện tượng cụ thể trong thế giới hiện tượng bao gồm:
  • Các vật thể vật chất: Như núi sông, cây cối, nhà cửa,...
  • Các sinh vật: Như con người, động vật, thực vật,...
  • Các hiện tượng tự nhiên: Như mưa, nắng, gió, bão,...
  • Các hiện tượng tâm lý: Như suy nghĩ, cảm xúc, ý thức,...
  • Các hiện tượng xã hội: Như quan hệ giữa con người, văn hóa,...
  • Các hiện tượng tôn giáo: Như đức tin, tín ngưỡng, lễ nghi,...
  • Tất cả các hiện tượng này đều được hình thành bởi nhân duyên, luôn luôn biến đổi, vận động, sinh diệt, không có gì là cố định, vĩnh hằng.
duc-ph2.jpg
 

Hoàng

Registered
Phật tử
Tham gia
23 Thg 12 2023
Bài viết
133
Điểm tương tác
109
Điểm
43
Thưa Thầy không có phần sử lại bài viết ạ? Tôi muốn bỏ bớt phần cuối vì bị trùng đoạn này:
"
Một số hiện tượng cụ thể trong thế giới hiện tượng bao gồm:
  • Các vật thể vật chất: Như núi sông, cây cối, nhà cửa,...
  • Các sinh vật: Như con người, động vật, thực vật,...
  • Các hiện tượng tự nhiên: Như mưa, nắng, gió, bão,...
  • Các hiện tượng tâm lý: Như suy nghĩ, cảm xúc, ý thức,...
  • Các hiện tượng xã hội: Như quan hệ giữa con người, văn hóa,...
  • Các hiện tượng tôn giáo: Như đức tin, tín ngưỡng, lễ nghi,...":(
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
669
Điểm tương tác
610
Điểm
93
Trường sinh- Bất tử. Bài 9. Trường Thọ.

Phần TRỰC CHỈ. HT. Thích Từ Thông giảng:

Phẩm kinh nầy có nhan đề TRƯỜNG THỌ. Phật dạy phẩm TRƯỜNG THỌ, nhưng không phải là dạy cho con người dưỡng sinh, tập luyện cách nào đó để được sống lâu. Bởi vì giáo lý của đạo Phật nhận thức về con người, cái "tối linh ư vạn vật" nói chung, "tối linh ư động vật" nói riêng, không phải ở nơi sự sống dài hay sống ngắn, ở nơi ít tuổi hay cao tuổi và sự so sánh ít năm hay nhiều năm.

Những cụm từ đó, đối với đệ tử Phật, có học đạo, hành đạo và chứng đạo, nó không có giá trị cao siêu hay một sự vui mừng, hãnh diện gì hết. Cho nên, người Phật tử với vấn đề tử sinh, sinh tử là chuyện "tùy thuận", không cầu nguyện, không khấn vái van xin mà cũng không cần có ý chối bỏ hay trốn chạy sự sống.

Tiêu chỉ mà đạo Phật đặt ra đối với con người là:

Sống một đời sống đáng sống
Sống có an lạc và hạnh phúc
Sống có tự tại và khinh an
Sống có phước đức và trí tuệ
Sống có Bồ đề, Niết bàn hữu thượng và vô thượng.

Hiện thực được những tiêu chỉ đó là đạt mục đích yêu cầu của đời sống đáng sống của con người.

Đền Ngọc Sơn bên hồ Hoàn Kiếm, thủ đô Hà Nội có xác "con rùa thuộc" to tướng, dài hơn một thước tây. Nhà sinh vật học cho biết con rùa ấy sống 500 năm tuổi, tính theo tuổi thọ con người "trường thọ" 500 tuổi, thế mà chẳng thấy ai gọi dù là một tiếng "Ông rùa" giữa cảnh ngựa xe như nước, áo quần như nêm của cố đô Thăng Long nghìn năm văn vật !

TRƯỜNG THỌ đức Phật dạy cho Bồ tát Ca Diếp là sự trường thọ với không gian, với thời gian. Là Bồ tát phải tu học cái nhân trường thọ. Phải phát tâm đại từ, đại bi, mở rộng lòng đại hỉ, đại xả. Phải vun bồi tự giác cho mình, phải huấn đạo tha giác cho chúng sinh. Đem giới, định, tuệ mà truyền trao cho mọi người. Dẫn dụ mọi người quay về với Phật, với Pháp, với Tăng. Gieo trong lòng mọi người hạt giống giác ngộ, giải thoát. Đó là việc làm của Bồ tát hạnh. Việc làm đó phù hợp chân lý. Tu như vậy gọi là "xứng tánh khởi tu". Làm như vậy gọi là "tùy thuận pháp tánh". Đó chính là Bồ tát vun bồi, xây dựng cái nhân "trường thọ" để rồi thọ dụng cái quả "trường thọ" vĩnh cửu với không gian vô tận, thời gian vô cùng.

TRƯỜNG THỌ mà đức Phật dạy: Là Bồ tát phải tu học rằng: Hiện tượng vạn pháp xưa nay bản tánh của nó RỖNG RANG và VẮNG LẶNG, không có lẫn lộn chất liệu nhiễm ô.

TRƯỜNG THỌ mà Bồ tát phải tu học là: Thọ mạng của Như Lai trường thọ hơn hết trong tất cả trường thọ. Sự trường thọ của vạn pháp ví như sông ngòi. Trường thọ của thọ mạng Như Lai ví như tất cả đại dương hợp lại.

TRƯỜNG THỌ Bồ tát Ca Diếp phải học là: Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ. Vì tánh của tam bảo là tánh thanh tịnh bản nhiên vốn không có khởi điểm và cũng không có cuối cùng.

TRƯỜNG THỌ mà Bồ tát phải tu học là: Không được hiểu thân Như Lai là thân tạp thực, có ăn uống, có đi đứng, nằm ngồi. Thân có đi, đứng nằm ngồi, có ăn uống, chỉ là ứng thân Phật vì lợi ích chúng sinh mà thị hiện.

Điều quan trọng cuối cùng, đức Phật dạy Ca Diếp Bồ tát, rằng: Muốn hiểu Phật, phải tu học PHÁP THÂN NHƯ LAI. Tu học PHÁP THÂN NHƯ LAI mới hiểu được thọ lượng của Như Lai. Hiểu được thọ lượng của Như Lai mới hiểu được giá trị thế nào là "trường thọ" của cái từ TRƯỜNG THỌ mà Như Lai đinh ninh dạy bảo.

TRƯỜNG THỌ mà Như Lai dạy ở đây phải được hiểu là: THƯỜNG TRỤ. Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ, Pháp thân thường trụ. Như Lai thường trụ. Niết bàn thường trụ. Tam bảo thập phương thường trụ. Bởi vì chân lý của vạn pháp trong vũ trụ LOẠN KHỞI LOẠN DIỆT như hoa đốm trong hư không. Mà hư không thì không có sinh, không có diệt !

Đừng đau đớn gì hết ! Đừng xót thương gì hết ! Như Lai sắp nhập Niết bàn mà tỏ vẻ xót thương đau đớn là những người đệ tử chỉ có nhục nhãn và nhìn Như Lai bằng cái nhục nhãn khốn khổ của chính mình. Là Bồ tát hãy sử dụng tuệ nhãn mà chiêm ngưỡng Như Lai.

"Nhất thiết pháp bất sanh
"Nhất thiết pháp bất diệt
"Nhược năng như thị giải
"Chư Phật thường hiện tiền
"Hà khứ lai chi hữu…"

Bồ tát Ca Diếp hứa trước Phật, rằng mình sẽ nổ lực phấn đấu tu học, rằng mình sẽ truyền đạt cho mọi người lời dạy của Phật. Rằng TRƯỜNG THỌ đồng nghĩa với chân lý của vạn pháp là THƯỜNG TRỤ. Phật không dạy cách "trường thọ" để kiếm chác thêm dăm ba mươi tuổi nữa...../.


+++++++++++++++++++


Thảo luận và Nhận thức.

* "Trường thọ" là vĩnh cửu phi không gian vô tận, phi thời gian vô cùng.

* TRƯỜNG THỌ mà Như Lai dạy ở đây phải được hiểu là: THƯỜNG TRỤ.- Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ, Pháp thân thường trụ. Như Lai thường trụ. Niết bàn thường trụ. Tam bảo thập phương thường trụ.

Tất cả những Pháp Thường Trụ đó. Được hiểu là Pháp Vô Vi: Vô Vi tức là Niết Bàn, là Bản Thể các Pháp, là Thật Tánh của các Pháp. Cũng tức là Thật Tướng, là Bản Thể của Pháp Duyên Khởi.

Có thể tóm lượt:

* "Trường thọ" là nhìn về mặc Vô Vi (Bản Thể của Pháp Duyên Khởi). Là bản tính của Niết Bàn, của Thường trụ, của Vô Sanh- Bất Diệt.

* Đức Phật A Di Đà hàm nghĩa là VÔ LƯỢNG THỌ cũng tức là "Trường Thọ".


Bất Tử- Trường Sinh Ttt110
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,428
Điểm tương tác
172
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
Thế giới Tịnh độ của chư Phật là thế giới của giác ngộ, giải thoát. Thế giới Tịnh độ không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử. Do đó, thế giới Tịnh độ có thể nằm ngoài thế giới hiện tượng. Vì vậy, thế giới Tịnh độ là vô vi tuyệt đối.

Có bạn sẽ thắc mắc:
"Thế giới Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được mô tả là một thế giới thanh bình, an lạc, không có đau khổ. Thế giới này có ao sen, đất tạo bằng bảy báu, có nhiều loại cây cũng tạo bằng thất bảo. Chúng sinh ở cõi Tịnh độ có tuổi thọ vô lượng. Vậy thế giới Tịnh độ có phải là thế giới hiện tượng?"

Trả lời:
Theo cách hiểu thông thường, thế giới Tịnh độ là một thế giới vật chất, được tạo ra bởi các chất liệu quý giá như bảy báu. Thế giới này có cảnh vật tươi đẹp, thanh bình, không có đau khổ. Chúng sinh ở cõi Tịnh độ có thân thể vật lý, nhưng thân thể này không bị ràng buộc bởi các quy luật sinh tử. Tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Tịnh độ là vô lượng, nhưng không phải là trường thọ bất tử.

Theo cách hiểu này, thì thế giới Tịnh độ là một thế giới hiện tượng, nhưng là một thế giới hiện tượng mang tính siêu việt. Thế giới này không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng thông thường, bao gồm quy luật sinh tử.

Tuy nhiên, cũng có những cách hiểu khác về thế giới Tịnh độ. Theo một số cách hiểu, thế giới Tịnh độ không phải là một thế giới vật chất, mà là một thế giới tâm linh. Thế giới này tồn tại trong tâm thức của chúng sinh, không phải là một thế giới vật lý có thể nhìn thấy, chạm vào được.

Theo cách hiểu này, thì thế giới Tịnh độ không phải là một thế giới hiện tượng, mà là một thế giới vô vi.
Theo Nhận Thức Của Mình Thì : TOÀN BỘ CÁC THẾ GIỚI TRONG HOA TẠNG THẾ GIỚI NÀY Là ; HỮU VI PHÁP -> ĐƯỢC TÁC THÀNH BỞI NHÂN DUYÊN. Các THẾ GIỚI TỊNH ĐỘ CỦA CÁC CHƯ PHẬT Cũng KHÔNG NGOẠI LỆ = Là HỮU VI PHÁP !. Do CÔNG ĐỨC Của CHƯ PHẬT TÁC THÀNH=Các TỐ CHẤT VI TẾ ƯU VIỆT Hơn Nhưng CŨNG KHÔNG NẰM NGOÀI CÁC QUY LUẬT CỦA THẾ GIỚI HIỆN TƯỢNG BAO GỒM QUY LUẬT SANH TỬ .
- KINH HOA NGHIÊM Đã Giảng Giải Rõ Về Các Cõi TỊNH ĐỘ Của Các CHƯ PHẬT Lần Lượt HOẠI DIỆT Trong PHẨM THẾ GIỚI HOA TẠNG.
-Như KINH KIM CƯƠNG NÓI : " Tất Cả Pháp Hữu Vi, Như Mộng Huyễn Bọt Bóng..."
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,428
Điểm tương tác
172
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
Hãy Tra Cứu :
PHẨM ; HOA TẠNG THẾ GIỚI THỨ NĂM ( TRANG 259...Đến 354 )
-KINH HOA NGHIÊM -Việt Dịch HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH .
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
669
Điểm tương tác
610
Điểm
93
Trường sinh- Bất tử. Bài 10. Ý nghĩa: Trường Thọ phi Thời Gian.

Trường thọ là Sống lâu, ở đây là chỉ cho thọ mạng của Như Lai.
Vâng ! Trường thọ là chỉ cho sự bất sanh, bất diệt, là chỉ cho Như Lai thường trụ vô vi vô khởi diệt.

Khi nói đến trường thọ, người ta sẽ gắng liền thọ mạng với một khoảng thời gian.- Người sống được 70 tuổi trường thọ hơn người 69 tuổi; người sống được 80 tuổi trường thọ hơn người 79 tuổi v.v... Ông Bàn Cổ theo truyền thuyết là người sống lâu nhất (trong loài người) được 800 năm tuổi thọ. Vậy trường thọ đã được gắn liền với một khoảng thời gian, mà người thế gian qui ước là năm, tháng, ngày, giờ....

Nhưng thật tế

* THỜI GIAN CHỈ LÀ ÃO MỘNG, KHÔNG THẬT CÓ !

Sao gọi là không thật có ?

Trong chúng ta, ai cũng biết một năm có 12 tháng, một tháng có 30 hoặc 31 ngày, một ngày có 24 giờ vị chi một năm có 365 ngày v.v... Tất cả sự chia chẻ thời gian đó đều dựa trên sự quay của trái đất chung quanh mặt trời và chính nó quay quanh trục của nó... Nếu đến một ngày nào đó mặt trời tắc đi, thì thời gian lại là cái gì ? Là không còn nền tảng để "khái niệm".- Thời gian chỉ là sự ức tưởng.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có bài thơ Nguyện Cầu, nói đến sự ức tưởng của thời gian:

Ta còn để lại gì không?
Kìa non đã lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc, bờ mê
Nghìn thu nửa chớp,
bốn bề một phương....

Vâng. Nghìn thu hay nữa cái chớp mắt, có ý nghĩa bằng nhau.

Thượng tọa Thích Tâm Thiện, có bài viết về TAM TẾ, nói lên ý nghĩa này, như sau:

XV.- Tam tế

Tế là biên tế trước sau mà tiếng Phạn gọi là pùrvàpara-koti-parĩksa. Tam tế là ba ranh giới phân biệt như khởi thủy, hiện hành và chung cuộc, hay đằng trước, ở giữa và đằng sau. Đây là một khái niệm được dùng chỉ cho sự không thể phân định về thời gian và không gian. Thông thường, con người quan niệm rằng có sự khởi thủy và có sự kết cuộc trong dòng sinh thức, cho dù đó là dòng sinh thức đang trầm luân. Nhưng trái lại, Đức Phật dạy dòng sinh thức ấy là vô thủy (không có khởi đầu) và vô chung (không có kết thúc). Tất cả đều đang vận hành, như là sự vận hành của thế giới thực tại. Đó là một sự vận hành luân lưu bất tuyệt mà tri thức của con người sẽ không bao giờ đạt đến, trừ phi nó chấm dứt toàn bộ cơ cấu điều động trong thế giới đối lập và tương quan của căn, trần và thức. Vì thế, trong sự trôi chảy của dòng thực tại, không có cái gọi là quá khứ, hiện tại, vị lai, đằng trước, ở giữa, đằng sau v.v... Sự phân định về biên của cả không gian và thời gian là điều được sinh khởi trong ý niệm. Nó chỉ có trong ý niệm, chứ không có trong thực tại. Vả lại, không gian và thời gian bản chất của nó vốn không có tự tính và không có thực thể. Do đó, mọi ý niệm về nó đều mang tính chất công ước.

http://thuvienhoasen.org/a3987/chuong-viii-chu-giai-cac-thuat-ngu-trong-trung-luan

* Trường thọ phi "Thời gian".

Đại Trí Độ Luận dạy về vấn đề thời gian, qua tư tưởng VÔ THỈ KHÔNG, như sau:

* Vô Thỉ Không.

LUẬN:

....... Đây là pháp quán thời gian chẳng có đầu mối; quán đầu mối thời gian từ vô thỉ là KHÔNG.

....... Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, chuyển thân này sang thân khác. Thân này do nghiệp lực đời trước dẫn sanh, rồi nghiệp duyên tạo ở đời này lại trở thành nghiệp lực dẫn sanh ở đời sau. Cứ như vậy lần lượt kế truyền mãi mãi. Thế nhưng, chẳng có pháp ban đầu cũng chẳng có pháp rốt sau. Vì sao ? Vì trước sanh sau chết, rồi trước chết sau sanh, chẳng có nhân, chẳng có duyên, chẳng có gì sanh, chẳng có gì diệt cả. Như vậy là Vô Thỉ Không.

....... Trong kinh Phật dạy các Tỳ kheo rằng :"Này các Tỳ Kheo! Chúng sanh chẳng có đầu mối. Do vô minh che tâm, do ái chấp sâu dày mà phải chịu qua lại mãi miết trong các nẽo đường sanh tử, nên đầu mối là bất khả đắc. Chúng sanh là vô thỉ, các pháp cũng vô thỉ, mà vô thỉ là bất khả đắc, nên nói là Vô Thỉ Không".
(hết trích)

Thưa Các Bạn.

Đức Phật là người đã ra khỏi mọi lầm chấp của Ý thức, đã không còn vô minh, bởi vậy sự vô minh về thời gian không tác động lên pháp thân Phật. Hay nói cách khác, Sự trường thọ của đức Phật là:

Trường thọ phi "Thời gian". Nghĩa là: Sự Trường Thọ không bị lệ thuộc bởi Thời gian.

đho1.jpg
 

Hoàng

Registered
Phật tử
Tham gia
23 Thg 12 2023
Bài viết
133
Điểm tương tác
109
Điểm
43
Theo Nhận Thức Của Mình Thì : TOÀN BỘ CÁC THẾ GIỚI TRONG HOA TẠNG THẾ GIỚI NÀY Là ; HỮU VI PHÁP -> ĐƯỢC TÁC THÀNH BỞI NHÂN DUYÊN. Các THẾ GIỚI TỊNH ĐỘ CỦA CÁC CHƯ PHẬT Cũng KHÔNG NGOẠI LỆ = Là HỮU VI PHÁP !. Do CÔNG ĐỨC Của CHƯ PHẬT TÁC THÀNH=Các TỐ CHẤT VI TẾ ƯU VIỆT Hơn Nhưng CŨNG KHÔNG NẰM NGOÀI CÁC QUY LUẬT CỦA THẾ GIỚI HIỆN TƯỢNG BAO GỒM QUY LUẬT SANH TỬ .
- KINH HOA NGHIÊM Đã Giảng Giải Rõ Về Các Cõi TỊNH ĐỘ Của Các CHƯ PHẬT Lần Lượt HOẠI DIỆT Trong PHẨM THẾ GIỚI HOA TẠNG.
-Như KINH KIM CƯƠNG NÓI : " Tất Cả Pháp Hữu Vi, Như Mộng Huyễn Bọt Bóng..."
Cảm ơn đạo hữu đã dành thời gian đọc và góp ý
  • Để giải thích hợp lý quan điểm này, chúng ta cần xem xét các kinh điển Phật giáo, đặc biệt là Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Kim Cương.
Kinh Hoa Nghiêm
Trong Kinh Hoa Nghiêm, có phẩm Thế giới Hoa Tạng, trong đó có đoạn nói về sự diệt tận của các thế giới Tịnh độ. Điều này có nghĩa là các thế giới Tịnh độ cũng là hữu vi pháp, cũng bị chi phối bởi các quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử.

Nhưng, Kinh Hoa Nghiêm cũng nói rằng các thế giới Tịnh độ của chư Phật là những thế giới thanh tịnh, an lạc, không có đau khổ. Các chúng sinh ở cõi Tịnh độ đã đạt được giác ngộ, giải thoát, không còn bị ràng buộc bởi phiền não, khổ đau.

Có thể hiểu rằng, các thế giới Tịnh độ của chư Phật là những thế giới hiện tượng, nhưng là những thế giới hiện tượng mang tính siêu việt. Thế giới này không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng thông thường, bao gồm quy luật sinh tử. Nhưng, các thế giới Tịnh độ này vẫn có thể bị diệt tận theo thời gian.

Kinh Kim Cương
Trong Kinh Kim Cương, có câu: "Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, như sương mù, như tia chớp, nên nên quán chiếu." Câu này cũng có nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều là tạm bợ, vô thường, và không có thực thể.

Có thể hiểu rằng, các thế giới Tịnh độ cũng là những pháp hữu vi, nên cũng là tạm bợ, vô thường, và không có thực thể.

Tuy nhiên, các thế giới Tịnh độ là những thế giới thanh tịnh, an lạc, không có đau khổ. Các chúng sinh ở cõi Tịnh độ đã đạt được giác ngộ, giải thoát, nên họ không còn bị ràng buộc bởi sự vô thường, tạm bợ của các pháp hữu vi.

Giải thích:
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể giải thích quan điểm này như sau:
  • Thế giới Tịnh độ của chư Phật là những thế giới hiện tượng, nhưng là những thế giới hiện tượng mang tính siêu việt. Thế giới này không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng thông thường, bao gồm quy luật sinh tử. Tuy nhiên, các thế giới Tịnh độ này vẫn có thể bị diệt tận theo thời gian.
  • Các thế giới Tịnh độ là những thế giới thanh tịnh, an lạc, không có đau khổ. Các chúng sinh ở cõi Tịnh độ đã đạt được giác ngộ, giải thoát, nên họ không còn bị ràng buộc bởi phiền não, khổ đau.
Lý giải
Thế giới Tịnh độ là một thế giới mà chúng sinh có thể đạt được giác ngộ, giải thoát. Thế giới này là một thế giới của hạnh phúc, an lạc, không có đau khổ.

Thế giới Tịnh độ có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có thể hiểu, thế giới Tịnh độ là một thế giới vật chất, được tạo thành bởi các chất liệu châu báu quý giá. Thế giới này có cảnh vật tươi đẹp, thanh bình, không có đau khổ. Chúng sinh ở cõi Tịnh độ có thân thể vật lý, nhưng thân thể này không bị ràng buộc bởi các quy luật của thế giới hiện tượng, bao gồm quy luật sinh tử. Tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Tịnh độ là vô lượng, nhưng không phải là trường thọ bất tử.
  • Cũng có thể hiểu, thế giới Tịnh độ không phải là một thế giới vật chất, mà là một thế giới tâm linh. Thế giới này tồn tại trong tâm thức của chúng sinh, không phải là một thế giới vật lý có thể nhìn thấy, chạm vào được bằng các giác quan vật lý. Thế giới này chỉ có thể được trải nghiệm bằng tâm thức giác ngộ.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
669
Điểm tương tác
610
Điểm
93
Trường sinh- Bất tử. Bài 11. Thời Gian là Pháp hữu vi, là Ão mộng.


Thực chất.- Thời Gian chỉ có trong ý niệm, chứ không có trong thực tại. Vả lại, thời gian bản chất của nó vốn không có tự tính và không có thực thể. Do đó, mọi ý niệm về nó đều mang tính chất công ước.

Do vì bản chất là công ước, nên Thời gian chỉ là ão vọng. Như câu chuyện Giấc Mộng Nam Kha:
mộng.jpg

Điều câu chuyện muốn ám chỉ nhất chính là “nhân sinh như mộng ảo”, Thời gian đời người như một giấc chiêm bao…

Vào thời nhà Đường có một người tên Thuần Vu Phần, tính tình nghĩa hiệp hào phóng, mỗi tội ham thích uống rượu, từng làm đến chức phó tướng, nhưng vì đắc tội với trưởng quan mà bị giáng chức, từ đó về sau phóng túng bản thân, uống rượu quá độ đến mức sinh bệnh.
Nhà của Thuần Vu Phần ở phía Đông quận Quảng Lăng, trong nhà có một cây hòe lâu năm, cành lá sum xuê tươi tốt. Một ngày, có hai người bạn dìu anh ta về nhà, nói: “Huynh hãy nghỉ ngơi một lát, chúng tôi đi cho ngựa ăn, rửa chân, chờ huynh khỏe lại rồi chúng ta đi tiếp”.
Thuần Vu Phần tựa đầu vào gốc hòe, trong lúc mơ mơ màng màng thì trông thấy hai sứ giả áo tím đi tới bái kiến, nói: “Quốc vương nước Hòe An phái chúng tôi tới đây mời ngài đi một chuyến”.
Thuần Vu Phần bất tri bất giác theo họ lên một cỗ xe màu xanh, hướng gốc cây hòe mà lao tới. Sau khi tiến vào bên trong, thấy 2 ven đường có sông có núi, con đường cũng giống như tại nhân gian, tuy nhiên, đó xác thực là một thế giới khác.
Lúc tiến vào trong thành, trên cổng thành có đề 4 chữ “Đại Hòe An Quốc”. Một số quan viên đã chờ sẵn, nghênh đón Thuần Vu Phần vào nội cung.
Ngồi phía trên đại điện là một vị Quốc vương cao lớn, uy vũ. Ông ta nói với Thuần Vu Phần: “Phụ thân của ngươi không chê đất nước chúng ta nhỏ bé, đã kết thông gia với ta, vậy giờ ta sẽ đem nhi nữ của ta gả cho ngươi”.
Cha của Thuần Vu Phần tham gia chiến đấu tại biên cảnh, đã bị quân địch bắt đi từ lâu mà không có tin tức gì, trong lòng anh ta cảm thấy kỳ lạ, nhưng cũng không dám hỏi thêm điều gì.
Tối hôm đó, Thuần Vu Phần cùng công chúa đẹp như tiên cử hành hôn lễ long trọng. Hết thảy lễ nghi ở không gian đó cũng không khác biệt gì mấy so với tại nhân gian. Cứ như vậy, Thuần Vu Phần sống một cuộc sống hạnh phúc cùng với công chúa của Hòe An quốc.
Một ngày, Thuần Vu Phần nói với Quốc vương: “Thần và cha đã 17, 18 năm không gặp nhau, nếu như đại vương biết ông ấy ở đâu, xin hãy cho thần được gặp ông ấy một lần”.
Quốc vương nói: “Ngươi có thể viết thư, ta sẽ gửi cho ông ấy, ngươi không cần tự mình đi”.
Thuần Vu Phần liền viết một lá thư gửi cho cha. Không lâu sau, anh đã nhận được hồi âm của cha, trong thư vẫn là những lời dặn dò ân cần, còn nói rằng bản thân đang ở một nơi xa xôi, không thể gặp mặt được. Cuối cùng cha anh nói một câu: “Đến năm Đinh Sửu, ta và con sẽ gặp lại nhau”.
Về sau, Thuần Vu Phần làm chức Thái thú quận Nam Kha, quyền uy càng ngày càng lớn, thế nhưng, công chúa đột nhiên mắc bệnh mà qua đời. Có vị Thượng thư đã tâu với Quốc vương, nói rằng những tai ương này đều là do quyền thế của Thuần Vu Phần quá lớn mới tạo thành như vậy.
Quốc vương trong tâm nảy sinh ngờ vực, liền nói với Thuần Vu Phần: “Ngươi rời quê hương đã lâu rồi, hãy trở về gặp thân tộc của ngươi đi”.
Thuần Vu Phần nói: “Đây chính là quê nhà của thần, còn phải đi về nơi nào nữa chứ?”
Quốc vương nói: “Ngươi vốn ở nhân gian, không phải ở chốn này”.
Thuần Vu Phần đột nhiên cảm giác được chính mình đang ở trong mộng cảnh, mơ mơ màng màng thật lâu, nhớ tới sự tình trước đây, liền rớt nước mắt mà thỉnh cầu được hồi hương.
Sau đó, anh ta cùng hai vị sứ giả lại đi dọc theo con đường ra khỏi gốc cây, thấy chính mình đang nằm tựa đầu vào cây, nghe thấy sứ giả hô lớn tên mình liền tỉnh dậy.
Sau khi tỉnh lại, anh ta trông thấy bằng hữu đang ngồi trên giường ngâm chân, mặt trời còn chưa xuống núi, ly rượu chưa uống cạn vẫn còn đang dang dở ở cửa sổ phía Đông. Hóa ra, ở không gian kia đã trôi qua một đời, nhưng tại nhân gian mới chỉ trong chốc lát.
Sau đó, Thuần Vu Phần nhìn thấy dưới gốc cây hòe có một hang động nhỏ, chặt đôi thân cây ra, phát hiện bên trong đó có hàng trăm con kiến, tập trung tại một nơi đang bảo vệ hai con kiến lớn. Hóa ra đây chính là Hòe An Quốc mà anh đã gặp trong giấc mộng.
Thuần Vu Phần nhớ lại những sự tình trước đây, hết thảy dấu vết trong mộng đều tương xứng, vì thế bừng tỉnh ngộ về nhân thế hư ảo, cảnh đời là ngắn ngủi, từ đó về sau dốc lòng tìm đạo tu hành, tránh xa tửu sắc. Ba năm sau thì đột ngột qua đời, năm đó chính là năm Đinh Sửu mà phụ thân anh ta đã từng nói.
Trong văn chương thường dùng điển tích này với các từ ngữ: Giấc Nam Kha, giấc hòe, để chỉ cuộc đời là phù du mộng ảo; công danh phú quý như giấc chiêm bao (hết trích).- Ở đây muốn chỉ Thời Gian chỉ là Ão mộng.​
Do Thời gian do Ý Thức, do qui ước giả lập và Duyên hợp mà có nên Thời gian là Pháp Hữu Vi, sẽ bị biến ão theo duyên.-

Bởi thế .- KHÔNG THỂ TÌM THẤY VÔ SANH- BẤT TỬ. VÔ VI, NIẾT BÀN trong pháp Thời gian hữu vi.- Hay nói cách khác: Xã ly ý niệm Thời gian (Hữu vi), mới đến được Vô Vi, đến được Vô Sanh- Bất Tử.

Như thế là: Trường thọ vượt Thời gian vô tận.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
669
Điểm tương tác
610
Điểm
93
Trường sinh- Bất tử. Bài 12. Trường thọ vượt Không gian.


Đức Phật là người đã ra khỏi mọi lầm chấp của Ý thức, đã không còn vô minh, bởi vậy sự vô minh về Không gian không tác động lên pháp thân Phật. Hay nói cách khác, Sự trường thọ của đức Phật là:

Trường thọ phi "Không gian". Nghĩa là: Sự Trường Thọ không bị lệ thuộc bởi Không gian.

Nói cách khác. Sự Vô Sanh- Bất Tử của Đạo Phật không bị hạn cuộc Thiên Đường hay Địa Ngục. Không hệ thuộc Đông hay Tây. Nam hay Bắc. Không hệ thuộc Cực Lạc hay Ta Bà v.v...(Các nơi đó có hay không tuỳ theo Tâm, mà không phụ thuộc Không gian)- Vì Phương hướng chỉ là Pháp Hữu Vi. Pháp Hữu Vi là pháp Huyễn.- Nếu trú nơi đó thì không thể Có được Sự Vô Sanh- Bất Tử. Sự Vô Sanh- Bất Tử.- Chỉ đạt được ở Vô Vi Pháp.

Với ý nghĩa này. kinh Bát Nhã, quán 18 Không. Nói về Đại Không, triển khai lý Phương Không. Như sau:

Thế nào gọi là đại không ?

....... Này Tu Bồ Đề ! 10 phương gồm phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, bốn phương chéo, phương trên, phương Dưới đều là không, đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của 10 phương tự như vậy, nên gọi là đại không.

* Phương Không: Là pháp quán Các Phương Tướng là không thật.

* Giải thích v/đ Điên đão về Vũ Trụ- Thế giới.

KHÔNG GIAN CHỈ LÀ ÃO TƯỞNG, KHÔNG THẬT CÓ.

Về Không gian chúng ta sẽ quán:
1+ Các Phương hướng.
2+ Pháp Giới Nhất Chân.
3+ Các Đại Không thật có(nghĩa là yếu tố lớn để hình thành Vũ trụ là đất, nước, gió, lửa v.v..)

1+ Các Phương hướng.

Hỏi: Trong Phật pháp không thấy nói đến tên của các phương, vì phương không được xếp vào 5 ấm, 12 nhập, 18 giới. Trong Phật pháp cũng không nói các phương là pháp có thật, vì tìm khắp các nhân duyên cũng đều là bất khả đắc.
Nay vì sao lại nói trong 10 phương có các đức Phật và các vị Bồ tát?

Đáp: Đây là tùy thuận pháp thế gian mà nói có phương, thật ra thì phương là bất khả đắc vậy.
Vì sao nói: “Không có phương”? Trong Pháp tạng Phương không được nên lên trong các uẩn, các xứ, các giới
Lại nữa, phương là pháp thường tướng. Ví như trong kinh có nói mặt trời mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây, lại cũng có nói đến Đông, Tây, Nam, Bắc... Như vậy là có phương tướng. Sao lại nói chẳng có phương tướng?
Đáp: Không thể nói như vậy được. Ví như núi Tu Di ở Tây Vức, đứng giữa 4 Châu thiên hạ. Khi mặt trời đúng giờ ngọ ở cõi Uất Đan Việt thì ở cõi Phất Bà Đề mặt trời vừa mới mọc lên. Khi mặt trời đúng giờ ngọ ở cõi Phất Bà Đề thì ở cõi Diêm Phù Đề, mặt trời vừa mới mọc lên. Nếu như người ở cõi nào cũng chọn phương của mặt trời mọc làm phương Đông, thì phương Đông ở 4 Châu thiên hạ khác nhau. Như vậy phương tướng chẳng thật có. Vì sao? Vì chẳng có phương nào thật sự được gọi là phương Đông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc... cả. Đây chỉ là một quy ước.

Thế gian có thói quen gọi phương mặt trời mọc là phương Đông, phương mặt trời lặn là phương Tây vậy thôi. Nếu ở mỗi cõi đều gọi phương mặt trời mọc là phương Đông thì rõ ràng là phương Đông của cõi này chẳng phải là phương Đông của cõi khác. Như vậy phương tướng có biến đổi mà đã có biến đổi thì là vô thường, đã là vô thường thì không phổ cập.

Bởi nhân duyên vậy nên nói “Phương chỉ có danh mà chẳng thật có”.

Lại nữa trong Chân Lý, thì:

2+ Pháp Giới Nhất Chân.

Nghĩa là cả Pháp Giới Vũ Trụ này, không có hai thể khác nhau, là Nhất Chân Như, là Bất Nhị.

3+ Các Đại Không thật có: nghĩa là yếu tố lớn để hình thành Vũ trụ là đất, nước, gió, lửa v.v... đều là tướng duyên hợp.- Nên cũng không là Thật có.

* 10 Phương Thế Giới đều do cộng nghiệp của chúng sanh tạo thành và đều chỉ do thức biến hiện.

* Vì là Pháp do Thức Biến hiện nên là Như Huyễn, là Pháp Hữu Vi.

Không gian, phương hướng sự thật thì chỉ do nội thức biến chuyển. Nghĩa là Pháp Hữu Vi.- Nên không thể có Sự Vô Sanh- Bất Tử.

Bất Tử- Trường Sinh Vkh110

Nói cách khác: Phải Xã ly ý niệm Không gian- Phương hướng (Hữu vi), mới đến được Vô Vi, đến được Vô Sanh- Bất Tử.


Như thế là: Trường thọ vượt Không gian vô cùng.
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
669
Điểm tương tác
610
Điểm
93
Trường sinh- Bất tử. Bài 13.- Vô Vi

Kính các Bạn. Phải Xã ly ý niệm Không gian & Thời gian (Hữu vi), mới đến được Vô Vi, đến được Vô Sanh- Bất Tử.

Vậy.- Vô vi là gì mà từ đó có được Vô Sanh Bất Tử ?

Đối với Tôn Giáo khác.- Vô Vi là chỉ cho cái huyền bí, siêu nhiên của Đạo (thuộc về Huyền thuật) ! Giáo lý Phật thì khác hẳn cái nghĩa Vô Vi này.

* Với Đạo Phật:

Vô Vi tức là Niết Bàn (NB phi Thời Không), là Bản Thể các Pháp, là Thật Tánh của các Pháp. Cũng tức là Thật Tướng, là Bản Thể của Pháp Duyên Khởi.

(theo thiền sư Ajahn Sumedho, Tâm và đạo, )

Thế thì pháp vô vi là gì ?

Bạn không thể thấy, ngửi, nếm, xúc chạm, nghe, hay suy nghĩ về pháp vô vi nhưng nó là nơi mà tất cả pháp hữu vi hội tụ về. Nó không thuộc về cảm giác. Nó là sự an tịnh. Nó không sinh khởi hay hoại diệt, không có sự bắt đầu hay chấm dứt. Chính nó là cội nguồn mà từ đó tất cả các pháp hữu vi được sinh khởi.

Khi để tất cả sự việc hiện lên trong tâm và ra đi, bạn đang để cho chúng trở về với pháp vô vi hay pháp không điều kiện (tức là nhân duyên khởi).

Thế thì mục tiêu tối hậu của con người là thấy và biết rằng các pháp điều kiện (nhân duyên sanh) chỉ là những điều kiện, và pháp không điều kiện (vô vi) chỉ là pháp không điều kiện..... Và đạo Phật là chiếc xe, là quy ước, là cách thức, là truyền thống giúp bạn phá vỡ và đi xuyên qua những ảo tưởng, thoát khỏi những trói buộc của những điều kiện của thế giới luân hồi sinh tử.

Khi thấy được pháp không điều kiện, hay pháp vô vi, hay Niết bàn, lúc đó, bạn đang ở trạng thái vô sanh và bất tử.

* Theo Duy Thức Học, có 6 pháp Vô Vi:

Đó là:

1/Hư không vô vi: không ngã không pháp rời các cấu nhiễm rỗng rang như hư không, chơn như, pháp tánh. Không dùng ý thức suy nghĩ, nó phi sắc phi tâm, không cấu tịnh, sanh, diệt và tăng giảm nên gọi là vô vi.

2/Trạch diệt vô vi: dùng trí huệ vô lậu lựa chọn diệt trừ nhiễm ô, nên chơn như vô vi mới hiện

3/Phi trạch diệt vô vi: không cần lựa chọn diệt trừ các phiền não, có 2:

a/Tánh chơn như vốn thanh tịnh, không cần lựa chọn, diệt trừ phiền não nhiễm ô nó mới có

b/Các pháp hữu vi thiếu duyên không sanh khởi, nên pháp vô vi được hiện nên gọi là phi trạch diệt

4/Bất động diệt vô vi: đệ tứ thiền lìa được 3 định dưới ra khỏi tam tai (đau binh, thủy, hoả) không bị mừng, giận, ghét, thương,.. làm chao động nơi tâm
**BẤT ĐỘNG DIỆT VÔ VI:Nghĩa là Diệt Đế vốn Như Như Bất Động (Thường trụ - Vô Sanh).

*Thế nào là Bất Động ?

Nghĩa là thể Tâm Lặng yên không đến không đi, không qua không lại .

Niết Bàn Tĩnh lặng bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm.

Bởi vì Tâm Vốn đã cùng khắp,nên không thể sanh diệt, đến đi, thêm bớt.

Niết Bàn Vô Trụ Xứ nên Bất Động Như như.

5/Thọ tưởng diệt vô vi: khi được diệt tận định, diệt trừ thọ và tưởng tâm sở nên gọi thọ tưởng diệt vô vi

6/Chân như vô vi: không phải vọng gọi là Chơn (biến kế sở chấp) không điên đảo gọi là Như (y tha khởi) tức là thật tánh của các pháp (viên thành thật)
van_th10 (2).png

Tóm lại: Vô vi là tên khác của niết Bàn. Có Bồ Đề là có Niết Bàn, có Niết Bàn (Vô Vi) thì Vô Sanh Bất Tử.
Kính các Bạn; Bồ Đề là gì ? Mà có Bồ Đề là có Niết Bàn, có Niết Bàn (Vô Vi) thì Vô Sanh Bất Tử. ?
Vấn đề này chúng ta sẽ Thảo luận ở

Phần II.- Kim Cang Thân (tiếp theo sau đây).
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 2)
Bên trên